Thứ Tư, tháng 8 22

Sài Gòn Tạp Pín Lù (Vương Hồng Sển) Thay lời tựa: Sài Gòn “tạp pín lù” là gì?

Nếu dịch đúng ra Hán Việt, là “Sài Gòn đã biên lô” vẫn chưa ai hiểu là gì? Tả, tạp là “đả”, đánh; Pín - có hai nghĩa: “pín” là đuôi sam thằng Chệc đời Mãn Thanh, nhưng đây pín có nghĩa là “biên” (Hán tự) và “bên, gần bên” (Nôm). Lù là lò, lò lửa.

Tạp pín lù, là “đả biên lô”, tức là món ăn nấu chín gần bên lò lửa; cũng như “ăn sán lẩu” là ăn thịt sống nhúng vào nước sôi bắt trên lò lửa nóng. Số là người Tây bày ra một từ khí làm bằng chì, thiếc, vật kim khí có chân cao giữa khoét lỗ đặt vài cục than cháy, chung quanh là nồi chứa nước thịt ngọt, khách ăn tự lựa từng món ngon: mề gà, lòng heo, ruột già, ruột non, dồi trường, tự gắp bằng đũa và nhúng vào nước thịt đang sôi, rồi tự gắp qua chén và không cần biết món nhúng đã chín hay còn sống sượng. Rồi thì rượu cay, rau sống ngốn nghiến chàm ngoàm cả miệng không thốt ra lời được, món ăn ấy gọi “ăn sán lẩu”, dịch ra Hán tự là sán - sanh (thức ăn còn sống, chưa chín), “lẩu”: lò (lô), ăn Sanh lô, nhưng nếu nói: “sanh lô” ba Tàu không hiểu, phải nói theo họ “ăn sán lẩu”, hoặc ăn “cù lao” vân vân.

Tiếng miền Nam rắc rối pha chè, người ngoài vô đây, xin khuyên đừng ham “nói chữ”.

Sài Gòn tạp pín lù, nôm na là Sài Gòn thập cẩm, Sài Gòn tào lao, Sài Gòn ba lăng nhăng, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Sài Gòn sán lẩu cũng được, nhưng tạm dùng danh từ tạp pín lù. Nếu nói theo Bắc thì “Sài Gòn thập cẩm; nếu nói theo Trung thì “Sài Gòn tào lao”, nhưng tác giả sanh tại Sóc Trăng (Nam Kỳ) nên: tập nầy danh gọi Sài Gòn tạp pín lù là vì vậy.

Thay lời tựa

Thư một người chửa quen biết, gởi cho tác giá “Sài Gòn năm xưa” Thưa ông,

Tôi là V.A. hiện ở Paris chưa tiện nói danh tánh và địa chỉ, thơ từ xin dùng lối poste réstante, hộp thơ số...

Đời nầy không nên thấy sang vội bắt quàng làm họ. Về sang, đúng ra ông chưa có, duy có nhà còn y như cũ, đồ ngoạn hào không hảo hớt, văn viết còn có người đọc. Quyển “Sài Gòn năm xưa” còn người tìm mua vởi giá cao, quả ít ai được như vậy, tạm gọi rằng sang. Tôi nay, quê quán Mỹ Tho (Rạch Gầm), chồng chẳng may sớm thất lộc, cùng quê vởi quê vởi ông ở Sốc Trăng, bắt quàng được chứ?

Giũ lời tiên phu ký thác, nay tôi nhờ người thân tín nầy cầm bức thơ và luôn tập nhật ký cuộc đời cửa hai tôi, nhờ ông điểm xuyết, tôi đàn bà viết còn vụng về, sau nầy có dịp tiện tưởng ông nên cho vào “Sài Gòn năm xưa” gọi bổ túc. Ông viết “Sài Gòn năm xưa”, xuất bản đã hai lần, sách biên khảo được vậy là khá, nhưng tại sao ông bỏ sót không viết đầy đủ về nhóm chị em chúng tôi. Trong sách ông kể đủ, nào Trần Bá Lộc bợ Tây, bạo tàn, nào Đỗ Hữu Phước bán đứng liệt sĩ Thủ Khoa Huân, làm giàu trên xương máu đồng bào, nào Sáu Ngọ vua cờ bạc... nhưng vì sao ông chừa giới ăn chơi, đám công tứ bột, và nhóm giang hồ lưu lạc, mượn yên hoa son phấn hành nghề? Vâng, nhóm son phấn ẩy, cứ gọi đúng tên, có chi rằng nhục, có tên để gọi. có chữ để đọc, kêu xách mé hại gì? Hay vì yêu hoa nhắc đến truỵ lạc, ông sợ nên né tránh?

Miệng tụng kinh Di Đà, lòng chứa sẵn một bồ dao găm. Ấy là quân giấu hình, giấu dạng. Ban ngày ăn tương chao niệm Phật, trời sắp tối, tay cầm chuỗi, tay gõ mõ, mắt láo liếng xanh khách. Khách xuống xe đi lỏn nhà , nhè nhà kế bên cũng thờ thần mày trắng bước vô, kinh đọc chữ cà lăm, chữ vấp váp, thà làm nghề nằm ngửa như bọn tôi mà ít tội hơn. Thế gian truỵ lạc còn nhiều làm sao kể xiết? Xã hội ngày nay đã dường thế, ông có giấu cũng không xong. Phàm xấu che tốt khoe là thường lệ, thơm gì đời con đĩ mà thuật ra đây. Nhưng xin chớ quên chút công của chị em chúng tôi mới phải. Những năm 1920 đến 1945, ruộng Hậu Giang nhờ kinh xáng khai thông mà phát, mùa trúng liên tiếp, lúa lại được giá, con cháu các địa điền chủ lớn đua nhau giỡn với tiền rừng, bạc biển. Có thằng, cha chết chưa kịp chôn, đã ăn cáp bằng khoán, ôm đi cố cho chà setty (chetty) lấy bạc cho kịp mua xe chở em đi ăn nem hứng gió. Các chủ ruộng có con trai đều háo hức cho sang Pháp, thi đậu bằng trung cấp thứ thiệt làm nghề thầy cãi, thày thuốc, thầy nhổ răng, nay thảy đều già cóp. Đám khác không biết học chữ, thì lại học khiêu vũ, nhiếp ảnh, cắt may về xứ mở phòng chụp hình (Antoine Giàu”, lập nhà may Âu phục (Nguyễn Phong Tân), đồng bào hại đồng bào, thời Nam kỳ quốc, bắt nói cho sửa “Tân Sơn Nhứt’ hễ nói “nhất’ thì a-lê hấp cho chầu Diêm Vương, tưởng hưởng lộc Tây lâu dài, té ra vẫn đền mạng bên Pháp vì tội bán nước, chạy trời không khỏi nắng. Có nhóm ít tiền, cho con ra học trường cao đẳng ở Hà nội để làm đốc phủ, đốc sự, mộng Huỳnh lương chưa tỉnh, sự nghiệp đã đi đời, kẻ đau tim chết sớm, kẻ chờ con lãnh sang nước ngoài chở thời, các con chủ điền muốn xứng danh “công tử bột, phá gia chi tử”, nếu không có chị em chúng tôi tiếp tay, xô đẩy làm cho cái xã hội ăn chơi đàn đúm trào Pháp mau sụp đổ. Có thế ấy thì cái xã hội này mới có chỗ mọc lên. Ông không viết trong “Sài Gòn năm xưa” nên chị em chúng tôi phải nhắc. Đừng gọi là phá gia chi tử, họ không hư hơn ai kia đâu. Họ có quyền tung vãi đồng tiền của ông cha họ làm giàu bằng mồ hồi nước măt tá điền, nay bọn con tá điền trở về báo thù, ấy là quả báoo nhãn tiền, chớ đâu phải thiên đao bất công. Nếu không có chị em chúng tôi hốt vãi quăng bừa thì đồng tiền thất đức của chủ điền chủ ruộng vẫn khoá chặt trong tủ sắt hiện Bauche, hiệu Fichet, làm sao lọt tới tay bác lái xe, chú thổi bếp. Gánh nước làm chi cho đau vai, ở trong làng lấy một chồng làm chi để sanh con lũ khủ cực thân, sức đàn bà có bao lăm và chỉ có làm nghề không vốn nầy, ủa quên, vốn là nhan sắc trời dành, hoạ may mới cất đầu lên được, không chi cũng ăn mặc sung sương trong một thời gian. Không bán dạng thuyền quyên. không xuống đường làm đĩ để chết rục trong xó hè à? Làm đĩ có ba bốn đường vả lại có chồng mà còn ăn vụng lại thúi hơn là làm đĩ công khai. Chúng tôi sanh sống trong những năm 1920-1945, thò bốc trong túi công tử bột, ăn to xài lớn, tung vãi: đục, khoét, gặm, nhấm, làm đủ mọi cách, xã hội như nay mới có. Tưởng không nên cười con đĩ và nên chấm công cho gái giang hồ. Bao nhiêu nước mắt của chị em chúng tôi, nếu có phép nào gom lại được thì sẽ biến thành “khổ hải” bao la. Bao nhiêu nỗi oan khúc bất công của xã hội đối với chị em chúng tôi, nếu có phép quy tụ lại thì ắt hoá ra lửa, lửa nầy đủ để đốt bầu trời nầy tan ra mây khói, và khói nầy sẽ là thiên hồn địa ám, mù mịt còn dày hơn bên Anh quốc những tháng sa mù, đèn Diogène đâu dễ rọi thấy đường

Chúng tui nào muốn phơi hày sự tích không thơm tho cho công chúng biết. Riêng tôi nay đã yên thân chốn nầy, không khác kẻ dưới sông đã lội được lên bờ, bụi trần gội sạch, há vạch lưng cho khách qua đường như ông đếm thẹo hay sao. Có chị nào lớp nhỏ, lên chưn quá, ông nên đốt bớt cho vừa. Vừa tập tành, chân chưa sạch phèn, đã tưởng mình khôn hơn thiên hạ!

Cái kiếp má hồng, sớm tươi bao nhiêu, chiều càng lợt bấy nhiêu, chị em bạn gái chở ỷ tài và chớ quên điều ấy.

Lòng chai dạ đá là lòng con đĩ ít học rnhư tôi, ăn cháo đá bát là bụng con đĩ giận đời bỏ rơi thành ra bất mãn (như tôi). Lúc còn son sắt, những ham bay nhảy đua đòi, khác nào chim non vừa lìa ổ mẹ đang tập bay, và khi lông cánh đầy đủ, máu tham hơi đồng càng hăng, nào còn hiêt trởi kia có mắt. Đến khi chung cuộc ai từng đọc truyện Tây Du ắt nhớ lúc lão Tôn Ngộ Không thi tài cùng hư Lai. Tôn dùng cân đẩu vân nhảy một nhảy tưởng đụng nóc trời. Khi gíác ngộ, xem lại: mình vẫn đứng lé đé dưới chân Phật tổ và vũng nước dơ để làm dấu, nay lớn không hơn bọt miếng con thằn lằn. Chuông chùa cảnh tỉnh đêm khuya, Nam Mô A Di Đà Phật, thanh dơ văn chung càng tỏ. Viết được thì nên viết để răn hờ đám chị em, nhưng xin khuyên ông nơi nới tay, vì “gở cho hết nợ, còn gì là duyên”.

Còn sống đây, tôi còn đi đây đi đó, không muốn có người chỉ trỏ, chúng tôi chết rồi, mặc tình ông muốn hỏi tên tôi.

Chúc ông giai lão và mong sớm đọc những gì ông viết.

Ký tên: Quả phụ V.A.

Paris, ngày... tháng... năm...

                                         *  *  *

Dẫn

Bức thơ của bà V.A. và tập bồi ký viết tay nầy, do một tiến sĩ nguyên tử học từ bên Pháp nhân về thăm gia đình, ghé trao tôi vào buổi sáng ngày 14 tháng tám dương lịch 1979, là ngày 22 tháng 6 nhuận năm Kỷ Mùi. Thú thật, hôm đó lòng tôi đang ngổn ngang rối rắm vì còn phải chạy vô Chợ Lớn, cho kịp trước giờ cất đám anh Lê Ngọc Trụ (mất vào chiều thứ bảy 11-8-1979, (tức 19 tháng sáu nhuận Kỷ Mùi) khiến nên tôi chỉ nói vắn tắt vài lời xã giao cùng cô ấy, rồi cáo lỗi để lo làm phận sự đối với anh bạn chí thân Lê Ngọc Trụ.

Mãi đến tháng ba năm 1982 nầy, tôi xán cảm nặng đến lo sợ không còn viết lách chi được nữa, khi ấy tôi mới hồi tâm lấy tập hồi ký của bà V.A. ra đọc và ra công đánh máy lại sạch sẽ, hầu giữ lời với bà V.A., nếu có dịp thuận tiện sẽ tự xuất bản, bổ túc quyển “Sài Gòn năm xưa” như lời bà đã khuyên. Hoặc giả chưa xuất bán được thì cũng cứ sắp xếp cho sẵn sàng. Dẫu có ra đi theo ông bà cũng mặc kệ, phú cho người đi sau, muốn sử dụng cách nào cũng tốt, vì tôi nào còn ở đây mà cản trở hoặc cho ý kiến kiếu thọc gậy bánh xe.

Ngày 9 tháng sáu Dương lịch 1982

                                      *  *  *

I. Chuyện thứ nhứt: Chuyện một cô lưu lạc

(nhan nầy do bà V.A. chọn như vậy).

Nếu tôi cứ ăn ở theo sách, cứ lấy chồng trong làng, cứ an phận tuỳ duyên, cui lục làm ăn, gánh nước nấu cơm giũ mùng giặt áo, thì bất quá về già trở nên một mụ trầu, nếu may mắn lắm, chồng là con thây Cai tổng, thì nay lên mặt bà xã, bà hương, tốt phúc hơn nữa, ông Cai có đất điền, thì tôi sẽ nối giữ ruộng vườn, làm bà chủ điền, rồi con bầy cháu lũ, sáng trông nom quết chuối nuôi heo, chạng vạng tối coi trẻ tắt bếp đóng cửa, rồi thỏn mỏn chết rụi trong bóng tối, rồi đời một kiếp hoa. Tột bực đi nữa, chồng là học trò giỏi, thi đậu làm ông nầy ông kia, lên đến tột phẩm nhơn thần trong nầy là đốc phủ, chú quận. Chi cho bằng trốn cha trốn mẹ, một khi sấn bước giang hồ, thế mà được ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa một lúc, nay chễm chệ trời Tây một ghế, hỏi ai hơn ai? Tôi không dám khuyên lấy gương tôi mà bắt chước, cũng không biểu đừng noi dấu tôi mà bước theo. Đèn nhà ai, nấy sáng. Và đại phàm, “Mỹ nhơn tự cổ như danh tướng, Bất hứa nhơn gian kiến bạch đầu” (cổ thi). (Tôi dịch theo tôi: “Ngàn xưa người đẹp như danh tướng, không hẹn cho ai thấy bạc đầu” (Xin giữ y nguyên văn cho tôi, - ý muốn của đàn bà).

                    *  *  *

Kể trong Nam người biết dùng son phấn kiểu đàn bà Tây phương, thì nghe nói lại ở Chợ Lớn năm xưa có nhà ông Đốc phủ Sư, bà dùng nhan sắc chiêu dụ các quan Tây, quan An nam còn danh từ “bằng cấp da” vì đã lấy cái da bì bạch trong thơ bà Đoàn Thị Điểm để thực hành, mảnh bằng ngày xưa bên Pháp viết trên da thú thuộc chế cho da còn đời đời; sao bằng da người thêm tươi mát, nõn nà, chồng mau thăng cấp. Bà chế ra son để vẽ môi, chế ra phấn đê tô mặt, giấy nhang phấn chì bà đâu thèm xài, và các có con bà, mặc áo mong mời cháo đêm khuya, các tay bài, mê cái trắng hở hang, khách quên nước bài, bổ khạp bổ đôi, càng mau sạt nghiệp. Nhà của bà, nay dấu tích còn trên đại lộ Hồng Bàng, chỗ có mấy cái tháp giữa lộ, vì khu đất là một ngôi chùa cổ, ông châm một câu tiếng Pháp, Tây dẹp chùa thưởng đất cho ông làm chủ.

