Xưa, ông tổ người triều
Nguyên là con trai của một cặp mà chồng là sói xám, vợ là hươu trắng, sau khi
phối giống vượt sông Tăngchiso, rồi lại vượt nguồn Cannan đến trước dãy Bunhan
thì ở lại, mà sinh ra, tên Bataxihan.
Trích dẫn Dư Đại Quân dịch chú "Mông Cổ bí sử"
Ba rưỡi sáng, Trần Trận và Dương Khắc đem theo hai chó săn, lặng lẽ trèo lên
đỉnh đồi kề bên dãy núi Đen. Hai con ngựa đã được cột chân ở một
chỗ khuất phía sau. Con Nhị Lang và con Vàng rất nhạy cảm, thấy ra đi từ
đêm, chúng biết là đi săn, giờ đây chúng nằm im trên tuyết, cảnh giác nhìn tứ
phía. Mây dày che khuất trăng sao. Thảo nguyên tối đen, giá lạnh và
đáng sợ. Trong khuôn viên mấy chục dặm vuông mà chỉ có hai người, mà lại
là lúc sói thường xuất hiện, thấy người là tấn công. Dãy Đen như những
con thú khổng lồ đè nặng phía sau, khiến Trần Trận sống lưng lạnh toát.
Cậu lo cho hai con ngựa, và bắt đầu sợ cho hành động phiêu lưu của mình.
Bỗng có tiếng tru của sói từ phía đông bắc vọng tới, trầm như tiếng tiêu, dài
lê thê, dư âm ba bốn phút sau mới tắt. Rồi lại có tiếng chó đàn cùng sủa
từ xa vọng lại. Hai con chó nằm bên Trần Trận vẫn im lặng. Chúng
biết quy tắc: Nếu là canh đêm thì phải sủa như điên, nhưng nếu là mai phục chờ
lệnh tấn công thì phải im như thóc. Trần Trận luồn tay dưới nách con Nhị
Lang, tay kia ôm lấy cổ nó. Trước khi lên đường, Dương Khắc đã cho hai
con chó ăn lửng dạ, vì ăn no khiến chúng lười nhác, mất ý chí chiến đầu, ăn đói
khiến chúng đuối sức. Thức ăn đã phát huy tác dụng trong cơ thể con Nhị
Lang: Tay Trần Trận ấm sực, cậu úp lòng bàn tay lên cái mũi lạnh ngắt của con
chó. Nó vẫy đuôi khẽ. Có con chó săn bên mình, Trần Trận thấy đỡ
lo.
Sau mấy ngày đêm bận tối mắt tối mũi, Trần Trận rất mệt. Tối hôm kia,
Dương Khắc rủ mấy thanh niên người Mông đi bắt sói con, nhưng họ không tin ở
núi Đen có ổ sói nên không ai chịu đi cùng, lại còn khuyên hai người đừng đi mà
phí công. Hai người không chịu, quyết đi bằng được. Vậy nên lúc này
chỉ có hai con chó nhà làm bạn, hơi đơn độc, thiếu khí thế.
Dương Khắc ôm chặt con Vàng, bảo nhỏ Trần Trận: Đừng sợ. Sắp sáng
rồi. Ban ngày sói sợ người, ta còn đem theo cả thòng lọng.
Trần Trận cũng run như con Vàng, cậu cố trấn tĩnh, nói: Chúng mình như bộ đội
đặc công hoạt động sau lưng địch, hết cả ngái ngủ.
Dương Khắc cũng cố tỏ ra cứng cỏi: Đánh sói như đánh giặc, cả đấu trí lẫn đấu
lực, trong 36 chước chỉ trừ mỹ nhân kế, những kế còn lại đều có thể thi
thố. Bố Pilich quả thật đa mưu, phải cho chúng một trận mới hả.
Trần Trận nói: Nhưng mà đừng có chủ quan, mình thấy 36 chước vẫn chưa đủ để đối
phó với sói.
Dương Khắc nói: Đúng vậy. Chúng mình đang dùng kế lợi dụng sói mẹ về cho
con bú để tìm hang sói đấy thôi.
Trần Trận nói: Lũ sói sát hại nhiều ngựa quá, bố Pilich quá bức xúc mà phải ra
tay đấy thôi. Hôm nọ mình đi đặt bẫy mới biết nhiều năm nay ông già không
bẫy sói. Ông không có ý tuyệt diệt họ nhà sói.
Trời rạng dần, dãy núi Đen không còn giống những con thú khổng lồ nữa, hiện
nguyên hình núi đá. Từ phương đông, những tia sáng xuyên qua màn mây
mỏng, ngày càng loang rộng trên thảo nguyên. Người và chó phủ phục trên
tuyết, Trần Trận chĩa ống nhòm quan sát tứ phía, mù quá dày, mọi vật không nhìn
rõ. Cậu chỉ lo sói mẹ được sương mù che chở lúc này trở về hang, thì cả
một đêm thức trắng trở thành công cốc. May mà mù tản nhanh, biến thành
màn sương mỏng, lượn lờ trên mặt cỏ. Nếu có thú đi qua, màn sương lay
động là biết liền.
Bỗng con Vàng ngoảnh nhìn phía tây, lông gáy dựng lên, toàn thân căng
thẳng. Con Nhị Lang cũng ngoảnh nhìn về hướng con Vàng. Trần Trận
biết có chuyện, vội chĩa ống nhòm nhìn theo, nơi có vạt đất lau lách mọc đầy,
nối liền chân núi với đồng cỏ, chạy dài theo hướng đông bắc. Đây là nơi
vắng vẻ, khuất gió, là bức màn ngụy trang mỗi khi sói xuất kích trên thảo
nguyên. Ông già Pilich nói, mùa đông và mùa xuân, đây là nơi sói ẩn nấp,
di chuyển và ngủ; đồng thời cũng là bãi săn của dân du mục. Con Vàng và
con Nhị Lang rất có thể đã nghe thấy tiếng chân của sói trong bãi lau.
Thời gian đúng, phương hướng đúng, Trần Trận tin chắc con sói mẹ sắp về
ổ. Cậu quan sát cẩn thận bên rìa vạt lau, đợi sói mẹ xuất hiện.
Người già nói không sai, bãi sậy trũng, mùa xuân ngập nước, sói không làm ổ ở
đấy. Ổ sói thường ở chỗ cao, tránh lũ. Trần Trận cho rằng, dù con
sói xuất hiện ở hướng nào thì ổ sói vẫn ở sườn núi gần đó.
Hai con chó săn nhìn không chớp vào một bụi cây sậy. Trần Trận nhìn theo.
Cậu giật thót: Một con sói lớn ló nửa người ra ngoài, nhìn tứ phía. Hai
con chó săn lập tức nằm thấp hơn nữa, cằm sát đất. Cậu và Dương Khắc cũng
nằm xuống. Con sói quan sát tứ phía trong một thoáng rồi ra khỏi
bụi cây, chạy một mạch về cái khe phía đông bắc. Trần Trận vẫn dùng ống
nhòm theo dõi con sói. Cậu thấy con này hao hao giống con sói đã bắt con
cừu của cậu. Con sói chạy nhanh nhưng dáng kềnh càng, hẳn là đêm qua nó
đã bắt trộm cừu, no cành hông. Cậu nghĩ, nếu hôm nay chỉ mỗi con sói này
thì chẳng có gì đáng sợ. Hai người hai chó, nhất là có ocn Nhị Lang, chắc
chắn đối phó tốt.
Con sói mẹ trèo lên một cái dốc nhỏ. Chỉ cần xem nó rẻ hướng nào là có
thể đoán ra vị trí cái hang. Nhưng đúng lúc ấy, con sói quay lại
nhìn tứ phía, và nhìn rất lâu về phía hai người và hai con chó đang mai
phục. Trần Trận căng thẳng đến nghẹt thở, chỗ đứng của con sói cao hơn
dưới vạt sậy. Dưới vạt sậy, nó không nhìn thấy người, nhưng trên đỉnh dốc
này, rất có thể nó nhìn thấy. Con sói tỏ vẻ sốt ruột, nó chjay quanh tại
chỗ hai vòng trù trừ một thoáng rồi bất chợt men theo con dốc thoai thoải chạy
một mạch về phía đông, dừng lại ở một cửa hang rồi chui tọt vào trong.