Kể về người đẹp trong Nam, xưa hơn hết, có có Ba, con thầy bông Chánh - thông Chánh dám xách súng bắn biện lý Táy Jabouin ở Trà Vinh, năm xửa năm xưa, con là cô Ba được hãng xà bông Việt Nam in lại hình trên mỗi viên xà bông bán chạy vo vo, không lửa sao có khói, và cũng vì bóng sắc sa mê mà tên giữ công lý kia đến quên đường đạo đức: chết cũng đáng.

Xứ xứ hữu giai nhân kỳ nữ:

Đất Bắc thơm tho, đại biểu là cô Tư Hồng, với càu:

Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn

Trăm năm danh giá của bà to.


Một câu lơ thơ có 14 chữ, nghe rất nôm na; có người vội vàng tưởng “hàm cụ lớn” đối với của bà to”, thì chữ “của” nghe không được chỉnh, ấy chết, có ngờ đâu chính chữ “của” mới là đắc thế nhất của nhà nghĩ ra chữ nầy. Nối bật lên, có thể làm rung động cám giác người già nua có lẽ là tiếng trống ngũ liên giữa khoảng làng đêm vắng. Có chữ “của” câu đối mới hay: một mình nó ký thác cá hai ý muốn: vừa khen tâng bốc, vừa xỏ ngấm ngầm. Khi moi được chữ “của” đế gieo vào câu văn, giá ai gạ đổi chữ “của” lấy một xe hơi Hoa Kỳ, đám chắc nhà nho kia nào ưng đổi chác. Nhứt là cụ Tam nguyên Yên Đổ, cha sanh chữ nầy, lúc ấy đã loà hai mắt, còn thiết tha gì ô tô xe Mỹ quốc? Nhưng kể về văn chương cụ còn giàu sụ, chưa hết tứ, cụ còn hạ thêm câu:

Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá vang lừng băm sáu tỉnh,

Này biển, nầy cờ, nầy sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người.

Tiện đây đế ghi lại những danh hoa đởi trước, tuy chưa phải hoa khôi, nhưng đã làm tiền phong cho chị em lưu lạc sau nầy.

Đó là:

- Cô Chánh Bẹt-tăng, ở Sốc Trăng, chồng là tham biện Pháp, nhìn một người con sau làm thanh tra Sở mật thám, nhưng được chữ hiền, không làm hại ai, tên Gaston Bertin, em ông nầy, học lớp nhứt trường tỉnh cùng tôi đồng trang lứa, vì không có khai sanh nên không thi tiểu học được và mất tích luôn, là anh Jean Tình.

Ở Sóc Trăng, lối 1918, có cô Hai Đẩu, chồng lập nhà hàng bán những món ngoại hoá âu châu: đèn man chon, sa von thơm, phấn chà răng v.v..., nhưng dân trong xứ còn quê mùa, thấy cách trưng bày quá sang, y như nhà hàng Tây, nên không dám vào mua chác, sau phải dẹp quán, lui về sinh sống ở Sài Gòn. Đời nầy không dùng chữ Bà, dùng chữ cô (cô Chánh Bẹt-tăng, cô Hai Đẩu, v.v...) là đã nể nang lắm rồi.

Sau cô Bẹt-tăng ở Sốc Trăng, có cô Ba Thọ, nhà ở xóm nhà thờ. Tuy rỗ hoa mè, nhưng cô Ba rất có duyên ngầm, cô không dùng son phấn, để mặt tự nhiên mà lại quyến khách hơn ai, cô dong dảy người, cao ráo, cô đáng hàng cô bác, nhưng lối năm 1933, mỗi lần cô ngồi xe kéo tay, xe đi ngang nhà, để vô đinh ông chủ tỉnh, tôi ngó quên thôi, tuy vẫn biết đó là món hàng của ông bô mình. Chủ tỉnh ở Sốc Trăng những năm ấy là Giudicelli, nhất hạng tham biện, vì có bịnh hút nên đường công danh không leo đến ghế thống đốc Nam Kỳ, nhưng các thống đốc, khâm sứ đều kiên tài viết văn, cô Ba như cây kiểng xinh xinh để gần bàn đèn cho ông ngắm, chồng ngày vợ tháng, hai người không xơ múi gì, cô nhờ ông như chùm gởi đóng nhành me, ông bám cô như thằn lằn ôm cột cầu, tuy vậy mà mối tình tương đắc.

Chép đến đây, tôi xin nối lời bà V.A., vì là trang khai màu, kể tiếp luôn nhũng danh kỵ lừng danh thôi Pháp thuộc, lắm cô chỉ “văn kỳ thinh”, vài cô vẫn được diễm phúc “kiến kỳ hình” và xin đừng hỏi tôi thêm, tội lắm. Đó là: không sắp theo thứ tự, vả lại mỗi cô có một sắc thái riêng biệt, biết làm sao sắp xếp cho vừa lòng cả chị lẫn em, chị tuy lé nhưng răng đều đều như hạt dưa, nào thua em, tuy tươi tốt mới mười tám thanh xuân, nhưng phải nỗi khi đến gần, phảng phất mùi ni chà, mất hứng. Thôi thì, xin lỗi nhé, đành dành riêng mỗi người một chiếu, và lần hồi sẽ kể sau đây, cũng không dám đi quá sâu vào đề, e đụng chạm làm chinh lòng người còn sống, đã là nhắc lại đây như điểm binh ai còn ai mất, hà tất tranh luận ngôi thứ cho thêm phiền. Chuyện đã lui vào dĩ vãng, nay nhớ chừng để tưởng niệm các cô:

- Cô Ba Pho, tộc danh là Lê Thị Ngọc, thánh danh là Rosalie, từng làm chủ một nhà may, náo nức yến anh, đường Sabourain (Tạ Thu Thâu - nay là Lưu Văn Lạng) buổi trước;

- Cô Tư Ăng lê, không rõ tên gì cho hản, tay bài kéo xệp câu tôm của bà nhạc, mỗi lần đến nhà để “câu cá”, vẫn sóng thu mắt liếc như dao;

Cô Marie Huê, ngồi kết nhà bán cơm Việt “Đông Pháp lữ quán” đường Espagne cũ;

- Cô Ba Cù là, có giọng khao khao, mỗi lần hỏi tôi mượn tiền, dầu không có, mắt cô ướt ướt, mũi cô đo đỏ, dẫu tiền không một xu dính túi, cũng phải đào cho ra.

- Cô Hai Thời, nhà ở ngang nhà hàng cơm Tây ở đất Hộ (Dakao), cùng một dãy với rạp chớp bóng nay gọi Rạp Cầu Bông; tôi nhớ địa chỉ rõ, vì cô là kế thất của ông Bô, thông ngôn toà án Sài Gòn, nhiều người còn nhớ danh, ông Trần Văn Kính;

- Cô Lucie Bandeau, gọi làm vậy là cô bị đế dấu tích trên trán, nhỏ thôi, nhưng đế che vết nầy, cô thường lấy một băng màu che khuất mà thành danh luôn;

Cô Chapuis, gọi theo tên chồng, trước ở Cần Thơ, sau lên Sài Gòn, khiêu vũ nghề riêng ăn đứt không nhường cô gái nhảy Cẩm Nhung sau nầy.

- Cô Năm Cần Thơ, kết bạn với một vị luật sư quê ở Châu Đốc, cùng đi kháng chiến, không hiểu vì sao keo tan hồ rã, cô bỏ về và biệt tích luôn ở Sài Gòn.

Cô Sáu Hương, em công tứ Bích, cả hai vốn con nhà giàu lớn xứ Trà Vinh, đi ăn chơi theo tiếng gọi trái tim chớ không vì sinh kế.

- Cô Tư Nhị, trẻ trung và đang độ xuân thì, quê ở Nam Vang xuống.

- Cô Ba Trà, nõn nà lấn hơn Tư Nhị, và vẫn là địch thủ, giành riêng một công tử sẽ nói nơi sau;

- Cô Bảy Hột Điều, vì khuôn mặt chữ điền, y như “Hột Điều” nay đã khoát áo nâu sồng, sắp như vầy, vì cô có một sự tích ly kỳ, hồi sau phân giải;

Và còn nữa, nào Sáu Én, Chín Én, Mười Tóc Đỏ, làm sao kể đủ, mỗi cô như hoa riêng mỗi sắc, chỉ thua các chị về bề thẻ, vè địa vị, chớ kể về nhan sắc há thua ai.

Đến đây xin tạm ngừng, nếu sơ sót sẽ thêm sau, và chép tiếp chuyện theo bà V.A. đã viết:


                                      v.a tự thuật
rước khi lạc bước giang hồ, nhớ khi tôi vẫn là con nhà gia giáo, tía má tôi lấy nho phong, đạo đức làm nề. Có ngờ đâu khi trái thân lưu lạc, xã hội ăn chơi đã biến tôi quá mau, trở nên gian ngoan gần như “bán trời không chứng”, việc gì cũng dám làm, và vạn sự khởi đầu chỉ vì lòng ham muốn không dằn và vì mê có một cây kiềng vàng chạm như đã thấy trên cổ cô chủ sự vợ Tây đoan mà ra cớ đỗi như vầy.

Hỏi: Đàn bà đẹp là cái thá gì?

Thưa: Đó là con vật có hai chân, khi bất đầu làm quen, thích xưng em ngọt xớt, nhưng khi bắt hồn sanh người quân tử được rồi, lại chỉ mong trèo lên đầu lên cổ, ngồi chềm chệ trên chóp bu, làm ông làm cha chưa đã và cái sở thích ngày xưa là tiếng xé lụa của nàng Bao Tỉ, ngày nay là toan đập đổ bất cứ cái gì trước mắt, dẫu chắc như xi măng cốt sắt nhà lầu, bền dẻo sắt thép như ô tô kiểu Mỹ, hoặc sơn son thếp vàng tưởng là thiên niên như ngôi vua ngoài ấy: “Hai quả núi vàng pha núm tuyết, một khe hang nước nức mùi hương” chỉ bao nhiêu ấy đủ khuynh gia bại sản.

Tâm hồn của tôi ngày nay tuy còn đục xà ngầu như lu nước sông chưa lóng phèn, nhưng sao lại khắc khoải vẫn nhớ cánh u tịch nơi nhà tía má tôi năm xưa ở Rạch Gầm. Nhà là lá, cột là cột tràm, nhưng nay tôi quý hơn góc lầu Paris tráng lệ nầy. Ba căn không lớn, căn giữa chừa làm nơi thờ phượng ông bà, giang san sự nghiệp chỉ có cái tủ thờ bằng gõ mật, để trơn bén không chạm trổ nhưng bóng láng như gương soi, và một bộ ván ba, nghe nói ông nội tôi đi làm rừng trên Tánh Linh, thả bè theo sông đem về một súc, cưa rả ra nhờ tay khéo của bạn, đóng được hai món nầy truyền lại tía tôi, nâng niu hơn châu ngọc. Chái bên đông bốn mùa mát mẻ, chiếu lác vạt tre thông thoáng là chỗ nghỉ lưng của gia đình; chái hướng Tây, chiều trời nóng hực thì lấy làm bếp nấu ăn.

Nhưng tôi thích nhất, không phải phía mặt tiền day ra Sầm giang; sông sâu nước chảy, mà lại thích mặt háu, ngó ra đồng ruộng bao la. Nhà tía tôi ở gần nhà ông Cả Tâm, bà con với ông Chủ Trước có trường gà nức tiếng Sông Tiền, tỏi nay vẫn thỉnh thoảng bồi hồi nhớ chái nhà sau cách nhà độ một dặm hú là một ngôi chùa cố, cứ chiều chiều ngồi canh nồi cơm lửa rơm, tôi thường dựa lưng vào vách thả hồn lâng lâng. Ngoài xa kia chì nghe văng vẳng tiếng chó báo khách, bỗng đâu một hôi chuông chẫm rãi đưa đến lỗ nhĩ. Ban đầu là mấy tiếng trong trẻo như xé phanh buổi hoàng hôn tịch mịch, tiếp theo là một khoảng lặng lẽ đến nghe được tiếng ruồi muỗi bay, kế đến là một hồi não bạt tiếng mất tiếng còn y như tiếng nhạc nghe trong giấc chiêm bao, rồi khởi sự là một tiếng gõ trong vắt bắt qua những tiếng gõ khác dập dồn. Giọng kinh đều đều, phát âm nghe thật não nuột khi hạ xuống khi cất lên, không khác tiếng gọi thiêng liêng từ non Bồng nước Nhược nào đưa đến, như nước chay trong suối mơ, không còn gì là dục vọng, nhục tình, một giọng kinh thật ru hồn êm dịu. Bao nhiêu niềm đau thương trên thế, bao nhiêu khổ cực dưới trần, đều quên mất, chỉ còn lại một niềm bác ái vô biên, dẹp hết phong trần đấu tranh, miên được tịnh tâm giữ bồn xa cõi tục. Không van xin, không ham muốn, chỉ còn sức chịu đựng và một niềm thứ tha. Khi ấy tôi nửa say nửa tỉnh, ai dám nói xứ mình không nên thơ, và tại sao tôi không tiếp tục ở nhà tía má tôi, để nửa đời phiêu bạt, chưa biết bờ bến là đâu như hôm nay vầy? Ấy cũng chỉ vì mê một cây kiềng vàng chạm.

Hôm ấy, tôi đang ngồi giặt áo mé sông trước nhà. Bỗng một chiếc ghe có mui như ghe thầy cai tổng dùng đi hầu lệ và sơn trắng phếu, chèo ngay lại gần chỗ tôi ngồi và cặp bến. Vừa ghé xong, thấy hai người lính với một ông Tây nhảy lên bờ và xăm xăm hưởng nhả chú Phó lý, ở thân trên nhà tía tôi một đỗi. Thôi rồi, tôi biết nhà chú Phó lý thường đặt rượu lậu, vì tía tôi hay sai tôi đến đó mua rượu đem về, nay có ai mách, nên Tây đoan lại xét bắt chớ không có chuyện gì khác. tôi đang nhìn xem sửng sốt, kế thấy trong mui ghe chun ra một cô dong dảy người, mặc áo bà ba trắng vải ba-tích (batiste) bó sát da, dưới mặc quần lãnh Tàu láng mượt, mặt mày cô trắng như bột, trông lịch sự quá chừng quá đỗi, mà hấp dẫn nhứt là chiếc kiềng vàng cô đeo nơi cổ. Cha chả! Cấy kiềng nó chói mắt làm sao? Tôi nhìn cô trân trân... Đã ngót mấy tháng nay, tôi to nhỏ nài nỉ má tôi, đòi chằng chằng ngày đêm mà chưa có cây kiềng vàng chạm. Nội làng tôi chỉ thấy con gái thầy cai có một cây, nên tôi muốn lắm, đêm nào tôi cũng chiêm bao cứ thấy cây kiềng hoài, nhưng kiềng của con ông cai, tuy vẫn chạm nhưng nào có khéo như cây kiềng trên cổ cô nầy? Nhắm không đeo bàng phân nửa. Cây nầy chẳng biết chạm kiểu gì mà nó sáng rơ, chói loà, ngó vô thật là choá mắt. Tôi đang nhìn và suy nghĩ vẩn vơ, bỗng nghe tiếng cô phát lên cưởi mà khen tôi rằng: “Con nhà ai, khéo đẻ, dễ thương quá! Em lại đây cho qua hỏi thăm đôi chút”. Nghe mà mừng quýnh, tôi không đợi cô nhắc hai lần. Cô mời tôi xuống ghe kẻo nắng. Tuy gái vườn, chớ thuở nay tôi không nhát như chị em bạn gái khác. Thêm cây kiềng nó xúi giục, tôi hết biết sợ là gì. Tôi cố ý ngồi khít bên cô để xem cho mãn nhãn.