Ngon rồi, ta có thể vớ cả ổ rồi! - Dương Khắc vỗ tay reo lên.
Trần Trận cũng phấn khởi vùng dậy: Lên ngựa mau!
Hai con chó cuống quýt chạy quanh, hắt hơi liên tục đợi lệnh chủ. Trần
Trận bối rối quên cả khẩu lệnh, vội chỉ tay về phía hang, miệng quát: Bắt lấy
nó! Hai con chó lập tức chạy bay xuống dốc, phóng thẳng về phía cái
hang. Hai người cũng chạy xuống chân đồi cởi dây buộc chân ngựa, lên yên,
ra roi phóng tới. Hai con chó đã tới, chõ vào miệng hang mà sủa dữ
dội. Trần Trận trông thấy con Nhị Lang chồm tới rồi lại lui ra nhưng
không dám chui vào sâu trong hang. Con Vàng thì đứng bên sủa gay gắt trợ oai,
hai chân cào đất tung toé. Hai người nhào xuống ngựa, chạy tới miệng hang
chợt giật thót: Hang hình bầu dục, rộng khoảng tám mươi phân, con sói cái đang
án ngữ đường vào hang, điên cuồng cắn trả con Nhị Lang. Nó còn nhô hẳn
nửa người ra ngoài miệng hang, sau khi con Nhị Lang buộc phải rút lui.
Trần Trận quãng cây thòng lọng, vớ lấy chiếc cuốc chim nhằm đầu con sói bổ
xuống. Con sói phản ứng rất nhanh, lưỡi cuốc mới giáng xuống nửa chừng,
nó đã rụt đầu vào bên trong rồi lại nhe răng xông ra. Dương Khắc bổ một
nhát nhưng cũng bị hụt. Mấy bận như thế, cuối cùng Trần Trận cũng đập
trúng đầu con sói. Dương Khắc cũng đập trúng một nhát. Nhưng con
sói vẫn rất hung hãn. Nói lùi sâu khoảng một mét, đợi con Nhị Lang xuống
theo liền đợp một phát giữa ngực. Con Nhị Lang máu me đầy mình rút ra
ngoài, mắt long sòng sọc, sủa lên mấy tiếng rồi lại chui vào, bên ngoài chỉ còn
trông thấy cái đuôi phe phẩy.
Trần Trận chợt nhớ tới cây thòng lọng, liền nhặt lên. Dương Khắc hiểu ý,
giục: Phải đấy, tròng lấy cổ nó. Trần Trận tròng dây thòng lọng vào miệng
hang, con sói chui ra sẽ mắc cổ, khi ấy có thể dùng cuốc chim cùng với hai con
chó để hạ gục con sói. Trần Trận căng thẳng tới mức thở không ra
hơi. Nhưng cậu chưa kịp đặt ngay ngắn cái thòng hình bán nguyệt vào miệng
hai thì con Nhị Lang đã vướng vào chân sau, tiếp theo, con sói máu me đầm đìa
nhảy vọt ra, chân sau dẫm lên cây thòng. Con sói trông thấy cây thòng,
run lên như bị điện giật, lập tức chui trở vào, không dám ló đầu ra nữa.
Trần Trận ngó vào, cái hang dốc khoảng 35 độ, sâu hai mét thì rẽ, không hiểu
bên trong còn sâu bao nhiêu. Dương Khắc nổi cáu quát liền ba tiếng
vào trong hang. Tiếng quát chui vào đất, không một tiếng vọng. Trần
Trận ngồi phệt bên miệng hang than thở: Mình ngốc quá, đặt thòng lọng ngay từ
đầu thì con sói này toi rồi. Đúng là phải linh hoạt, không được sơ sểnh
một li.
Dương Khắc còn buồn hơn, cậu bổ một nhát cắm cuốc chim xuống đất, chửi: Mẹ
kiếp, con sói này khinh mình quá. Mình mà có súng, phải bắn bể sọ nó ra!
Trần Trận nói: Đã có lệnh cấm nổ súng, vì đây là tuyến một. Cậu có súng
cũng bằng thừa.
Dương Khắc nói: Thế này thì lôi thôi rồi. Hay là ta đánh bằng pháo nhị
thanh?
Thì cũng khác gì nổ súng - Trần Trận trấn tĩnh lại, hạ giọng nói: Nếu làm kinh
động đàn sói trên đường biên, kế hoạch vây bắt sói phá sản, chúng mình sẽ bị
chửi mất mặt. Với lại pháo nhị thanh, sói không chết.
Dương Khắc không chịu, nói: Không chết thì cũng sợ mất mặt. Đây cách
đường biên bảy tám mươi dặm, sói không nghe thấy tiếng nổ. Nếu cậu còn
ngại thì ta lấy áo khoác bịt kín miệng hang. Bên ngoài không nghe thấy gì
đâu.
Trần Trận hỏi: Nếu nó không ra thì sao?
Dương Khắc vừa cởi thắt lưng vừa nói: Ra là cái chắc. Tớ nghe mã quan
nói, sói rất sợ tiếng nổ và mùi thuốc súng. Chỉ cần thả vào trong hang ba
quả pháo nhị thanh là có sáu tiếng nổ. Hang kín, tiếng nổ to gấp ba bốn
lần ngoài trời, sói dứt khoát bị choáng. Hang hẹp khói đậm, sói sẽ bị
sặc. Tớ đánh cuộc là chỉ ba quả nhị thanh này là nó phải trườn ra cho cậu
chộp. Cậu cứ đợi. Tớ cho là sẽ có cả sói con cùng chạy ra, ta vớ cả mẹ
lẫn con.
Trần Trận nói: Vậy thì làm theo ý cậu, nhưng phải chuẩn bị kỹ một tí. Đế
tớ xem còn lối thoát nào nữa không? Thỏ khôn có tới ba cái hang.
Sói lại càng ranh ma, chắc không chỉ có một hang. Người khôn đến mấy cũng
vẫn thua sói.
Trần Trận lên ngựa dẫn theo hai con chó đi vòng tròn lấy miệng hang làm trung
tâm, rà soát kỹ xung quanh. Tuyết trắng, hang màu đen, nếu có rất dễ phát
hiện. Nhưng trên một diện tích hàng trăm mét vuông không thấy cái hang
nào. Trần Trận xuống ngựa, dẫn hai con ngựa ra một chỗ xa, cột chân lại
rồi cậu qauy về chỗ miệng hang, đặt thòng lọng, bày búa chim và gậy. Cậu
thấy con Nhị Lang cắm cúi liếm vết thương. Nó lại bị con sói cắn một
miếng nữa giữa ức, vết rách to bằng hai ngón tay, thịt đang co giật. Nó
rất đau nhưng không hề rên la. Hai người không đem theo bông băng, đành
giương mắt mà nhìn con Nhị Lang tự chữa chạy bằng phương pháp cổ truyền của họ
nhà chó: giảm đau bằng cách liếm và khử trùng bằng nước bọt. Đành để về
nhà băng bó vậy. Xem ra tất cả những vết sẹo trên mình nó đều do sói cắn,
thảo nào trông thấy sói là nó nổi hung. Trần Trận thấy mình trước đây đã
hiểu sai con chó. Nó đúng là giống chó Mông Cổ, dữ hơn sói.
Dương Khắc đã chuẩn bị xong. Cậu khoác áo da, tay cầm ba quả pháo nhị
thanh cỡ lớn, miệng ngậm điếu thuốc lá thơm Hải Hà đã châm lửa. Trần Trận
vừa cười vừa nói: Làm như dưới dang là giặc Nhật không bằng. Dương Khắc
cười hì hì: Mình nhập gia thì phải tùy tục, bài bản y chang dân địa
phương. Trong anhg không có thiết bị ngăn sóng âm đâu mà lo. Trần
Trận bảo: Được rồi, ném vào đi! Xem có ăn thua gì không?