Vừa nước vô tới khoang, cô lấy nước trà nóng ra mời và lấy bánh Tây ra ép tôi ăn. Song trong bụng hơi khớp, tôi không nuốt vô, chỉ thấy cô sờ soạng vuốt ve tôi làm nổi ốc cùng mình... Mùi dầu thơm cô xức thật là bát ngát, nó nhẹ nhàng, làm cho tôi càng mê mẩn tâm thần. Cô thấy tôi ngó sửng cây kiềng, vụt hỏi: “Bộ em muốn lắm sao?” Tôi bèn thú thật: “Đã mấy tháng nay, tôi xin mãi mà má tôi chưa cho”. Cô mới hỏi tôi con của ai, cha mẹ làm nghề gì. Rồi cô cởi cây kiềng đang đeo nơi cổ, cô choàng tay lấy đeo vào cổ tôi, lại lấy gương soi nhỏ trong xách tay cho tôi mặc tình ngắm nhìn. Bây giờ tôi mới rõ vì sao mỗi lần tôi đi chợ, Hai Truyện, Ba Sách liếc ngó thì thầm, và đám đàn em Năm Xuân, Sáu Đồng buông lời chọc ghẹo. Nhớ tía má tuy nhà nghèo nhưng không thiếu nợ, tía má cưng, khỏi dang nắng cấy gặt, chỉ cho làm việc vặt trong nhà, da tôi thẳng, không dồi phấn mà hơn xa da cô nầy đã quá nửa chừng xuân, ngực tôi không độn mà no tròn đẩy áo nịt gần muốn đứt, không như ngực cô đã xệ quả mướp, tôi mảng tưởng tượng chỉ thấy cây kiềng vàng chạm trên cổ, mơ màng nhớ đâu mình đã thành tiên, bỗng nhớ lại không phải được đeo cây kiềng nầy mãi mãi, từ tiên hoá ra con nhỏ giặt áo: cho em nó, thau đồ giặt còn tươm bọt xà bông, nhớ đến đó, vụt nước mắt từ đâu sa ròng ròng giọt giọt. Cô chủ sự, cô xưng như vậy, không ngớt lời khuyên giải: “Em đừng buồn. Nếu em muốn, hãy tìm qua qua tính cho. Vậy bữa nào, em đi chợ, hãy ghé nhà, đừng ngại. Nhan sắc em như vầy, lo chi không có đồ bắc kế. Thật tình mới biết mà qua thương em lắm. Nhà qua ở gần công-xi (công ti) rượu, qua khỏi nhà lồng chợ một đỗi. Để bữa em ghé, qua sẽ tính cho”. Thiệt là lời ăn tiếng nói của cô nó ngọt ngào làm sao. Trong bụng tôi mừng đến đánh trống chiến, trông ngày trông đêm, trông cho mẹ mau mau sai đi chợ Mỹ (Mỹ Tho), để ghé nhà cô nầy xem cô tính chuyện gì. Chuyện trò chưa dứt, bỗng nhớ ba đồ giặt, phần sợ má tôi thình lình kiếm tôi ra đây bất tử, thì không xong. Tôi lật đật nói ba câu từ giã leo lên bờ, bươn bả ôm thau đồ không cần sạch, bước lên nhà thoát thoát.

Thứ Năm, tháng 8 9

Sài Gòn Tạp Pín Lù (Vương Hồng Sển) Cách lập thân kiểu mới

Về chưa tới nhà, vừa bước chân vô cổng, nghe tử trong dội ra tiếng má tôi chửi có dây có nhợ, không thua các bà các chị chuyên môn ngoài Bắc. Tôi nói bây giờ vẫn không mọt ai tin, nhưng ngày nay nhớ lại biết thương má tôi thì đã quá muộn, và trong máu huyết tôi biết đâu không có tiêm nhiễm vưởng víu của nỗi oan nghiệt cũ, tôi để má tôi mặc tình kể lể, nào đồ gì đồ gì đủ thứ, hỏi: “Sao bữa nay là ngày mấy, chớ mốt nầy là mùng bảy tháng mười ta là ngày giỗ ông nội mày, mà hồi sớm mới nầy vừa thoát ra khỏi nhà, mày đã te te mất dạng, tao vừa trực nhớ cho trẻ chạy theo kêu, thì nó nói mày đã đi xa lắc xa lơ, vậy chớ mày đi rượt ai đâu mà te rẹt như vậy hử?” Tôi không trả lời, đưa tay nhận thêm sáu đồng bạc dặn mua bột mua đường thêm mua mấy món đồ nấu. Tôi đi thẳng vào trong lục ba hột cơm nguội dằn bụng, chờ má tôi bớt giận đi ngủ, sẽ lén tom góp áo quần cần thiết, gói làm một gói chờ canh khuya sẽ đem trước xuống xuồng, kẻo sáng ôm ra, kẻ ăn người ở thấy, thì lộ hành tung, hư chè hư xôi việc lớn.



Trời vừa hé mắt bửng tưng, tiếng gà gáy còn nhựa, tôi đã thức dậy, chải gỡ gọn ghẽ, hối con nhỏ lấy xuồng đưa tôi ra chợ. Tới nơi, tôi để nó ở lại coi xuồng, lo lót nó một đồng xu xôi nếp than đỡ dạ, còn tôi thì đi tuột một mạch vô nhà cô chủ sự. Cô lật đật biểu tôi vào phòng của cô ngồi đó chờ cô sửa soạn bươn bả, chờ tàu lục tỉnh đến thì chị em cùng đi với nhau. tôi hỏi đi đâu, cô đáp đi Sài Gòn chớ đi đâu mà hỏi. Cha chả, lo quá, từ đó đến giờ tôi lên có một lên khi được bảy tám tuổi, năm ấy (1913) vừa xây cất xong Chợ Mới Bến Thành, có ăn lễ khai thị lớn lắm, năm đó tía tôi trúng mùa dư được mấy chục giạ, ao ước sắm một bộ đồ trà hiệu Đào Ngọc, trong Chợ Lớn, nên thừa dịp cho mẹ con tôi đi theo cho biết đèn dầu, đèn khí đá ra sao, và thứ đèn mới có, không tim mà vẫn sáng hơn hai thứ đèn kia, duy dùng điện lực mà sao gọi lả “đèn khí” là khí gì, ác thật. Tôi nhớ thấy chưng cô Bảy Bang bắt từ miếu ông Quan Đế (Thất phủ miếu) kéo ra, hình bát tiên là nhi đồng bảy tám tuổi như tôi, cho ăn mặc như hát bội và cột ghịt cả ngày trối kệ nắng mưa, lúc đó ghe tía tôi đậu ở gần nhà ông Tổng Đốc Phương, nay kinh đã lấp trở nên chỗ Bưu diện Chợ Lớn bây giờ, cha chả, nhớ Sài Gòn rộng lớn bằng mấy chục lần cái làng Kim Sơn của mình, mình đến đó có một lần hồi nhỏ tối ba chớp ba sáng, thấy được sao chổi (sau biết tên gọi sao Halley) mọc năm đó, năm sau xảy ra trận giặc Đức 1(1914-1918). Tôi chỉ lo chân ướt chân ráo cô nầy đưa mình lên trển, dấn thân sấn bước giang hồ, phó thác cho vận mạng và cho cô chủ sự định đoạt. Duy vững bụng vì năm còn nhỏ, đi Chợ Lớn năm đó tía tôi có bắt đến ông thầy Vi Kỉnh Trang, ở một gác nhỏ đường Jaccaréo (nay là Tản Đà, ổng ăn có năm cắc bạc mà vừa coi tướng vừa coi chỉ tay, nói trúng phong phóc, biểu tôi bước đi vài bước rồi ông đoán sau nầy số tôi ở lầu các, có người phục hạ, nhứt hô bá ứng, nhớ vậy nên cũng vững bụng phần nào. Rồi nhớ bâng quơ qua câu “đi lang thang trên đường phiêu bạt, vái Phật trời phò hộ lưu ly”, câu nầy của ai và chữ Tây viết ra sao, mà ông cử Pháp Diệp Văn Kỳ, con ông Diệp Văn Cương, dịch lại làm vậy mà trúng vào bộ vận và tâm sự mình hôm nay quá đỗi. Ờ mà phải, phải lên đó trốn ít ngày cho tía má tôi tìm kiếm không ra, rồi cô nầy hứa sẽ lựa chỗ giàu mà gả tôi, cho tôi nhờ tấm thân, rồi sẽ trở về thú phạt thì tía tôi cũng bỏ qua và má tôi hết giận chớ gì. Nghe hai tiếng Sài Gòn thì muốn thật, mà mãi còn lo cha mẹ bà con ở đâu trên ấy, một thân cô độc rồi mới làm sao đây? Nghĩ gần nghĩ xa, trong bụng đang bấn loạn bỗng nghe tiếng cô dứt “lo cái gì mà lo, trước lạ sau quen chớ lo gì!” Thấy cô nầy hứa chắc ăn, thêm cô lấy chiếc kiềng ao ước cho đeo, thì trăm phần lo cũng đổ sông hết sợ!



Tảu lục tỉnh cặp bến, bộ hành lên hết, cô chủ sự biểu theo cô xuống tảu, dặn ban bù đưa hành lý lại ca bin hạng nhì. Tôi bước chân vô cái buồng gì sang quá, thấy mà ngợp! Giường sắt lót hai bên, tuy không rộng mà nệm gòn rất êm, trải ra trắng phếu, nào chậu rửa mặt, nào quạt máy đèn điện có đủ rồi để nữa đây tiền tàu phỏng độ là bao, sang chi lắm, liệu cô chủ sự có đem theo đủ mà bao bọc cho mình, sao không ở nhà cho yên thân, trăm mối ngổn ngang, rối ôi là rối. Mặt trời đã chênh chênh ngã bóng, kiến đã cắn bụng, bụng càng bào chọt, phải bậm môi ma chịu, nghĩ dại rằng tàu lo chạy cho mau tới, ai đâu dưới nầy lo bán cơm, bán cháo cho mình nhờ. Nhưng cô chủ sự đi guốc trong bụng mình mà mình không hay, cô kéo tay tôi qua phòng kế bên, rộng gần bằng một căn phố, giữa phòng bày sẵn một bàn đủ sáu người, nắp bàn rất sạch, có đủ dao nĩa và ly đĩa trong ngần trắng tinh, thêm một bình hoa hông đỏ chói làm trung tim chứng giám. Cô chủ sự và tôi vừa bước vào, kế ông cò tàu, có hai dòng máu Tây Nam đề huề, cùng đi với ba ông Tây viên chức đi công cán, da đỏ như tôm luộc lông mọc-xù xì đen cá cổ tay vả cườm tay, trông như ba con dã nhơn sở thú đi lạc. Sau mấy cái bắt tay giới thiệu, họ ép cô chủ sự ngồi giữa tôi ngồi đối diện, hai bên chúng tôi là bốn ông giống đực, tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng nhờ giàu máu 35 cho nên cái gì cũng qua, duy chữ tình khó lọt. Họ châm nhau những gì tôi không hiểu, nhưng cả thảy đều vồn vã lo cho tôi tứ chút, khiến tôi ngượng nghịu, còn cô chủ sự thì ba xí ba tú, họ cười giòn như nắc nẻ, không biết châm biếm hay phục tài. Tôi nào biết tiếng Tây tiếng u gì phòng tiếp chuyện, đành đánh chữ làm thinh. Lát lát liếc đưa tình, lâu lâu nhé răng cười nụ. May nhờ tía má không bịnh tật nên sanh tôi lành lẽ, răng trắng và đều như hột bắp non, môi đỏ tươi đến son còn kém, gẫm lại gái có sắc như con sóng lượn, đứa trai nào cũng không khác chiếc thuyền nan, dầu ông Tây nào làm tới thống đốc, cũng chứa một nòi tình, ba thằng nầy mà sức mấy, đỏng đưa chơi mày hay chúng bay cung cheo. Họ luân phiên dành rót rượu mời, cô chủ sự bẻ bánh mì giúp tôi, tôi gượng gạo nâng ly, vừa nuốt chưa qua khỏi cổ, lửa từ đâu bừng bừng cháy dỏ, đỏ từ môi đến cặp chân mày, đôi má hồng hồng chứa chan tình tứ ở nhả má tôi nào có dạy, mà nói xin lỗi má, con đã hư làm vầy?



Từ đó tôi không còn biết gì nữa, nhưng càng làm thinh họ càng chiều chuộng, định cho tôi, đẹp như vầy ắt tiếng Tây sạch lắm, chẳng qua sầu tình hay chúng đang làm trái ý điểu gì nên tôi làm thái đó thôi. Bữa tiệc mãn, lui về phòng, lên giường nằm sang tàu Nam Vang lần thứ nhứt, phần sóng đánh tàu lắc lư, phần rượu ngà ngà say tôi mơ màng chiêm bao quyết ra đi phen nầy quyết làm sao có tên có tiền có sóng có gió như vầy mới chịu về cùng tía má, nhưng giấc mộng chưa nghĩ trọn tôi đã đánh một giấc quên đầu quên đuôi, trời sáng bét, tôi mở mắt ra đã đến bến Sài Gòn hồi tang tảng sáng.



Bước lên bở, cô chủ sự kêu xe kéo tay, hai đứa ngồi chung xe, chúng tôi vòng vo tới chợ nào không rõ, ghé một nhà trông quả là nhà có của, bàn ghế cẩn, ngựa gõ, tu bàn đều bằng cây danh mộc bóng láng. Bà chủ nhà đã già nên cô chủ sự gọi bằng “má” và ép tôi cũng gọi theo. Cổ để tôi ngồi đàng nhà trước một mình, còn hai người đưa nhau vào trong nói chi không rõ, giây lát trở ra căn dặn tôi hãy ở lại đây với má Tư Hớn ít ngày, chẳng hề gì đâu mà sợ rằng đã gởi gấm yên bài, ở đây với má, má sẽ thương như qua đây thương em vậy, lời lời ngọt lịm như đường phèn. Bà già ấy cũng tiếp đưa lời, “chị em với con Bảy Chủ sự thì cũng như con ruột một nhà, vậy con cứ ở, đừng ngại ngùng chi cả”. Rồi đó bả biểu dọn cơm nước cho hai tôi ăn, trong bữa cơm, cô chủ sự dặn dò tôi mọi việc ráng sao sao cũng phải tin cậy và nghe lời má Tư, thì mới hòng nên thân đặng. Nội Sài Gòn đây có ai lanh lợi và quen lớn với nhiều ông nhiều thầy cho bằng má Tư, như chị đây năm xưa cũng xuất thân cũng nhờ má Tư sắp đặt cho nên ngày nay mới rỡ ràng sung sướng và có địa vị như ngày hôm nay làm vậy.



Nói ba điều bốn chuyện cho qua tang lề, rồi cô chủ sự hôn vào hai má tôi mà tử giã, rằng hãy để cô vô Chợ Lớn mua vài món, và ở luôn nơi nhà quen trong ấy cho đặng sáng sớm đáp tàu về cho tiện và đỡ tiền xe. Cô chủ sự ra về, Má Tư Hớn lấy trong tủ ra một chiếc kiềng vàng chạm kiểu khác và hai chiếc vàng dạy tôi đeo vào thử, xem có vừa vặn không. Đôi vàng quả có rộng một tí, tôi không dám nói: thì má Tư đã bảo cái cô sáu nào đó ở trong buồng, hãy đổi đôi vàng cho tôi, cũng y đồng cân đồng lượng và cùng một kiểu chạm “nhứt cách nhứt chiếu”, một khúc tám bông hoa kế tiếp một khúc chạm câu thi văn vận với đoá hoa (lan cúc trúc mai) đã chạm nơi khúc trước. Má rằng: “Con đã lớn rồi, đeo dầu có rộng chút ít cũng không sao, thêm cổ tay của con nhiều xương, đeo rộng ít thấy, phải để cho em của con đây, đeo cho vừa khít cho thấy cổ tay tròn ống chỉ, vừa khéo vừa đẹp, vừa xứng với vóc đạc, cho má xem cho mãn nhãn thêm vui lòng già”. Y cái bà, trông cục mịch mà lời nói ngọt tợ mía rim! Tôi đang ngồi ngắm nghía mấy món nữ trang mới, không làm gan xa tía xa má làm gì có như vầy, bỗng có một tốp mấy ông mấy thầy kéo nào nhà, ông nào ông nấy xem đã ba ngù, nói với nhau tiếng Tây bốp thiên, kẻ kêu “dì”, người gọi “má”, om sòm bát nhã. Má Tư lật đật biểu chị Sáu dắt tôi theo vòng cửa sau bước qua nhà kế cận mà gởi tôi ngồi chút chơi, vì má nói tôi còn như nai không nên cho lũ say nầy thấy, và dặn tôi chờ giây lát chúng về sẽ lại về nhà.