Dương Khắc dùng điếu thuốc đang cháy châm ngòi pháo rồi ném vào trong
hang. Cậu châm ngòi rất nhanh hai quả pháo còn lại. Ba quả pháo lăn
theo độ nghiêng vào sâu trong hang. Dương Khắc lập tức lấy áo khoác da
bịt kín miệng hang. Chỉ lát sau, những tiếng nổ trầm đục từ dưới vọng
lên, sáu tiếng tất cả. Quả núi rùng mình, mùi lưu huỳnh sặc sụa.
Chưa khi nào có tiếng nổ lớn như thế trong những hay sói Mông Cổ. Tiếc
rằng hai cậu không nghe thấy tiếng gào thét của sói mẹ sói con dưới hang
sâu. Hai người còn ngửi thấy mùi hôi xộc lên mũi.
Dương Khắc hai tay ôm chéo bờ vai cho đỡ lạnh, hỏi Trần Trận khi nào thì bỏ áo
ra. Trần Trận nói: Lát nữa. Trước tiên phải mở hé, khi thấy khói
bay ra thì hãy mở hẳn. Trần Trận vén một góc lên, có khói nhưng không
đáng kể nên đậy lại. Thấy Dương Khắc bị lạnh, Trần Trận cởi dây lưng,
định bụng hai người khoác chung một áo. Dương Khắc xua tay: Cẩn thận, nó
sắp lên đấy. Cậu mà bỏ dây lưng thì áo xoè ra, rất vướng. Kệ mình, không
lạnh lắm đâu.
Hai người đang nói chuyện chợt thấy con Vàng và con Nhị Lang đứng vụt dậy nhìn
ra hướng tây bắc, miệng gừ gừ ra vẻ bồn chuột. Hai người nhìn theo, chợt
thấy mặt đất cách chỗ cậu đứng hai chục mét bay lên sợi khói màu xanh
nhạt. Trần Trận bật lên tiếng kêu: Hỏng rồi, ở đấy có hang. Cậu
canh chừng ở đây để tớ đi xem sao. Trần Trận vừa nói vừa cầm lấy cuốc
chim chạy đi, hai con chó chạy theo. Đúng lúc ấy, một con sói lớn ý hệt
quả tên lửa đất đối đất, đội đất vọt lên ở chỗ có khói, chạy thục mạng vào bãi
sậy và mất hút trong đó. Con Nhị Lang bám riếtphisa sau, nhìn xa
thấy ngọn lau rẽ thành một vệt lên phía bắc. Trần Trận sợ có chuyện bất
trắc liền quát con Nhị Lang quay về. Có thể con Nhị Lang đã nghe
thấy tiếng gọi nhưng ham mồi vẫn cứ đuổi. Con Vàng chạy tới bãi sậy
nhưng không dám vào, sủa vài tiếng lấy lệ rồi rút.
Dương Khắc vừa mặc áo ngoài vừa chạy tới chỗ rỉ khói. Trần Trận cũng chạy
theo. Cả hai giật mình khi trông tháy một cái hang đất đá đều mới, rõ
ràng là con sói vừa đào trong lúc nguy cấp. Chỗ này vốn là đất bằng,
nhưng khi xảy ra cuộc chiến, liền biến thành đường hầm.
Dương Khắc tức đỏ mắt, chửi: Con sói chết tiệt! Nó giỡn mặt chúng mình.
Trần Trận thở dài, nói: Thỏ có ba hang nhưng đều trông thấy được. Còn sói
thì không biết có bao nhiêu hang? Cái hang này có tính toán hẳn hói, cậu
xem, miệng hang liền kề cái dốc chạy thẳng xuống bãi sậy, con sói chui ra chỉ
vài bước là an toàn. Con này chỉ số thông minh rất cao, tính toán giỏi
hơn thỏ. Sói quả là nhà quân sự bậc nhất trong thiên hạ. Bao Thuận
Quý có nói sói biết đánh gần, đánh đêm, đánh tập kích, đánh du kích, đánh vận
động chiến. Khi gặp, cậu nói với ông ta: Sói còn biết đánh địa đạo chiến,
ú tim chiến, lại biết kết hợp cả hai phương thức tác chiến địa đạo và ú tim.
Dương Khắc vẫn chưa hết bực: Phim ảnh về đánh du kích ở đồng bằng Hoa Bắc phét
lác một tấc đến trời, khoe đó là phát minh lớn trong thiên hạ, thực ra sói đã
nghĩ ra cách đây hàng ngàn năm.
Chịu thua rồi chứ? - Trần Trận sợ Dương Khắc bỏ cuộc - Bắt sói đâu có dễ,
một người làm không nổi.
Không thua. Chăn cừu vốn là công việc buồn tẻ, giờ có dịp đấu trí đấu dũng với
sói, thích lắm. Tớ là dương quan, chăn cừu đuổi sói là nhiệm vụ của tớ.
Hai người tới bên miệng hố. Khói đã nhạt nhưng mùi thuốc súng thì vẫn
nồng nặc. Dương Khắc ngó vào trong hang, nói: Lẽ ra lũ sói con đã phải ra
rồi. Nổ to như thế, mùi cay như thế, chúng chịu sao nổi. Hay là
chết cả rồi?
Trần Trận nói: MÌnh cũng nghĩ vậy. Đợi nửa tiếng nữa mà không thấy ra là
gay rồi. Hang sâu thế này thì đào làm sao, tốn công hơn đào giếng.
Chỉ hai chúng mình phải ba ngày ba đêm chưa chắc đã tới nơi. Bộ móng của
sói mới khiếp chứ, đất đá này mà đào hẳn một đường hầm to đùng. Nhưng mà
này, nếu sói con chết cả rồi thì đào làm gì?
Dương Khắc thở dài: Giá có thằng nhỏ Bayan ở đây thì hay quá, nó mới chui vào
được.
Trần Trận thở dài, nói: Có thằng Bayan ở đây tớ cũng không dám bảo nó chui
vào. Cậu dám đảm bảo bên trong không có sói lớn? Người Mông cũng có
nhiều chuyện gay cấn lắm. Caxumai chỉ mỗi thằng nhỏ mà đành để nó kéo
đuôi con sói, rồi thì chui xuống hang bắt sói con. Xưa kia Trung Quốc có
câu "Tiếc con thì không bắt được sói", xem ra câu này hẳn là của người
Mông Cổ trên thảo nguyên. Mông Cổ thống trị Trung Quốc gần một trăm
năm. Trước kia mình không hiểu ý nghĩa của câu này, không đành lòng cho
trẻ đánh nhau với sói, chẳng lẽ dùng trẻ nhỏ làm mồi nhử sói? Về sau mình
mới hiểu, vì sao phải cho trẻ con mạo hiểm vào hang sói, một là, hang sói
chật, trẻ con mới chui lọt, hai là rèn luyện lòng can đảm. Nếu người Mông
o bế trẻ con như người Hán thì dân tộc Mông lụn bại từ lâu. Vậy nên trẻ
con Mông Cổ lớn lên đứa nào cũng dũng mãnh.
Dương Khắc vẫn cay cú: Mẹ kiếp, sói thảo nguyên quả lợi hại. Khả năng
sinh sản đã lớn hơn người Hán, đã vậy lại còn đào những cái hang vững chắc như
thế này để bảo vệ con. Mình e công sức bỏ ra là công cốc. Ta ăn
chút gì đi, mình đói bụng rồi.
Trần Trận đến chỗ con ngựa lấy túi vải bạt đem về cửa hang. Con Vàng
trông thấy cái túi màu vàng dính đầy mỡ thì mừng quýnh, vẫy đuôi chạy tới ư ử
đòi ăn. Đây là cái túi đựng thức ăn chuẩn bị cho hai con chó. Trần
Trận mở miệng túi bốc ra non nửa số thịt vụn cho con Vàng, chỗ còn lại dành cho
Nhị Lang. Giờ này mà con Nhị Lang chưa quay lại, Trần Trận lo thay cho
nó. Vào mùa đông và mùa xuân, bãi sậy là địa bàn hoạt động của bầy
sói. Nhị Lang bị con sói mẹ dụ vào đấy, chắc dữ nhiều lành ít. Nhị
Lang là quân chủ lực bảo vệ đàn cừu, bây giờ mà mất nó thì thiệt to.