Ở đây chưa được đúng tuần, vừa quen nước quen cái, một hôm cơm rồi má Tư gọi tôi lại gần rồi nói nhỏ: “Nay có thằng Hạch, quản gia trong nhà máy xay lúa lớn trong Chợ Lớn, giàu lắm, nó muốn cưới con về làm vợ, với một cây kiềng đúng một lượng và hai lượng chuỗi hột quấn tay, con nên ưng nó đi mà lập thân, chỗ nầy được lắm, nên nghe lời má, thuở nay má ăn chay niệm Phật, tạo lập không biết bao nhiêu gia đình như vầy, tụ thiểu thành đa, không nên già kén, mà bỏ qua dịp tốt”. Tôi lúc nầy tứ cố vô thân, bụng đều không muốn cũng chẳng dám nói không. Huống chi mụ nầy, giọng kèn tiếng quyển, thật dễ xiêu lòng, lại nghe có kiềng có chuỗi thì còn chê bai gì nữa. Vậy nên tôi cũng đánh liều gật đầu ưng đại.

Lấy chồng là hạch gác cửa.

Trời đất ôi! Ở trong làng, con thầy cai tổng đến hỏi, cùng trang lứa, cùng học lớp nhứt một thầy, tôi chê “dài lưng tốn vải”, tuy nhà giàu thật, nhưng ăn nói không chọc tôi cười được, một mối khác, Năm Xuân, con bác Cả, đậu bằng thành chung thật, nhưng làm thơ ký cho trường máy Đỗ Hữu Vị, khoe rằng thực là “thơ ký chánh phủ”, tôi không tin, thêm ốm tong teo, e bị lao chăng, mất công đeo khăn tang sớm, mất đẹp! Nay về với anh hạch nầy. Tưởng rằng làm quản gia, một chức khác cho là trọng, ngờ đâu đó là gác cửa ban đêm, và hạch là phiên âm tiếng Ả-rập Hadj, bên xứ họ nghĩa là gì, tôi thật không biết, duy nghe hạch hạch, tưởng đâu là tiếng hắt hơi “hách xì”.

Đêm tân hôn, nay nhớ lại còn rùng mình. Đúng là thuyền nan lâm bão lớn, tấm thân trong ngọc trắng ngà, giá kể ngàn vàng, nói theo văn Kiều, đành để “hồng ngâm chuột vọc”. Mà con chuột nầy nó không vọc, nó nghiến răng xàm xạp. Hạch tuy không thương được nhưng ở rất biết điều. Va mướn cho tôi một căn phố không xa nhà má Tư Hớn là mấy, cái nầy là tại tôi đòi y theo lời má Tư căn dặn, y mua bàn mua ghế và tập tôi ăn cà ri, chu choa, ban đầu cay xé miệng, mà nay gặp không cay tôi không thèm rớ, mới kỳ! Nghe tôi đòi muốn ở gần má, ban đầu anh hạch vùng vằng, song thét rồi cũng ưng, vì anh mê tôi như điếu đổ, muốn gì được nấy. Quả lả anh hạch thương tôi một cách thật tình, và nói nhỏ mà nghe, ban đầu tôi không cảm, nhưng chưa đầy bốn tháng, anh sắm cho tôi áo quần chật tủ, vàng, chuỗi có rồi. Má bày cho tui òn ĩ xin nào neo đạc, dứa nghiêng trong có đồ để cho đeo đừng móp, thêm cà rá đeo đủ ngón, mặt chữ “ngẫu” (ngũ), mặt nhận xoàn Xiêm, và cà rá liên hoàn, đeo vỏ ngón tay, thấy liền lạc, khi cởi ra vòng nầy treo lủng lẳng tòn ten, trông ngộ lắm. Đêm nằm tôi cũng mừng thầm. Từ cảm vừa vừa đến mến, rồi qua thương, tình Hạch - Việt cà ri thịt kho, tôi tập ảnh ăn nước mắm, ảnh nín mũi queo râu, thấy dễ tức cười, vợ chồng cách nhau hơn hai con giáp tôi mười tám xuân, ảnh tròm trèm bốn chục, tôi bắt mùi quen ăn nị tưởng cùng nhau sẽ nối tóc đến già. Ảnh lảm việc trong nhà máy xay lúa trong Chợ Lớn Bình Tây, tử ngày đụng tôi, ảnh xin đổi phiên gác không gác tối nữa và làm việc ban ngày đêm nào cũng về, vì vậy ban ngày ở nhà một mình buồn, tôi thường lại nhà má Tư để giải khuây, ngờ đâu má cò máy với mấy chị trong nhà ra ngón độc bày đặt rủ ren cờ bạc. Ban đầu đánh nhỏ thì tôi ăn, gọi là chơi vị tình, sau lần hồi gầy sòng đánh lớn, tôi bị gài vào bẫy, dính ăn dính thua, say máu ngà, bữa nào chiều về nhà cũng sạch túi. Cái nghề cờ bạc, nóng mũi nên phái gỡ, gỡ đâu không thấy, ngày càng lậm, hết chục nầy tới bạc trăm kia thét rồi tới cầm đồ, cứ nay một chiếc, mai mốt cầm một đôi, không đầy hai tháng trời, bao nhiêu chuỗi vàng kiềng chạm đều ton ráo, hoá ra giấy biên lai cầm đồ chú Hoả, ráo nạo. Nói thì nói vậy chớ làm sao tôi đám thả ra chiếc kiềng vàng đeo cổ và đôi neo vòng tay là vật thường ngày không rời mình tôi, há dám gởi tiệm, cho anh hạch ảnh biết. Một bữa nọ, thình lình chưa bốn giờ chiều, ảnh về sớm hơn mọi bữa định thúc hối tôi ăn mặc cho chiếng, vòng vàng đeo đủ, để cùng anh vào Chợ Lớn ăn tiệc đầy tháng nhà bạn hữu, luôn dịp trình diện tôi cho người đồng hương ảnh hay. Mà nào có mặt tôi tại nhà! Nhân diện bất tri hà xứ khứ, đáo hoa y cựu, mãi câu tôm. Cơ khổ, anh Hạch lả Chà đứt đuôi mà nhè thơ Đường tôi kể, ảnh đi miết lại nhà má Tư, bắt tại trận tôi đang ngồi sòng. Nói chí tình, ảnh vẫn giữ lễ độ, nhỏ nhẹ biểu tôi. Anh biểu tôi mau mau sửa soạn để kịp đi ăn tiệc, mà trời đất ôi, còn gì mà bắc kế hay sửa soạn. Tôi vô buồng làm bộ chải đầu gỡ tóc, rồi y theo kế mụ bà không dạy mà biết, là nhào lên giường nhào lăn hô đau bụng. Mà làm sao qua mặt được anh chà ba da nầy. Ảnh không tin, cạch hỏi tôi đủ điều, hỏi thật lòi chánh, mặt mày ảnh từ đen hoá xanh, ảnh muốn đánh tôi, nhưng nghĩ sao anh không nỡ, tôi khóc lóc xin tha, rằng lỡ dại một lần thứ nhứt. Anh hạch không nói, bước trái ra ngoài buồng suy nghĩ, giây lát trở vô, xem bộ bớt giận vì cặp râu trái ấu không giựt lia như ban nãy, ảnh cầm tay tôi vuốt ve và khuyên như lần đầu, tôi khờ dại nên ảnh bỏ qua, duy tôi phải giấu nhẹm đừng cho má Tư hay và nhứt định dời chỗ ở cứ việc thay đồ đi dự tiệc cái đã, bao nhiêu đồ đạc thua lận má Tư, ảnh sẽ sắm lại còn nhiều hơn nữa, duy ảnh yêu cầu tôi đừng đánh đôi đánh đọ, chị em cũ luôn và má Tư là bầy quỷ, là chằng tinh, gấu ngựa, càng xa càng tốt, gần làm chi cho vấy mực hôi.

Lo đòi hột xoàn

Mà sướng thật? Bây giờ mới là chinh chông, không nhà không chỗ ở; Thầy cai đưa tôi về khách lầu Nam Việt, đầu đường Sạt-ne (Charner, nay là đường Nguyễn Huệ) tận bờ sông Sài Gòn nên mát mẻ lắm. Ở đặng hai tuần thì thầy cai tính về Trà Vinh, vì đã mãn phép. Thầy mời tôi về theo, bụng tôi cũng muốn như vậy lắm, nhưng Má Tư làm kỳ đà, cản rằng thầy có vợ lớn, có tiếng là dữ, về dưới như “nhục huyền hổ khẩu”. Trong làng vợ thầy cai Phó, không khác trên nầy là bà Nguyên soái, bà Phó soái chớ không chơi, và bộ hạ của chúng, tôi làm sao lại. Nghe vậy hồn vía tôi lên mây nên đòi ở lại, túng thế thầy phải dọn phố cho tôi hẹn đến lễ Chánh chung (chánh trung) cách-to ru-dết (14 juillet) sẽ lên thăm.

Lúc ở khách sạn với thầy cai, bụng tôi đang bấn loạn lo việc anh Hạch dầu sao cũng là mối tình đầu, tôi rầu rĩ cả ngày, bỏ hết mọi việc, việc âu yếm với thầy cai tôi cũng bơ phờ, mặc cho duyên mới mảng sầu tình xưa, tóc biếng chai gương biếng soi, nghĩ mình đoản hậu quá, nhưng giữa cơn cụp lạc, thầy cai khen nét tôi ủ dột bằng mười điếm trang. Trong trí nhớ hai cái hột kia còn gởi Má Tư mà tôi cũng không lo đòi. Thầy cai dỗ tôi cách nầy cách nọ đủ thứ, tôi được trớn lại càng nhõng nhẽo. Giá thử má tôi lên gặp tôi lúc nầy thì xấu hổ cho con biết mấy. Ai tập tành mà tám nghề bảy ngón như vầy? Nay thầy cai về dưới rồi, tôi rảnh tay rảnh chân, sực nhớ hai hột kim cương tôi qua đòi má thì hỡi ôi, má nói đã cầm rồi, chờ vài tháng có tiền sẽ chuộc. Cha chả? Nghe mà tức ói máu! Té ra nào là vàng chuỗi neo kiến gì của tôi, má đã lấy một bận rồi, cái tấm trinh của tôi má cũng bán đứng ăn rồi, nay đến lượt hai hột xoàn nầy, má cũng toan giựt nữa. Của người ta cho tôi bao nhiêu, một mình má ăn hết ráo trọi. Vừa vừa vậy chớ. Công má tôi mang nặng đẻ đau, công tía tôi dạy dỗ nên người, sanh ra tôi nuôi cho lớn khôn nên vai nên vế rồi để cho má một mình lợi dụng. Càng nghĩ càng thấm mật, tức tối vô cùng, nhưng thân phận đàn bà vô thân, nhè đưa cán cho má cầm, lưỡi dao bàn về mình nắm, biết làm sao đây.

Một bữa nọ tôi ngồi chơi trước phố đang rầu buồn, bỗng thấy đàng xa đi lại là thầy thông ở căn bên cạnh. Vừa thấy tôi, thầy đã dở nón cúi đầu chào lễ phép. Mà tôi đã có ý xem, từ hôm tôi dọn về đây cho đến nay, mỗi lần thầy gặp tôi là khúm núm ké né xem tôi như là một bà thần sống. Mà coi bộ người nầy thật là nết na đằm thắm, mặt mày thêm hiền hậu không láo nhao như mấy cậu trai lơ kia. Tôi nghĩ trong bụng để mình làm quen và hỏi thăm thầy nầy xem có thể chi kiện má ra toà đòi hai hột xoàn kia được chăng. Người nầy xem bộ đàng hoàng phúc hậu không ba que xỏ lá, ắt tin cậy được. Chờ cho thầy vừa đi ngang nhà, tôi cung kính mời: “Xin lỗi, em mời thầy vào nhà chơi cho em hỏi chút việc”.

Thầy lật đật bước vào, nỗi mừng hai đứa đứa nào hơn? Thầy tươi cười bắt chuyện: “Có việc chi cần dùng đến tôi, xin cô cứ nói, chớ ngại”. Tôi mới thuật nửa úp nửa mở rằng tôi có gởi hột xoàn cho một người, nay họ muốn giựt vậy mình có thể kiện đòi lại được hay không? Thầy hỏi tôi khi gởi có biên lai gì hay chăng. Tôi trả lời rằng không. Tôi thấy mặt thầy có vẻ buồn lo. Thầy hỏi tiếp: “Lúc gởi có ai ngó thấy hay không?”. Tôi lắc đầu. Thầy cũng lắc đầu theo và chắt lưỡi: “Chà! Vậy lấy chứng cớ đâu mà kiện!”. Rồi thầy hỏi dồn: “Mà người ấy có bà con thân thích chi với cô mà cô tin người ta như vậy?”. Tôi đáp cũng mới quen có ít tháng nảy mà thôi. Thầy ngó tôi và chậm rãi nói: “Thưa cô, chuyện nầy thiệt khó hiểu. Nói thiệt, nếu cô muốn cậy tôi thì tôi rất sẵn lòng vừa giúp cô dầu khó nhọc cách mấy tôi cũng không câu nệ, vì thấy cô coi bộ ít quen biết với ai ở đây. Song cô phải tin tôi, mà đọc lại cho rõ ràng mọi sự, thì hoạ may tôi có thế toan tính gỡ rối cho ra, nếu thưa kiện không xong, thì có thế khác. Chớ cô nói không cặn kẽ thì tôi biết mối đâu mà gỡ”. Thấy tôi do dự, thầy lại tiếp: “Có lẽ cô mới biết tôi lần thứ nhứt mà đem tâm sự giải bày thì cũng ngỡ ngàng cho cô đó chút. Cô cho tôi hỏi: Vậy chớ cái người cô gởi hột xoàn đó, cái thế họ còn ở đây lâu dài, hay họ là người trôi nổi bình bồng, nghĩa là cô có sợ nó bỏ đất Sài Gòn mà đi mất biệt hay không?”. Tôi cười liếc mắt tình tứ mà rằng: “Không, dạ thưa thầy không. Người ấy ở đây hoài hoài, hổng có đi đâu hết. Cái sự người ấy trốn, thiệt tôi không sợ”. Thầy mừng mà rằng: “Như vậy thiệt là may. Việc đâu còn có đó. Cô với tôi nay ở gần nhà, thủng thẳng đây sẽ biết thêm nhiều và quen lớn thêm nhiều. Ngày nào cô đủ sức tin tôi thì cô sẽ nói, cung chẳng muộn chi!”.

Chẳng biết sao nghe lời thầy nói một cách hiền từ thành thiệt quá, làm cho tôi hết e lệ hổ ngươi, lúc ấy tôi coi thầy thư là người anh ruột hay là một người thân thích đã quen biết từ chín mười năm rồi vậy, nên tôi bèn thuật lại đâu đuôi gốc ngọn, các sự việc ra sao, không sót một điều, một mảy may. Tôi lại ráng đem hết cái tài văn hoa ăn nói của cái xứ Kim sơn, Xoài hột ra mà dùng, không câu người nầy bang bằng sắc nàng Thuyền, mà phải câu bằng đầu môi chót lưỡi của nàng Điêu trong Tam quốc chí. Duy khi nghe tôi dùng chữ “diếm” thay vì nói “dám”, thầy cười mà hỏi tôi có phải người gốc gác Sầm giang Rạch ông Hổ chăng. Tôi hỏi tại sao thầy biết. Thầy cười nói tiếp: “Thưa cô, vì cô không dám phạm huý chữ “dám” trùng âm với “giám, thái giám” đụng chạm đến cái tiêu tật hay ấn tật của ngài Tả quan Lê. Tôi cũng là người Chợ Giữa, vì sinh nhai trôi nổi lên đây, như đã nói, càng biết càng thân ấy mà!”. Thầy cười lỏn lẻn nói: “Chuyện nghe đã rõ, thôi cô cứ yên tâm, để tôi về tôi lo kế”.