Con Vàng vừa ăn vừa vẫy đuôi. Nó rất nhanh nhẹn và rất dũng cảm khi gặp
thỏ, cáo, dê vàng. Nhưng khi gặp sói nó biết cân nhắc tình thế, nếu sói
ít chó nhiều là nó lập tức lao lên đánh vỗ mặt; nhưng nếu chó ít sói nhiều, nó
không đơn thương độc mã xông lên. Vừa rồi nó rút lui vì nó sợ trong bãi
sậy có đàn sói mai phục. Do bản năng sinh tồn, con Vàng rất biết giữ
mình. Biết vậy, nên Trần Trận không trách con Vàng thiếu nghĩa khí.
Có điều, từ sang xuân đến giờ, cậu ngày càng thích con Nhị Lang. Hình như
thú tính của nó ngày càng nổi trội, nó gần như không còn tính người.
Trong thế giới cạnh tranh quyết liệt để sinh tồn, một dân tộc nếu không có dũng
khí và tính cách của loài thú dữ thì không có điểm tựa cho trí tuệ và văn
hóa. Tính cách dân tộc một khi đã bạc nhược thì chỉ có cầu thân, đắp
thành luỹ, đầu hàng chịu thân phận bề tôi và đẻ nhiều như thỏ thì mới mong sống
còn. Trần Trận đứng lên chĩa ống nhòm về phía bãi sậy để xem con Nhị Lang
đang ở đâu.
Nhưng con Nhị Lang đã mất dạng. Trần Trận lôi trong bọc ra cái túi bằng
da cừu chưa thuộc chống được ẩm, không thấm mỡ, nhét trước bụng không bẩn quần
áo, do Caxumai tặng. Cậu lấy ra bánh nướng, thịt vụn và sữa bánh, chia
cho Dương Khắc, rồi cả hai cùng ăn. Cả hai không biết sau đó sẽ làm gì,
vừa ăn vừa nghĩ.
Dương Khắc bẻ một mẩu bánh to đút vào miệng, nói: Cái hang sói thật đấy mà giả
đấy, tưởng rằng phải hóa ra không phải. Chúng mình tìm ra được một ổ đâu
có dễ, cho nên đừng bỏ cuộc. Hun khói không chết thì ta đổ nước cho chết
sặc. Chở vài chục xe nước dưới đập lên, chắc bắt được chúng.
Trần Trận nói: Thảo nguyên đất cát pha, cậu có chuyển cả đập nước lên đây cũng
vô ích, chỉ một lát là cạn sạch.
Dương Khắc suy nghĩ hồi lâu: Đúng rồi, trong hang không còn sói lớn thì ta cho
con Vàng vào lôi bọn sói con ra.
Trần Trận không nhịn được cười: Chó đã nhiễm tính người thì bỏ tính sói.
Mũi chó hễ ngửi là ngửi thấy mùi sói, không phân biệt mùi sói mẹ hay sói
con. Nếu nó phân biệt được như thế thì khi sói mẹ đi vắng, nó chui vào
hang bắt hết sói con. Cậu là dân du mục mà ngố thế!
Dương Khắc vẫn không chịu, nói: Thì mình hãy thử xem, không mất nhiều công sức
lắm đâu. Nói rồi, cậu gọi con Vàng đến bên miệng hang. Mùi thuốc
súng đã tan đi phần lớn. Dương Khắc chỉ vào hang "súy" một
tiếng. Con Vàng hiểu ý cậu, sợ hãi lùi lại. Dương Khắc kẹp con Vàng
giữa hai chân, hai tay cầm hai chân trước của nó đùn vào trong hang. Con
Vàng cụp đuôi rên ư ử gồng người lên nhìn cậu cầu cứu. Trần Trận nói:
Thấy chưa? Tiến hoá đã khó, thoái hóa lại càng khó. Chó không thoái
hóa thành sói. Chó chỉ có thể biến thành chó tồi, chó lười, chó
ngu. Con người cũng thế. Dương Khắc thả con Vàng ra, nói: Tiếc là
con Nhị Lang không ở đây, tính sói của nó mạnh, dám chui vào hang.