Cách ba bữa sau, thấy trở lại, dặn tôi: “Con mẹ Tư Hớn đó không phải vừa. Nếu chẳng làm cho nó trúng kế thì dẫu trời đánh nó cung không nhả hai cái hột xoàn kia ra đâu.”. Chừng, thầy kê sát tai tôi nói nhỏ rằng phải làm như vầy, như vầy, và căn dặn tôi đây tới đó phải giấu nhẹm, người khác biết được thì hư chè hư xôi hết.

Má Tư trúng kế


Hai ngày kế đó, thầy dắt lại tôi một ông già trông đạo mạo ra phết, và nói: “Ông lão nầy sẽ giả làm ông thân của cô. Vậy khi cô thấy mặt ông tại nhà con mẹ Tư Hớn đó, cô phải làm bộ như cô gặp ông già ruột của cô vậy, nên cô sợ mà chạy trốn vào trong. Còn ổng, ổng làm bộ giận dữ, mắng cô ít tiếng, thì công việc sẽ xong”. Tôi nghe theo lời thầy dặn, nên nói với Má Tư, tôi ở một mình buồn, muốn về ở chung với má cho vui. Má nghe tôi nói thì mừng lắm, biểu tôi bán bớt những gì không cần dùng, rồi dọn về.

Tôi kêu lối xóm bán đồ, mà kỳ thật mấy người nầy vâng lời thầy thông dặn trước nên họ giả đò mua rồi chở đi hết, chờ xong việc sẽ trả lại cho tôi. Xong xuôi, tôi xách hoa ly áo quần, về nhà Má Tư.

Ở chưa đặng bốn năm ngày chi đó, kế thấy thầy thông nọ đi với ông già, xăm xúi bước vô nhà Má Tư mà hỏi lớn: “Phải nhà bà Tư Hớn đây không?”. Chưa ai kịp nói gì, kế ông già ngó trực thấy tôi thì a lại hét rằng: “Con chó chết!”. Tôi la hoảng: “Uý! Trời? Tía tôi!” Vừa la tôi vừa chạy vô buồng để trốn, nhưng ông già nầy còn khoẻ quá áp chạy theo toan đánh. Má Tư đứng cản nơi cửa buồng, ổng vụt la lớn tỏ ra giận dữ: “Còn con mẹ nầy nữa! Bộ muốn chết hay sao? Diếm cản cửa tao? Tao có giấy Biện lý cho tao đi bắt con tao, chớ phải không sao? Nè! Giấy Biện lý đây nè, thấy không?”.

Đưa ra thấy một miếng giấy có con dấu đóng đỏ lòm, rồi ông điểm mặt Má Tư mà rằng: “Tội mấy đụ dỗ con gái tao chưa đúng tuổi thành nhơn, bắt về rước khách, ở tù không sợ; mà mấy còn cả gan diếm cản trở tao à? Nè thầy Sáu Hãy để đó, chạy lại bót ông Cò, kêu lính lại đây tức thì, coi con mẹ nầy còn diếm cứng đầu cứng cổ hay không?”. Thầy Sáu vội vã đứng dậy... nhưng Má Tư sợ đã khiếp vía, nên cầm tay xin thầy khoan đi, để cho má đọc rõ đầu đuôi, oan má lắm!”. Thầy Sáu nạt: “Oan ức gì? Tang tích đã rõ ràng, dụ dỗ gái tơ hành nghề mãi dâm, tội đại hình chạy trời không khỏi?”. Má xuống nước, năn nỉ khẩn cầu, xin tía tôi với thầy nọ ngồi nghe má đọc công chuyện tôi, không phải má dỗ dành, vì tại thấy tôi bơ vơ nên làm phước nuôi tôi vậy thôi. 

Tía tôi không tin, biểu má kêu tôi ra giáp mặt cho ổng hỏi. Đó rồi, tôi bước ra, ổng bắt tôi thuật lại rõ ràng tự sự, từ hồi ở nhà bước ra, vân vân. Tôi giả bộ run sợ, đọc lại hết mà không quên chuyện má mượn vàng chuỗi, lại với chuyện tôi gởi má hai hột xoàn mà má chưa trả.

Nghe tôi thuật ra đến đó, má thất kinh: lật đật nói hớt rằng: “Vàng chuỗi với hột xoàn còn đủ đây, tôi có cầm bán gì đâu! Chẳng qua tôi sợ nó khờ, đeo trong mình, chúng gạt lấy hết, nên tôi lập thế cất giùm cho nó, chớ có mất mát món nào đâu!”. Nói rồi vô mở tủ lấy đủ vàng và hột xoàn ra để trước mặt tía tôi và nói rằng: “Đó! Ông coi. Có phải tôi lo lắng yêu thương nó tư chút hay không”. Tía tôi thấy vậy, làm bộ kéo tôi ra đàng trước mà tra gạn tôi song nói nho nhỏ, tuồng như hỏi riêng không cho má biết. Lúc nầy, còn một mình thầy Sáu trong nhà. Má mới lại òn ỉ, lòi cho thầy năm chục đồng bạc uống trà, xin thầy can gián giùm. Thầy chộp năm chục đồng bạc bỏ túi, rồi giả bộ bước ra to nhỏ gì đó với tía tôi. Tía tôi dùng dằng hồi lâu, mới bước vào hốt đống đồ của má đem ra để trên bàn, đưa hết cho tôi mà rằng: “Nè! Đồ đạc của mầy, thì mấy lấy đi. Rồi vô lấy áo quần cho mau, đi theo tao lập tức còn chần chờ thì chết với tao bây giờ!”. Rồi day lại nói với má Tư: “Thím phải biết, con tôi nó hư cũng vì thím. Làm cho tôi tốn hao tìm kiếm nó mấy tháng nay. Vậy thím phải tính sao, chớ việc này khó nín”. Má Tư chẳng biết làm sao, phải đem ra hai trăm đồng, nài nỉ xin bồi thường sở tổn cho tía và xin tía tôi đừng thưa kiện lòng dòng tội nghiệp. Vì trót thương tôi mà má mang hoạ, chớ má nào có dụ dỗ chi tôi. Má thề thôi bán mạng, chửng tía tôi mới nguôi cơn giận, bỏ túi hai trăm bạc và dắt tôi ra cửa. Xong việc tôi dọn nhà lại y như cũ, chừng ấy Má Tư hay đặng mới biết trúng kế, má oán tôi khắc cốt và nghiến răng nghe trèo trẹo. Nhớ lại thầy Sáu nghĩ công khó của thầy, tôi lấy hai trăm bạc của ông già đem về, tôi đền ơn thầy nhưng thầy một hai không chịu lấy. “Tôi lấy năm chục đồng của Má Tư lo cũng đủ. Nhưng tôi đã cho hết ông già kia, thế là vẹn toàn rồi. Còn phần riêng của thầy, miễn đặng giúp ích cho tôi là đủ mừng lòng. Lối xóm với nhau, chút công ty tiểu, nào đáng kể chi”. Tôi ép thế nào, thầy cũng không chịu lấy phải đành cất đó, oan gia hay duyên nghiệp gì đây?

Bị đánh ghen

Cách đâu mấy ngày thì thầy cai lên. Nghe nói kỳ nầy, thầy ở lối một tuần nhựt mà thôi, chớ không ở lâu đặng vì tới mùa thúc thuế. Lại biểu tôi sửa soạn để theo về dưới ở cho gần, chớ một kiểng hai quê như vầy đã tốn hao thêm rất là bất tiện. Nhưng ngày trước Má Tư có nói vợ thầy dữ lắm, có lẽ ấy là lời Má nói để mình ở lại Sài Gòn cho Má khai thác. Chớ thiếu chi người vợ một vợ hai, nếu mình ở nhỏ nhoi chiều lòn, thì ai đâu nỡ làm hung, - chèo xuôi mát mái đó mà! Lại nữa từ ngày Má Tư trúng kế đến giờ Má oán mình thâm xương, ở đây có ngày không khỏi bị tay Má trả thù, chi bằng để cái đất Sài Gòn nầy cho Má ở mới xong. Vì nghĩ vậy nên tôi bằng lòng ưng theo thầy cai xuống Trà Vinh.

Mãi còn đang sắp đặt trong nhà, bữa kia lối năm giờ chiều, còn sớm bửng, tôi đang ngồi nơi bộ ván trò chuyện với thầy cai, thình lình có lũ đàn bà năm đứa, ào vô kéo tôi vừa đánh đập vừa chửa nhiều lời thô tục tôi không dám viết lại đây. Thêm có mặt mụ chúa đàn đi sau, bước vào xỉ mặt thầy cai, kêu bằng thằng, và vả mắng thậm tệ không còn thể diện gì hết. Cơ khổ! Như vậy mà thầy cai cứ ngồi chịu trận, không nẻ tránh cũng không một lời tranh biện, tôi mới thấy lần thứ nhứt một thằng cha uý phụ không ai hơn.

Trong lúc ấy năm con quỉ sống nó kéo đầu, xé áo, giựt gãy lọi cây kiềng vàng chạm, và đánh tôi thất quốc tha bang. May thay, đang cơn nguy cấp, bỗng đâu thầy Sáu chạy qua, xách roi mây quất bổ mấy con đó bất kể đầu cổ, hét lớn biểu phải buông tôi ra, bằng chẳng vậy, thầy sẽ kêu lính phú-lít (police) đến còng đầu bắt cả phồn, vì chúng bây có phép nào xâm nhập gia cư người lương thiện mà hành hạ người ta như vầy. Thấy thầy bộ quyết liệt quá, mấy con chằng tinh mới chịu buông tôi ra, thầy xách roi rượt chúng ra tới đường, chúng nó tuy chạy mà còn chửi rán. Thầy Sáu biểu tôi nơi ngả sau bước qua nhà thầy ngồi đỡ, còn đám nầy để đó cho thầy. Tôi đi rồi, thầy day lại cay đắng với thầy cai, bảo đã sợ bà như vậy thì đừng có vợ một vợ hai, lại còn khéo dụ dỗ người ta đem về xứ cho bị hại. May mà tôi chưa đi. chứ phải tôi xuống dưới rồi thì ba mạng của tôi cũng chẳng còn. Hú hồn? Ấy cũng nhờ có thầy Sáu hết lòng che chở, cho nên vợ thầy cai không dám đập phá đồ đạc nhà tôi, vì thầy Sáu hăm kêu lính bắt. Nói chí đáng, mụ nầy tuy dữ, nhưng cũng gốc ở vườn mới lên, nên không dám ỷ thị cho lắm. Con mẽ bắt thầy cai lập tức lấy áo quần đi theo mụ ta vô Chợ lớn rồi sáng ngày về dưới mất dạng.

Có chồng khác

Xong cuộc rồi, thầy Sáu mới nói tôi rằng: “Cô có biết làm sao vợ thầy hay mà lên làm hùm hổ như vậy không? Ấu là mưu độc của má Tư Hớn. Thầy biết chắc như vậy, vì lúc hai đàng ấu đả, có Má Tư đứng ngoài xa thị thiềng nhưng không lọt qua mắt thầy.

Còn năm con chết bằm vào ăn xía đánh tôi là năm con ở lậu em út của Má, chớ không ai xa lạ. Đây chắc là Má dò biết thày cai lên với tôi lại sẵn biết thầy có tánh thờ bà sợ vợ nên Má tuốt xuống Trà Vinh trục vợ thầy cai lên đánh tôi bỏ ghét, và trả thù luôn thể. Thầy Sáu tiếp: 

- Chẳng phải tôi dám xúi cô chia uyên rẽ thuý, thôi lấy thầy cai, song cô suy nghĩ lại coi, cô chọn người như vậy mà trao thân gởi phận, thì sao yên? Phận cô thì mảnh mai bồ liễu, thêm tứ cố vô thân. Chuyến nầy con mẹ cai giữ chặt thì trông mong gì thẩy thoát được mà lên trên nầy, vả lại chàng va bị bắt tại trận, phen nầy ắt thề bán mạng không tới lui với cô nữa, thì không bỏ mà cũng như bỏ, thêm nữa ở đây con yêu già kia còn, không biết nó sẽ bày mưu thiết kế gì nữa để hại cô. Đã biết cái sự binh vực cô, thì tôi đây sẵn lòng luôn luôn, dầu cho sẽ bị hại khốn khổ cách mấy, tôi cũng chẳng từ nan, ngặt một điều, tôi với cô bất quá là người hàng xóm, anh em với nhau mà thôi, nhưng ở đởi có nhiều khi gặp cơn hoạn nạn, anh em cũng phải cua tay không phép gì cứu đặng. Vậy cô nên suy nghĩ kỹ mà sớm liệu chọn đôi bạn khác thì mới tiện cho. 

Thầy nói cũng có lý, mà hiện nay tôi biết ai đâu mà chọn lựa bây giờ? Lại nữa ơn thầy hổm rày che chở, tôi biết lấy chi mà trả? Xem chửng coi bộ thầy ta thương tôi lắm, song thầy lấy lòng quân tử ngay thẳng, chẳng muốn thừa cái sự tôi mang ơn mà ép tôi vầy duyên nhưng tôi coi bộ không có cái chi làm cho thầy có phước và vui lòng bằng được lấy tôi làm vợ.

Suy xét kỹ càng rồi, tôi mới vừa cười vừa nói với thầy như vầy:

- Thầy nói nghe rất phải, nhưng tôi có thấy ai thương tôi thiệt tình đâu mà hòng trao tơ kết tóc. Ngay bây giờ tôi thấy có một mình thầy hết lòng giúp đỡ tôi. Vậy nếu thầy không chê, tôi xin gá nghĩa cùng thầy, trước đền ơn che chở, sau có chỗ dựa nương.

Tôi nói chưa dứt lời, thầy mừng thôi quýnh quýn, chạy a lại hôn tôi và ôm tôi vào lòng, mà nước mắt chảy đầy má không hay.

Từ đó vợ chồng tôi ở với nhau hết sức thuận hoà vui vẻ. Thầy Sáu đối xử theo cách Tây, nên dịu ngọt với tôi lắm. Đi chơi chỗ nào, hai đứa nắm tay nhau không rời. Nhờ vậy tôi mới biết mấy cuộc vui nhã thú ở Sài Gòn nầy, chớ từ lên trên nầy hết cô chủ sự thì lọt vào tay Má Tư, tôi chỉ biết ăn chơi đàn đúm, vày vò xác thịt cũng chỉ vì ba đồng tiền hôi hám. Nhờ thầy Sáu tôi mới làm quen được với các tay văn vật phong lưu, mà toàn là các tay viết báo hay chủ bút đang thời, như: các ông Nguyên Tử Thức, chủ bút tờ Nam Trung tuần báo, Lê Sum tự là Trường Mậu, bỉnh bút Công luận báo, Lão Ngạc Nguyễn viên Kiều, cựu hội đồng địa hạt ở Trà Vinh, Dủ Thúc Lương Khắc Ninh, cựu hội quản hạt, chủ bút tờ Nông cổ Mín đàm, dịch giả Tam Quốc Chí, từ 1904, trước Phan Kế Bính những bốn năm (bản Phan Kế Bính Hà nội xuất bản năm 1909), thêm làm chủ bầu gánh hát bội ở Cầu Muối (chỗ rạp Rex đường Hồ Văn Ngà cũ) (nhờ xem hát và đọc truyện Tàu mà tôi biết quẹt quẹt ba chữ quốc ngữ và viết lách chút đỉnh như hôm nay). Thầy Sáu lại dắt tôi đến khách sạn nào Nam Đồng Hương, Lục tỉnh khách lầu, Đỗ văn Bính Hôtel Confortable ở đường Carabelli của thầy Bảy Phương vừa yến ẩm nhậu nhẹt, vừa nghe ca lúc hát cải lương còn chập chúm “ca ra bộ” bản Tứ đại (Bùi Kiệm ngộ Nguyệt Nga), bản Bình bán (Bùi Kiệm thi rớt). Tôi cũng quen gần đủ mặt các kỳ cựu như Nguyễn Chánh Sắt (Tân Châu) bố vợ ông Trọng Bổn, Trần Thái Nguyên, làm bút toán cho nhà sách Nguyễn văn Của, tuổi nay trên chín chục mà còn mạnh khoẻ và hiện ngụ gần nhà ông, ở Gia Định, đường Bạch Đằng, từng xuất bản bộ truyện “Càn Long hạ Giang nam” từ 1900; ông Hội đồng kiêm Phó tổng Nguyễn Thành Phương, cha chị Nguyệt Hồng, tức ông ngoại tướng Nguyễn Khánh râu Charlot, chụp giựt một lúc rồi chạy qua bên nầy nhưng tôi không gặp; báo Đông Pháp thời báo, tôi biết ông Diệp văn Kỳ, báo Nữ giới chung, khi tôi biết thì bà Sương Nguyệt Anh (con gái ông Đồ Chiểu), đã nhường bút cho ông Thiệu Huy (Nguyễn Thành Út), tính lý lắt, viết bài xã luận thì không ra gì, nhưng làm thơ có hạng lắm. Quên nói, thầy Sáu làm nơi phòng luật sư Jacquemart (chết xin đốt xác, lấy tro chôn sông Sài Gòn, vì ông nói sự nghiệp ở đây và xin chôn ở đây để nhớ đất đai thuỷ thổ): Cái nghề làm việc thầy kiện, mà lương bổng có là bao, không đủ cho tôi mua son phấn, nhưng tôi trọng là tình nồng nghĩa mặn, cách đối đãi cư xử của anh Sáu tôi, nay nhớ tới còn sa nước mắt. Vợ chồng thương nhau hết tình, lúc ươn yếu lòng lo lắng cho nhau, đến quên ăn quên ngủ. Thầy Sáu dắt tôi về lạy cha mẹ thầy ở Rạch ông Hổ, thì ổng bả cũng bằng lòng. Tôi cũng đưa thầy về Rạch Gầm lạy tía má tôi, mở tiệc vật bò vật heo đãi đằng bà con làng xóm, rồi hai đứa tôi làm hôn thơ tử tế.

Thiệt thầy Sáu vẽ mặt vẽ mày cho tôi và làm rỡ ràng cho tía má tôi quá đỗi. Nay nhắc lại khôn cầm giọt luỵ, và thầy Sáu ôi, biết ngày nào đôi ta lại gặp nhau?

Lúc đó tôi lấy làm có phước quá chừng, tưởng đâu kiếp đoạ đày của mình đến đây là mãn hạn. Nào ngờ đâu số Đạm Tiên chưa hết. Qua năm sau, tía tôi mất vì rầu buồn mấy năm khía thất mùa, ruộng tuy không bao nhiêu nhưng đủ nuôi gia đình bỗng về tay người khác, tía thất tình mà chết. Vợ chồng tôi khi ấy, đem má tôi về ở chung chưa đầy bốn tháng má tôi đụng giặc trời mà chết theo tía tôi. Vừa chôn má chưa kịp mở cửa mả, chồng tôi bị truyền nhiễm ỉa mửa tưng bừng. Thôi. Một ngày đó, tôi chạy khắp phương, nào rước thầy, nào vái ông làng ông Địa, nhưng tôi còn tức buổi ấy nghề y dược chưa giỏi, hay là để an ủi, tôi cho người ta vẫn có số mạng, và kiếp phong trần khó tránh. Qua bữa sau, anh Sáu tôi khuất. Trời ôi! Lúc đó tôi không còn muốn sống trong giây phút nào, ngặt số chưa phải chết, thì chết cũng không rồi!

Tống táng xong xuôi, tôi mới về dưới nhà ông già bà già chồng tôi mà ở. Tội nghiệp! Thấy hai ông bà thiếu trước hụt sau, tôi cầm lòng không đậu bèn bán phứt hai cái hột xoàn, lấy tiền sửa nhà cửa lại chắc chắn, lại mua được một miếng đất đem cốt chồng tôi về nằm đó, chừa chỗ nữa hai ông bà về nằm chung với con, làm mồ mả xong thì trong mình còn được ít trăm. Tôi tính cho tiền lúa rồi lấy lời đó mà xài, ngờ đâu vận kiến thời quai, cho đâu mất đó, mấy năm ấy thất mùa, mấy ông tá điền ở “nhà đá” (là đá một cái mạnh, nhà sập tuốt họ hỏi bạc lúa rồi trốn mất, khiến vốn tôi thâm thủng hao mòn còn hơn nước đá để trong mùa nóng. Vừa đúng một năm, làm tuần cho chồng rồi trong túi chỉ còn độ trăm ngoài. Không đợi xả tang, trong lưng còn có hai mươi tám đồng bạc, nhắm ở nữa không tiện, phần yếu đuối, phần khung vốn, tính làm ruộng làm nương gì cũng không đủ sức, tôi bèn lạy cha mẹ chồng xin để lại phân nửa, còn bao nhiêu tôi lên xe một mất một còn với Sài Gòn cho biết mặt.

Lấy chồng là thằng điếm, nó dạy cách lột da thằng Chệc

Cũng chưa tởn. Người ta nói chơi dao có ngày đứt tay. Tôi tay đứt đã một lần, ngủ bót, lục-xì đã trải, nay lại làm nghề xấu hổ nầy đã đặng năm tháng.

Bữa kia có cậu nọ ăn mặc cũng bảnh tỏn, đến đôi ba lần xử sự khá ngọt, mau được lòng tin cô chủ và xin phép cô chủ, dắt tôi vô trong Chợ lớn, coi hát Quảng Đông, tuy không hiểu tiếng nhưng họ múa men bộ tịch xem không khác hát bội nhà ta. Hát vãn đi ăn chào Tiều, đến sáng mới đưa tôi về nhà cô chủ. Chuyến về, dọc đường hắn hỏi tôi giọng anh chị: “Mấy muốn tao xé giấy cho nầy không?”. Phải nói lúc nầy tôi đã cùng đường hay đang chới với như kẻ không biết lội ở dưới nước, lòng ngày ngày chỉ muốn mau mau thoát khỏi chốn nhơ nhuốc sa lầy nầy, dẫu ai đui điếc ngọng líu tôi cũng không chê và chẳng từ, khiến nên tôi vừa nghe hỏi, đã liền ưng chịu. Hắn giao kết hễ về với hắn rồi, thì nhứt nhứt phải nghe theo lời hết. Tôi hứa chắc mọi lẽ, nên hắn vội lo làm thủ tục xé giấy.

Xong rồi, tôi từ giã cô chủ, ngỏ lời cám ơn mấy tháng đùm bọc, và theo hắn vô Chợ lớn. Hắn mướn một căn phố có lầu, ở gần cột đèn Năm ngọn, chỗ thị tứ khá. Không biết tiền lưng hắn có bao nhiêu, nhưng hắn mua và dọn có đủ ghế bàn - tượng cẩn ốc xà cử gọi “tể tướng ỷ”, tủ kiếng hột vịt (tủ áo có gương soi lớn hình bầu dục), giường Hồng kông bằng thau vàng lườm, bàn mặt đá vân thạch trắng vân khói đèn vằn vện như chấm san thuỷ kiểu siêu hình, nhứt là có một tủ sắt hiệu Fichet rất to, không biết đựng gì ở trong. Xong rồi, nó biểu tôi ở đó lên mặt làm bà chủ, và cứ kêu nó là thằng Tư, tức như thằng ở, và, đừng xem nó là chồng. Trời ôi! Hết trong tay con mẹ chủ sự, về Má Tư Hớn lấy Hạch kế, lọt vòng tay thầy cai tổng, vừa ấm thân với anh Sáu kế chia tay, rớt vào nhà số làm ở có giấy, rồi được xé giấy gởi thân cho hắn mà hắn giao kết không cho gọi là chồng, ông cao xanh ôi, lòng ông ác vừa vừa, thân đàn bà yếu đuối ông vày vò thử thách quá chịu sao kham. Trong bụng vẫn lấy làm lạ, nhưng đã giao kết rồi, hắn biểu thì mình phải nghe theo, cãi sao nên. Hắn có hứa xong việc nầy thì hắn sẽ cho tôi một số tiền làm vốn rồi hai đứa chia tay, đường ai nấy đi, chớ hắn không buộc ràng đeo đuổi nữa: tự do mà! Song phải tận tâm giúp nó cho thành công, bằng không vậy chớ trách nó ra tay độc ác. Cho hay như con chim bị đạn, tôi bị hoạn nạn đủ thứ, nên dễ hoảng hồn, nghe hắn hâm doạ đã chết điếng trong thâm tâm, song nghe nó hứa phóng sanh bụng lại thấy nhen chút hi vọng thoát lồng sổ cũi. Nhứt là khi nhìn mặt hắn thấy sát khí đằng đằng, trừ phi biểu cầm dao giết người ắt tôi không dám chớ hắn biểu gì dễ dễ tôi đều chịu hết.

Đó rồi hắn đi mướn đồ, nào vòng vàng chuỗi hột đủ bộ vận, căn dặn tôi phải bắc kế cho thiệt sang trọng, rồi lối năm giờ chiều, mướn xe song mã, ngồi lên cho chạy vào chợ Bình Tây và cho xe chạy dài dọc theo mé sông, chỗ có ghe chài lúa đậu đông nghẹt ấy đảo một vòng như vậy rồi về, chỉ làm có bấy nhiêu việc là xong, kỳ dư về phần hắn lo liệu và tôi không cần hỏi cùng tìm hiểu làm chi, vô ích. Lúc xe đi ngang đám ghe đậu đông ken, tôi liếc mắt thì thấy quả hắn đang ngồi ngoài mũi nói chuyện chi với một thằng Tiều châu ở trần trụi trụi. Thấy xe tôi chạy ngang qua thì thấy nó lấy tay chỉ chỏ và nói cái gì với chú chác nọ mà vì cách xa quá tôi không nghe được tiếng nào. Đến tối hắn về, nói với tôi rằng: 

- Công việc êm ái cả. Tao nhử thằng Tiều châu đó, nó thấy mầy, nó mê như chết. Cá đã ăn câu, chỉ còn một chút xíu nữa là trúng mối to. Rán nghe! Tao nói với thằng chệc ấy rằng mầy là vợ ông chúa tàu Vạn Phước Nguyên, giàu nhứt nhì ở Chợ lớn, chỉ thua Chú Hoả Hứa Bổn Hoà ở Sài Gòn mà thôi. Nay ổng đã về bên Tàu, để hết của cải gia tài trên bá vạn cho mầy làm chủ. Thằng Tiều nầy quê ở Bạc Liêu, mua bán lúa vừa phát mấy năm nay và giàu lắm. Nó là thằng hảo ngọt, lại tham của nữa. Nội cái nhan sắc của mầy cũng đủ cho nó chết cha, huống chi nó nghe mầy giầu có nữa thì nó tán gia bại sản như chơi. Vậy ngày mai nầy tao dắt nó lại đây. Tao nói mầy coi tao như em út trong nhà, và như vậy mầy phải làm cho ra mặt. Tao giả bộ xin mầy hai mươi lăm đồng bạc, mầy cho, mà phải la lối một hồi, phải có giọng mụ chị cho hay. Còn đối với nó, thì mầy hỏi lơ là vậy thôi, rồi sai tao đi lấy nước lấy thuốc đãi nó, chớ mầy đừng có nhẹ thể rót nước dâng thuốc chi đa? Mấy cứ ngồi yên trên bộ ván nầy mà sai cắt, cứ bỏ nó ngồi dưới ghế nầy với tao. Mấy phải làm điệu cho hung mới đặng.

Sắp đặt xong xuôi, sáng ra nó đi mất. Lối chín giờ ngoài, nó dắt thằng Tiều châu lại. Cái thằng cha gì, coi bộ khốn khó quá vậy mà nói nó có nhiều bạc nỗi gì! Bận áo quần xung xình như đồ chín, may bằng lụa nhúng dầu bên Tàu đem qua, mưa không thấm ướt và khỏi giặt vì nước có thấm đâu mà giặt. Đi đôi giày Tàu cũ mèm, đạp gót cho thành giày hàm ếch, kéo sát đất nghe xẹp xẹp. Đặc biệt nhứt là miệng xỉa một cục thuốc Gò to bằng ngón chơn cái, làm cho môi phồng lên như cục bướu. Hai người vô tới nhà, tôi vừa hất hàm như chào, miệng hỏi to: “Ủa! Tư! Chớ mấy hôm nay đi đâu mất, không thấy mặt mày? Nay mới trôi về đây hả?”. Thằng tình trời đánh làm bộ xá tôi và nói: “Thưa chị, hổm rày em thua quá, nên đi bậy bạ kiếm chác tính gỡ, mà nó vẫn còn xui hoài?”. Tôi vụt mắng nó” “Đồ hết! Chồng ngồng cái đầu mà không nên thân. Biểu mầy tu tỉnh đặng tao giúp vốn, cưới vợ lo làm ăn, mà mầy không biết lo gì hết! Ủa? Còn người nào đi với mầy đó?”. Khi ấy hắn lễ phép thưa: “Dạ thưa chị, đây là ông Bang ở Bạc Liêu mới lên. Ông thấy em ổng thương, muốn đem em về dưới làm tài phú coi sổ sách giùm cho ổng.”. Tôi làm bộ tin và gởi gấm vài lời, nhưng tôi chỉ nói lơ là, tuồng như chú chàng không đáng mặt cho tôi nói chuyện. Kể từ hôm ấy, mỗi ngày tôi đều thấy chú Tiều nầy đảo qua đảo lại trước nhà mà không dám bước vô.

Khi nào tôi đang đứng trước cửa mà thấy lão đi ngang thì tôi cũng chào sơ một tiếng rồi bước vô nhà, chớ không mời thỉnh chi ráo, như vậy đặng một tuần. Bữa kia thằng trời đánh nó nói với tôi:

- Thằng chệc nó mê mầy như chết? Nó muốn cưới mầy hai ngàn đồng bạc mà tao nói với nó: “Tánh chị tôi không cần tiền, vì của cải của chỉ có đến chín mười muôn, xài không hết. Chỉ từng nói: Từng tuổi nầy không lẽ không đôi bạn, ở đặng cho đến già. Phần sự nghiệp chỉ to mà không có đàn ông thì sao được? Song chỉ muốn lựa người nào biết làm ăn, nhứt là tin cậy được, thì chỉ giao hết sự nghiệp cho mà coi sóc, chẳng luận giàu nghèo, hay xấu tốt chi cũng không cần. Hổm rày chỉ có ý khen chú là người thiệt thà. Thôi để tôi liều mạng ướm thử coi đặng cùng chăng. Nếu chỉ không nghe, bất quá chỉ mắng ít tiếng rồi thôi, chớ chết chóc gì? Vậy để vài ngày nữa, tao sẽ nói với va rằng: “Tao nói rồi, chỉ chịu không chịu, mà không cũng không không. Chỉ cứ nói để thủng thẳng, dò xem tình ý cho chắc đã. Nên chỉ mời chú mai lên nhà dùng một bữa cơm thường. Trong lúc ăn, mầy phải giữ bộ tịch cho nghiêm trang; cơm rồi mầy sẽ mời nó từ rày lên xuống chơi cho nó dạn lần. Nhớ đừng mơn trớn và cũng đừng lả lơi. Tụi Ba Tàu ưa nghiêm chớ không ưa trây trưa.

Quả ba ngày sau, hắn dắt chú nọ lên nhà dùng bữa. Trong nhà lúc nầy rần rộ hai ba đứa ở, coi thật là nhà có của muôn. Và từ ấy “hia” (tức anh theo giọng Triều châu) tối lên xuống thường hơn trước. Mấy lần như vậy, hia đều gặp khi thì chúng tới trả tiền lời, khi thì lại khẩn cầu thay giấy nợ hoặc xin cho hẹn qua vài tháng sẽ trả tất, mỗi mỗi đều là kế của thằng trời đánh, và hắn khéo làm tuồng, lựa toàn những kép thiện nghệ, người nào người nấy đến nhà gặp tôi đều còm róm làm bộ sợ sệt như thiệt, còn tôi thì mặc sức lên giọng, rầy rà, giận giũi, mắng nhiếc người ta ra mặt, cho thằng chệc thấy rõ ràng là nhà hào hộ, có tiền cho vay đặt nợ huyên thiên, một đôi khi hia gặp tại trận người nầy đến cầm bán hột xoàn, người khác đến cầm cố, treo ruộng treo đất, hoặc hỏi tôi xin mướn phố lầu, thiệt là mưu của thằng trời đánh sâu quá, hia tôi mắt thấy tai nghe rõ ràng: tôi quả là tay cự phú, son vá, một ngày tới tối, tôi mở tủ sắt ra; đóng tủ sắt lại tở mở, mà chớ chi lúc ấy hia dòm đặng trong tủ thì mới biết là tủ không với mở giấy vô dụng chớ có đồng xu nào ở trỏng.

Chú chệc lên xuống cũng gần trót tháng, thì khi một chút, khi một ít, lần lần coi chú đã gần cụp với tôi. Tuy vậy mặc dầu, nhớ tôi khéo giữ lèo lái nên chệc ta chưa rờ tới mình tôi đặng.

Một bữa nọ, Tư nhà ta đi mướn một miếng đất hoang, rồi mua đâu cũng độ vài trăm bạc cát để trộn hồ và một đống xà bần gạch vụn, thứ để xây nền nhà, nó lại chớ từ đâu đem lại một mở tre hè, y như sắp sửa soạn cột giá cái hay giàn trò đặng xây dựng phố lầu gì đây xong xui nó biểu tôi dắt anh Tiều lại xem. Nó khoe có mặt tôi đứng đó, với anh Tiều rằng:

- Tôi mới mua miếng đất nầy, mua rồi định cất tạo phạo vài căn phố trệt để cho mướn cầm chừng vậy thôi, chớ lóng nầy bị tôi mới mót máy cho thầy ban biện dưới Bãi Xàu (Sốc trăng) vay chín ngàn, khiến nên không dư tiền mà cất phố cho tốt. Có ngờ đâu khi đến xin phép ở Xã Tây, họ nói chỗ nầy thị tứ lắm, chánh phủ chỉ cho phép cất phố lầu mà thôi, và mấy dãy phố cũ đều phải cơi lầu lên hết. Và hiện nay tôi đang hụt tiền, vậy chú có lòng tốt, hãy thừa dịp nầy cho tôi mượn đỡ một muôn, rồi bốn tháng nữa, đến kỳ lúa chín mấy chỗ khác trả cho tôi thì tôi sẽ hoàn lại cho chú, được không?

Nguyên thằng trời đánh nầy, lúc ở nhà, nó có nói nhỏ với anh Tiều rằng tôi đương dò ý tứ ảnh, đọ xem có của cải gì không, lại nữa muốn biết coi ảnh có thiệt tình thương tôi hay không. Nên hay hỏi đột ngột làm vầy đây, trong bụng anh Ba Tàu định cho tôi làm bộ túng bấn mà dọ lòng và bề thế ảnh, chớ tôi mà thiếu gì tiền. Vả lại, dầu cho tôi thiệt túng đi nữa, thì sự nghiệp tôi như vậy, có mất mát đi đâu mà phòng sợ? Còn thêm một nỗi hiện ảnh đương mê cái nhan sắc của tôi gần muốn chết, thì sao mà chẳng ừ cho đặng. Bởi vậy hia Tiều gật đầu chịu liền, và hứa để về dưới lấy tiền lên.

Năm bữa sau, quả nhiêu Tiều ta đem lại một muôn chẵn, toàn là giấy xăng (một trăm đồng: cent piastres). Va đưa tiền, tôi đòi làm giấy, nhưng anh Tiều lên mặt cao thượng, ngó tôi mà rằng:

- Thôi! Cần gì!

Chia tay chạy trốn

Thộp ngon lành đặng một muôn đồng bạc của anh Tiều châu hảo ngọt, thằng Tư ấy mới cầm một ngàn rưỡi cho tôi mà rằng:

- Thôi hai đứa mình ô-rơ-hoa (au revoir!). Tao phóng xả cho mầy đó hãy tìm chồng khác lo làm ăn. Nay để tao cút trước, còn mày cũng phải thu xếp mà cao chạy xa bay cho lẹ lẹ, đừng để đổ bể việc nầy mà chết chùm cả đám. Tuy không giấy không tờ, nhưng tao thì có tiền án, mầy vừa xé giấy không lâu, hễ thằng chệc nó thưa thì lính tới nắm đầu lập tức. Như vậy kế đã thành, ta phải làm theo hát bội, hát bài tẩu mã, và dĩ đào vi thượng!

Nói rồi nó cuốn gói đi biệt. Cho đến nay tôi không biết tên họ nó là gì, luôn danh tánh cô Sáu chủ cũ của tôi cũng vậy. Trọn ngày đó, tôi sợ hết hồn, ngồi tính nát óc, muốn chờ hia nọ về mà lạy dài, tỏ thiệt đầu đuôi, năn nỉ xin trả một ngàn rưỡi bạc đó cho hia, rồi tình nguyện về làm mọi cho hia mãn đời là trừ nợ. Tính vậy rồi lại sợ: không phải sợ anh Tiều nầy không dung, rồi bỏ tù bỏ rạc gì. Nói chí đáng: gian hùng tới nước, cho ở tù cũng không oan. Song sợ nhứt là bể chuyện ra, nếu tôi khai thiệt, thì thằng Tư sao khỏi bị bắt. Ý cái thằng trời đánh, coi vậy mà oai ghê.

Không biết nó phù phép gì, mà trong tháng tôi ở với nó, nói tình tội tôi sợ nó như sợ cha, nó biểu chi tôi nghe nấy. Nay nếu tôi khai thiệt, quan bắt nó đặng, thì chẳng lẽ tội như vầy, mà ai đi chém giết gì nó, bất quá kêu án nó đôi ba năm, cha chả! Rồi chừng nó mãn tù, thì tôi có chạy đường trời cũng không khỏi tay nó. Tính nát trí khôn, rồi tôi cũng cho duy có kế trốn là hay.

Bữa đó lại là ngày thứ sáu, tôi mới gạt hia Tiều rằng tối mai thứ bảy, có chị em rủ đi ăn cơm Tây và xem hát sáng đêm, như vậy đừng có lại, vì tôi đi khỏi. Sắp đặt xong, đồ đạc vòng vàng bao nhiêu tôi đeo hết vào mình, lộn lưng một ngàn rưỡi bạc, ghịt mấy lần chắc chắn, còn lại gia dư tôi không dám lấy một món gì ở trong nhà đều bỏ lại hết. Bữa cơm chiều, trẻ nó dọn, bưng tới miệng cũng không kịp ăn, nuốt không vô, lật đật xuống tàu chạy đường Nam vang mà ẩn mặt.

Đi đường chuyến nầy tôi cẩn thận lắm, chẳng phải vì có tiền mà se sua lòe loẹt tôi mua giấy đi Phnom-penh hạng chót, rồi mướn một chiếc chiếu trải ngủ chen chúc giữa đám bộ hành đàn bà. Sáng ra tàu tới chợ Mỹ Tho, cặp bến. Tôi thấy lính xét giấy thuế thân, mà vì sẵn có tịch nên bịnh đa nghi của Tào Tháo hoành hành. Thế khi động ổ, có ai mạch cho hia Tiều, va đi cớ bót nên quan mới sai lính đón tra xét lung tung. Lúc đó trong bụng đánh trống chiến loạn đả. Liệu bề đi luôn lên xứ Chùa Tháp bất tiện, vì nghĩ dại rằng ắt có dây thép lục tống, và chỗ nào tàu ghé chắc là đêu có lính tráng kiểm tra. Muốn lên bờ tại đây đặng tánh đi ngả khác, ngặt sợ hai cậu bếp đứng chần ngần dường như tìm kiếm bắt cho được ai đó vậy. Trong cơn bối rối, trực nhớ lại chú mái chính răng bịt vàng cả hàm trên, trông dị hợm, nghe lỏm được biết chú lên ở Mỹ Tho, mà thiệt từ hồi tàu chạy cho tới bây giờ, mình thì lo buồn, mà chú cứ theo tấn ơn ve vãn, giận tức gần nứt bong bóng nay thấy chú đang dọn dẹp hành lý sửa soạn lên bờ, tôi bèn lại gần thỏ thẻ mượn chú chỉ giùm một khách sạn nào cho gần ga xe lửa, của Tàu hay của ta bất chấp, miễn sạch sẽ, vì thuở nay tôi chưa biết và quen thuộc đường xá xứ nầy. Hia ta nghe tôi ướm hỏi, coi bộ mừng quýnh quýu trông tức cười nhưng tôi rán nín. Hia ta lật đật giành xách cái quả cẩn đựng chút quần áo và hai tôi cặp kè đưa nhau lên bờ, coi tuồng như vợ chồng lâu năm gắn bó. Hai cậu bếp có lẽ quen mặt, nên chào chú mái chính mà không xét giấy.

Tới khách sạn ở mé sông gần ga xe lửa, do người Quảng Đông làm chủ, tôi nghe chú mái chính biểu dọn phòng thượng hạng, đế dắt tôi lên lầu nghỉ ngơi cho mát mẻ. Tôi cười thầm thằng Ba Tàu nầy muốn sanh bụng tẹo, cho nên một hai tôi nài ở phòng khách từng dưới, vì tôi còn đi kiếm thăm bà con, có lẽ ngày mai hay ngày mốt tôi mới trở về đây. Mái chính răng vàng cười bày đủ bộ răng gần nửa lượng, cho tôi rồi ra về, lại hứa để chiều mát trời, y sẽ đem xe nhà rước tôi qua xóm chợ cũ dùng cơm Quảng, có món hủ tíu đặc biệt tiếng đồn đến khách phong lưu Sài Gòn đều xuống đây thưởng thức, luôn dịp y sẽ mua giấy trước xem hát của gánh thầy Năm Tú nào đó diễn tuồng Kim Vân Kiều theo lối hát mới, gọi cải lương lại, vai Kim Trọng do thầy Bảy Thông đóng, và vai Thuý Kiều do cô Kim Cúc thủ đứng cặp với cô Thoàn(1) trong vai Thuý Vân, cả ba đều xuất sắc vả hát cụp lạc lắm. Tôi cũng ừ hữ cho có chừng, trong bụng cười thầm: “Mái chính ơi! Con nầy không vừa đâu, nó nhai tươi nuốt sống (nhĩ, mầy, anh) và ăn gỏi nị cái một, nhưng nó đang chạy trốn nên không dám trổ tài đó chớ, khuyên nị cứ ăn cơm Quảng Đông và ngủ với xẩm Tàu, đồng bào nị, là chắc ăn hơn. Nhưng đây là tôi nói thầm, mình nói mình nghe, chớ đâu dám bĩ hơi cho lậu sự. Chú mái chính đi về rồi, cũng vừa buổi trưa kiến cắn bụng, tôi lận lưng lấy ra một đồng bạc, nhờ anh chệc bồi phòng đi mua cho tôi một mâm cơm: hai chén cơm thật trắng thật ngon, còn thức ăn thì một tô canh câu kỹ, một đĩa thịt vịt quay lựa khúc đùi, một đĩa cua xào giấm và đừng quên cho tôi một đĩa thịt xá xíu, vì từ ngày làm quen với hia Tiều, tôi đã ghiền món nầy và nhớ hoài không bỏ qua được. Cơm rồi tôi đánh một giấc để lấy sức, nhưng trời đất ôi, có ngủ nghê gì được với ba con rệp của phòng ngủ Tàu, thêm cái mùng dơ hầy, tuy mùng lưới thứ đắt tiền, nhưng khói thuốc phiện đóng ám đến trỗ màu vàng, còn dưới chưn mùng, nói mà phát gớm, lốm đốm những cụp lạc(2) thành tích mấy trận chiến đấu không thôi giữa gái làng chơi và trai tứ chiếng. Ai bày đặt khách sạn là “nhà ngủ” đáng gọi là “nhà thức” mới phải, vì khách đến đây, nếu không đi gái, thì đến để gầy sòng bài bạc hút xách, nhậu nhẹt, đĩ điếm, thức sáng đêm, tàng tịch ăn chơi chớ ít khi ngủ, bằng có ngủ thật thì lăn chiêng sau trận chiến đấu săn vi trùng, chớ gọi nhà ngủ nỗi gì, trớ trêu đi thật? 

Vừa ba giờ chiều tôi đã rửa mặt, trả phòng, leo chuyến xe lửa bốn giờ rưỡi chạy, trực chỉ Sài Gòn, nơi quen biết cũ. Nhắc tới xe lửa thuở ấy mà tức cười, hèn gì Pháp đặt tên “le tortillard” (xe cong queo), thật ra xe nào cong queo nhưng đầu máy yếu quá, bữa nào kéo nhiều toa, thì xe lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức không nổi, còn cách dốc cầu độ nửa cây số ngàn, thì xả hết tốc lực, giựt dây thổi xúp-lê (sinet) nghè rậm đám lắm, nhưng khi tới dốc thì xe từ từ chậm lại, rồi lúc nào gặp trời mưa, đường rầy trơn, thì tuột dốc thụt lùi trở lại, mới là báo đời chưa? Chừng ấy nào người coi máy xổ chữ Nho nghe không hết, nào thầy xệp (chef de train) đổ thửa và quở trách om sòm, bóng đổ thầy, thầy đổ bóng rồi xe ngưng lại, chụm củi thêm, chờ cho máy nóng rồi ạch đụi lấy trớn chạy nữa, như được qua dốc cầu thì bữa ấy chuyến xe tới sớm hoặc đúng giờ, bằng không thì ngày ấy xe chịu tới trễ. Tức cười là bộ hành làm như con ruồi trong bài ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên (La Fontaine), xe thở hào hển rán sức lên dốc, còn bộ hành ai nấy đều nín hơi rặn phụ lực y như thuở xưa gặp đẻ khó, người thân quyến phải rặn giúp sức người sản phụ sanh thằng nghịch tử! Bữa tôi đi, may quá, xe tới nhà ga chợ Bến Thành thì trời chật vật nhưng chưa tối lắm, tuy vậy mà tôi cũng sợ, đội khăn sùm sụp (đây là tôi sơ ý vì lính thấy bộ tịch khả nghi càng mau gọi và xét giấy hơn là để đầu trần). Tôi kêu xe kéo tuốt lại khách sạn của thầy Bảy Phương đường Carabelli, vì thầy Bảy là người biết điệu lo lót đủ mặt cò bót và lính tráng, thêm nhà ngủ nầy ở gần đường Catinat, yên tĩnh lắm. Chỗ nầy người quen biết ít lại lắm, tuy vậy tôi cứ phập phòng, ngủ không yên giấc. Trời vừa rực sáng, tôi đã trả phòng, đi bộ lại chợ cũ, ních hai tô cháo cá ngon lành, vì đêm rồi nhịn đói bỏ cơm, và tiệm Quảng Đông bán cháo cá nầy nấu ngon lắm, ai ai đất Sài Gòn nầy đều quen biết thuở nay. Xong rồi tôi kêu xe kéo đến ngôi nơi bồn bông trước nhà thờ Đức Bà, ngang nhà dây thép chánh chờ chuyến xe đò chạy lên Tây Ninh, rủi bữa đó không có xe, tôi phải trở lại mướn phòng nơi khách sạn Nam Đồng Hưng, số 74 đường d’Espagne, ẩn mặt đến sáng thứ ba mới lên tới Tây Ninh, ẩn thân cửa Phật.


Thứ Tư, tháng 8 8

Cuộc đi săn cuối cùng

Rừng cây bây giờ không còn hào phóng như xưa nữa. Những chuyến đi săn ngày một khó khăn. Phường săn ở bản Nà Loòng đã tan rã. Nhiều thanh niên trong phường săn giờ chuyển sang làm việc cho những đầu nậu gỗ ở dưới xuôi. Chỉ việc vào rừng chặt gỗ chở ra đường cái cho các đầu nậu là xong. Tiền công rất hậu hĩnh. Càng nhiều cây bị cắt, thú rừng càng ít đi...

Vàng A Sinh đạp chân lên đám lá còn đẫm hơi sương. Vào rừng đi săn phải đi từ sớm. Sáng sớm, rừng cây còn chưa tỉnh giấc, không khí còn trĩu nặng hơi sương, mùi người chưa bay xa được, con thú khó đánh hơi thấy để mà đề phòng.
A Sinh đi qua đồi Rậm.
Thời xưa, rừng cây bát ngát mênh mông.
Thời xưa, đồi Rậm còn nằm sâu trong tim rừng.
A Sinh còn nhớ mỗi lần đi săn, từ đường mòn đến đồi Rậm để cắm trại nghỉ ngơi có khi phải mất cả ngày. Bây giờ, đường mòn ngày càng lấn sát vào tim rừng, xe cộ đi lại rầm rầm. Từ chỗ dừng xe vào đến đồi Rậm chỉ mất có vài tiếng. Nơi đây lúc trước hoang vu là thế, cây cối rậm rạp mướt mắt, giờ đồi trọc lóc, trơ trọi một màu đất đỏ chói lói.
A Sinh tìm đến gốc Cụt nghỉ ngơi. Cái gốc Cụt này vẫn còn y nguyên. Vẫn còn cái hốc dưới gốc cây như cái lần anh bắt được con Sứt.
Xa xa từ đâu đó trong rừng bỗng có tiếng hú rền vang.
Chẳng lẽ đó là tiếng hú của chó sói?
Từ lâu lắm rồi, quanh rừng Nà Loòng làm gì còn chó sói?
A Sinh nghiêng tai nghe. Có lẽ chỉ là tiếng gió rít qua những lùm cây lúp xúp.
Anh nhớ tiếng hú của con Sứt. Nó nguyên là chó sói. Không hiểu sao nó bị chó mẹ bỏ lại nằm lăn lóc ở gốc Cụt. Lần đó, A Sinh nghỉ chân ở đồi Rậm, bỗng anh nghe thấy tiếng rên i ỉ. Lần theo tiếng kêu đến gốc Cụt, anh phát hiện ra một con chó sói con đang bị kiến bu đầy mình. Anh phủi kiến, nhấc con sói con lên. Con chó có hai mắt sáng, chân tay bụ bẫm, ức nở rộng, trông chẳng khác gì chó nhà. Một bên tai con sói con đã bị kiến gặm sứt một mảng, máu chảy rươm rướm. Thấy có người nhấc mình lên, con chó lưỡi thè lè. Anh quan sát thấy đốm lưỡi nó đen ngòm. Theo những tay sành xem tướng thì đây là một con chó thông minh. Suy nghĩ một lúc, A Sinh bỏ con chó lên gùi. Anh mang nó về bản Nà Loòng cho nó canh nhà.
Vì tai nó đã bị sứt một miếng nên anh gọi nó là con Sứt.
                          *
Vàng A Sinh vẫy tay. Con Đốm chạy vọt lên. Dáng chạy băng băng.
Dáng chạy của con Đốm rất khác với con Sứt. Con Sứt chạy lúc nào cũng như đang dè chừng một điều gì đó. Nó có tật vừa chạy, vừa ngoái lại nhìn xung quanh. Điệu bộ của nó lúc nào trông cũng có vẻ gian gian.




Con Sứt được A Sinh nuôi dạy rất nghiêm khắc. Nó trở thành chó giữ nhà. Về cơ bản, nó là một con chó ngoan. Thực ra nó chẳng khác gì những con chó giữ nhà khác là mấy. Nhưng A Sinh vẫn ám ảnh. Dù sao con Sứt vẫn là chó sói. Trong con người nó vẫn là dòng máu sói. Không cẩn thận, thú tính của nó nổi lên là hậu quả khôn lường.
A Sinh thể hiện quan điểm rõ ràng với con Sứt. Anh dạy nó bằng đòn roi. Con chó mắc bất cứ lỗi nhỏ nào là anh trừng trị thẳng tay. Sủa linh tinh, đánh! Chạy lang thang không trông nhà, đánh! Cắn nhau với chó hàng xóm, đánh! Kể cả thấy nó léng phéng nhìn đàn gà với đôi mắt gian gian là A Sinh cũng vác roi ra vụt cho nó một trận không thương tiếc.
Bản Nà Loòng vẫn thường tổ chức đi săn. A Sinh cũng thuộc phường săn của bản. Nhưng mỗi khi đi săn thú, không bao giờ anh cho con Sứt đi theo. Anh sợ việc chạy đuổi theo những con thú bị thương sẽ làm sống lại thú tính săn bắt của nó. Chỉ khi nào đi rừng, đặt bẫy, anh mới cho nó đi theo…
Vàng A Sinh bước đến truông Cấm.
Con Đốm vẫn cần mẫn chạy phía trước. Thỉnh thoảng nó lại sục vào bụi rậm. Chắc nó đánh hơi thấy con sóc hay con chuột nào đó. Nó đánh hơi rồi ngoái lại nhìn anh như chờ đợi xem anh có ra lệnh cho nó bắt đầu một cuộc săn nhỏ hay không. Anh xua tay sùy sùy. Thế là nó nhảy ra khỏi bụi rậm, quay trở lại con đường mòn giữa rừng.
Hồi xưa, vào đến truông Cấm là đã vào rất sâu trong tim rừng rồi.
Người dân bản Nà Loòng đặt tên nơi đây là truông Cấm bởi chỗ này rừng cây rậm rạp, rất nhiều thú dữ. Nhiều khi phường săn vào đến đây, quan sát xung quanh, họ còn thấy có những dấu chân hổ to bằng cái bát in hằn trên nền lá ẩm mục.
Mấy năm nay, những câu chuyện về hổ đã ít đi nhiều. Hổ bị mọi người săn đuổi ráo riết, dần dần bị tận diệt. Người ta gọi hổ là Chúa sơn lâm. Thế nghĩa là số phận của hổ đã bị định đoạt. Từ ngàn xưa, những gì bị tôn vinh là Vua, là Chúa rồi khắc sẽ bị săn đuổi. Chúa tể của rừng xanh chỉ là danh xưng người ta gọi cho có vẻ kính trọng. Còn trên thực tế, họ sẵn sàng săn lùng tiêu diệt, lột da để làm thảm, nấu xương để làm cao, bẻ nanh, bẻ vuốt để làm vật trang trí.
Những con hổ cuối cùng cũng đã rời khỏi cánh rừng.
Có lẽ rồi chúng sẽ chỉ còn xuất hiện ở những câu chuyện kể bập bùng bên bếp lửa.
Truông Cấm cũng không phải là nơi cấm địa nữa.
Làm gì còn hổ nữa đâu mà sợ?
Tuy nhiên nhiều người vẫn e ngại khu vực truông Cấm. Hổ không còn nhưng lại có chó sói.
Ba năm trước…
Lần đó, A Sinh cùng con Sứt đi rừng hái thuốc. Đến truông Cấm, bỗng nhiên con Sứt lông gáy dựng đứng. Mắt nó nhìn thẳng vào lùm cây trước mặt, sủa dữ dội. Lùm cây động đậy. Rồi xung quanh cây cối rung rung. Những chiếc tai nhọn hoắt như từ dưới đất mọc lên, rẽ cây tiến lại gần phía A Sinh. Một đàn chó sói xuất hiện bất ngờ, dễ chừng phải hơn chục con. Chúng lập tức bao quanh hai con mồi, mắt nhoáng lửa, răng nanh nhe ra trắng ởn. Con Sứt vừa sủa vừa lùi về phía chân A Sinh tìm sự che chở. A Sinh tay phải rút nỏ, tay trái cầm chắc con dao rừng.
Một con sói lao đến. A Sinh buông lẫy nỏ. "Tách!", con sói bị mũi tên đâm xuyên qua ức đổ gục xuống. Cả đàn sói lập tức ào lên. A Sinh không kịp lắp tên, vội cầm chặt dao rừng nhằm lũ sói chém mạnh. Một con sói nữa bị dao chém thẳng vào đầu nằm lăn ra đất. Bỗng "goằm!", anh bị một con sói vòng ra đằng sau cắn vào đùi anh. Mấy con sói phía trước vội nhao đến. A Sinh khua dao rối rít, vừa giẫy chân cố hất con sói ra. Hàm răng chó sói sắc như dao, máu anh chảy xuống ấm cả một bên đùi.
Con Sứt từ đâu lao đến như một mũi tên, húc vào con sói. Con Sứt và con chó sói cuốn chặt lấy nhau lăn lông lốc ra xa. Cả đàn sói lập tức nhao đến cắn con Sứt túi bụi. A Sinh thấy tình hình không ổn vội quay đầu chạy về phía bản. Con Sứt cố gắng chặn đường cho anh một cách tuyệt vọng.
A Sinh chạy thục mạng.
Đàn chó sói không đuổi theo anh nữa, quây vào con Sứt.
Tiếng chó sủa xa dần, xa dần…
Chạy về đến bản Nà Loòng, A Sinh mới tin rằng mình thoát chết. Anh vội cùng phường săn vào rừng bắt lũ sói. Đến truông Cấm, chỉ thấy máu me be bét. Người ta bảo rằng con sói nào chết, đồng bọn sẽ ăn thịt chúng luôn.
Chắc con Sứt cũng đã bị lũ chó sói ăn tươi nuốt sống rồi.
Vàng A Sinh tìm đến bụi rậm chỗ con Sứt đánh nhau với đàn chó sói. Lùm cây vẫn còn nguyên đó. Con Đốm đang chạy đến chỗ bụi cây ngửi ngửi. A Sinh nói to: "Có ngửi thấy mùi con Sứt không?". Con Đốm ngoái lại nhìn anh ngơ ngác…
                        *
Đã gần đến chỗ Vàng A Sinh đặt bẫy.
Ngày xưa, chỉ cần đặt bẫy ở rìa rừng là cũng có thể bắt được thú. Giờ thú rừng ngày càng ít đi. Muốn hiệu quả, phải vào tận sâu trong tim rừng, bẫy phải được ngụy trang khéo léo mới mong bắt được thú. Thú rừng ngày càng ít đi. Bản năng sinh tồn khiến chúng ngày một khôn ngoan hơn, cảnh giác hơn. Mỗi lần đặt bẫy, A Sinh thường đặt một chùm vài cái bẫy chặn nhiều lối đi lại của thú rừng. Thế mới mong bắt được chúng.
Rừng cây bây giờ không còn hào phóng như xưa nữa. Những chuyến đi săn ngày một khó khăn. Phường săn ở bản Nà Loòng đã tan rã. Nhiều thanh niên trong phường săn giờ chuyển sang làm việc cho những đầu nậu gỗ ở dưới xuôi. Chỉ việc vào rừng chặt gỗ chở ra đường cái cho các đầu nậu là xong. Tiền công rất hậu hĩnh. Càng nhiều cây bị cắt, thú rừng càng ít đi.
A Sinh vẫn đi săn thú bởi vì người ta trả giá cho thú rừng cao hơn trước. Mỗi chuyến đi rừng, chỉ cần vài con thú dính bẫy là anh cũng có thể đem bán, đủ tiền cho gia đình trang trải một thời gian.
Con Đốm đang chạy với tốc độ bình thường phía trước, bỗng nó nhổm lên mô đất, mũi hít hít theo hướng gió. Rồi nó sủa to một tiếng, chạy thẳng đến chỗ đặt bẫy. A Sinh vui mừng. Chắc bẫy đã sập. Thế là có tiền rồi. Anh hăm hở chạy theo con Đốm. Nhìn ra vị trí đặt bẫy, A Sinh thấy xác một con chó sói cái. Con Đốm đang cắn chặt vào gáy khiến con sói cái giật giật lên giãy chết.
A Sinh tiến lại gần.
Bỗng từ trong lùm cây có tiếng chân chạy rập rạp. Một con chó sói to lớn rẽ lùm cây bước ra, miệng nó còn đang càm một con sóc nhỏ. A Sinh đoán đây là con sói đực. Chắc đôi sói này đi cùng nhau, con sói cái dính bẫy, đói quá nên con sói đực bắt sóc về cho nó ăn.
Thấy con sói cái bị con Đốm cắn chết, con sói đực sững lại trong giây lát. Con Đốm nhả gáy ra rồi định cắn tiếp vào phía bụng con sói cái. Sói đực gầm lên một tiếng rồi lao như một cơn lốc, húc thẳng vào mình con Đốm. Hai con chó cắn xé nhau quyết liệt. Con Đốm có vẻ thất thế hơn, bị con sói đực đè ngửa ra.
A Sinh lập tức giương nỏ. "Phực!". Mũi tên xé gió bắn ra găm thẳng vào đùi con sói đực khiến nó ngã lăn ra. Con Đốm lập tức nhỏm dậy chồm lên mình con sói, tợp một miếng chí mạng. Con sói vội nghiêng má tránh miếng đớp khỏi chỗ hiểm. Miếng đớp của con Đốm táp thẳng vào mắt con sói. Chỉ chờ có vậy, con sói nhanh như cắt giương hàm răng sắc ởn đớp một phát chí mạng vào cuống họng con Đốm. Con Đốm tru lên thê thiết, gục xuống, máu từ cuống họng nó trào ra ồng ộc.
Con sói đực lẩy bẩy đứng lên, chạy chồm vội về phía con sói cái. Bỗng "pặp!", tiếng bẫy khô khốc vang lên. Chân trước của nó đã dính vào một chiếc bẫy của A Sinh. Nó gầm lên những tiếng uất hận. A Sinh thấy con sói đực đã dính bẫy, anh bình tĩnh bước lại gần phía con sói cái. Thì ra đó là một con sói đang nuôi con. Ngực nó căng sữa. Dưới bụng nó là hai con chó sói con còn đang hì hụi rúc tí chó mẹ. A Sinh đá đá vào hai con sói con. Chúng đau đớn kêu lóc chóc.
Con sói đực thấy A Sinh đá lũ con của mình, nó lập tức sủa lên một tiếng vang động. Tiếng sủa quen quen. A Sinh chăm chú nhìn con sói đực. Một bên mắt của nó đã bị con Đốm cắn thủng, máu chảy tràn trề khuôn mặt.
Khuôn mặt nó trông quen quen.
Chẳng lẽ…?
Đúng là con Sứt rồi. Cái tai bị kiến gặm sứt của nó vẫn thế.
Con Sứt giương mắt nhìn chủ cũ, sủa lên mấy tiếng thân thiện, ánh mắt đầy van xin.
A Sinh nhìn xác con Đốm. Anh nghiến răng: "Đồ chó phản chủ!". Đoạn anh giương nỏ lên nhắm thẳng về phía con Sứt. Mấy con chó sói con lúc nãy đang ngủ, vừa bị anh đá giờ đã tỉnh dậy, chồm lên xác con sói mẹ sủa chóc chóc. A Sinh đặt ngón tay lên lẫy nỏ.
Bỗng con Sứt gầm lên một tiếng. Nó vặn người há to mồm đớp một phát đứt lìa cái chân đang dính bẫy của nó. A Sinh khiếp hãi. Con Sứt nhao đến như một tia chớp, đâm bổ vào ngực anh. A Sinh chới với ngã ngửa ra sau. Con Sứt chồm lên giơ hai hàm răng nanh sát cổ họng anh gừ gừ. A Sinh ngước mắt nhìn con Sứt. Mắt nó man dại vằn tia đỏ lựng. Máu ở cái chân bị cắn đứt của nó chảy thẫm đẫm lên ngực anh. A Sinh lắp bắp: "Sứt! Sứt! Tao đây! Tha cho tao!".
Trong chốc lát, ánh mắt hoang dại của con chó sói như giãn ra. Rồi nó bước ra khỏi ngực anh, tập tễnh đi về phía hai con chó con. Nó hít hít xác con chó sói cái, ngửa cổ lên trời tru lên một tiếng thê thiết.
A Sinh vùng dậy. Con Sứt ngoàm gáy hai con sói con, quay lại nhìn A Sinh. Anh đã kịp nhặt lấy chiếc nỏ, lắp tên vào và ngắm thẳng về phía con Sứt.
Người và sói nhìn nhau yên lặng có lẽ đến vài phút.
Hai con sói con dường như cảm nhận được cái chết của mẹ, chúng rên lên ư ử nghe não nuột rồi ngửa mặt lên trời tru lên những hồi dài.
A Sinh bỗng nhớ đến tuổi thơ mồ côi của mình.
A Sinh nhớ đến cảnh đứa con ở nhà đang rúc đôi bầu vú nhõng nhẽo của mẹ.
Anh thất thần buông nỏ xuống.
Con Sứt vẫn càm gáy hai con chó con, mắt nhìn anh nhoang nhoáng ướt rồi tập tễnh đi khuất dần sau những bụi cây rậm rạp…
A Sinh thu dọn xác con Đốm và con chó cái rồi chậm rãi lê bước về phía bản Nà Loòng.

Đó là lần cuối cùng anh đi săn