Trần Trận nói: Nhị Lang chui vào sẽ cắn chết hết sói con, mà mình thì muốn
chúng còn sống để nuôi.
Dương Khắc gật đầu: Quả vậy, sói mà gặp Nhị Lang thì chỉ có chết.
Con Vàng ăn xong linh đi chơi. Nó đánh hơi, chốc chốc lại ghếch chân sau
đái vài giọt để đánh dấu. Nó đã đi rất xa mà con Nhị Lang vẫn chưa
quay lại. Trần Trận và Dương Khắc ngẩn ngơ không biết nên làm gì bây
giờ. Trong hang không một tiếng động. Một đàn sáu bảy con sói con,
hun khói hoặc đánh pháo nhị thanh cũng không thể chết hết, thế nào cũng có con
còn sống sót chạy ra theo bản năng. Lại nửa giờ nữa trôi qua vẫn không
thấy con nào chui ra. Hai người đoán: Một là chúng chết hết, hai là không
có con nào trong đó.
0O0
Giữa lúc hai người đang thu xếp đồ đạc để quay về, chợt nghe tiếng con Vàng sủa
ran phía sau đồi, có vẻ như phát hiện con mồi. Hai người lập tức lên ngựa
phi về phía đó. Lên đến đỉnh đồi vẫn không nhìn thấy con Vàng, hai người
giục ngựa chạy theo tiếng sủa, nhưng được một quãng vó ngựa đã vấp đá củ đậu,
phải cho ngựa dừng lại. Mặt tuyết đầy dầu chân thỏ, cáo, chuột cát, thỏ tuyết,
và cả dấu chân sói. Phía dưới toàn là đá, có mao mọc giữa các kẽ, cao
ngang thắt lưng, đã chết khô, trông như những nầm mồ trên biên ải heo
hút. Trần Trận và Dương Khắc thận trọng cho ngựa đi từng bước để khỏi
trượt ngã. Chỗ này không có cỏ gia súc, bò cừu không đến, Trần Trận và
Dương Khắc cũng chưa đến lần nào.
Tiếng sủa của con Vàng nghe càng gần, nhưng hai người vẫn chưa nhìn thấy
nó. Trần Trận nói: Hình như con Vàng thấy con gì đó, mình phải đến
nhanh. Dương Khắc nói: Vậy là không đến nỗi công cốc. Hai người
vòng qua bụi gai, men theo một cái rãnh, qua một lằn rẽ, liền trông thấy con
Vàng. Lần này thì Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên hơn: Con Vàng đang
chõ mõm vào một cái hang mà sủa. Cái hang này to hơn nhiều, đen ngòm, mùi
sói theo gió lạnh ùa tới, khiến Trần Trận rợn tóc gáy, cảm thấy mình sa vào
trận địa mai phục của bầy sói, vô vàn những cặp mắt đang nhìn cậu.
Hai người cột ngựa vào một chỗ, cầm đồ nghề đến bên miệng hang. Cái hang
quay mặt về hướng nam, miệng rộng chừng sáu mươi phân. Trần Trận chưa bao
giờ thấy một cái hang to như thế, to hơn miệng địa đạo Bình Sơn - Hà Bắc thời
chống Nhật mà hồi là học sinh trung học cậu đã từng về đấy để học làm ruộng, đã
nhìn thấy. Cái hang khuất sau một nếp gãy nhỏ trong khe, phía trên là
những bụi gai rậm, phía dưới lởm chởm đá tai mèo, không đến gần khó mà nhận
ra. Con Vàng thấy hai chủ đến thì rất mừng, chạy quanh Trần Trận như kể
công. Trần Trận bảo Dương Khắc: Dứt khoát trong hang có chuyện.
Chắc là con Vàng đã nhìn thấy sói con. Cậu xem, nó đang khoe đây
này. Dương Khắc nói: Mình cũng thấy thế. Đây mới đích thực là hang
sói, âm u dễ sợ. Trần Trận nói: Toàn mùi sói, chắc chắn ổ sói ở đây.
Trần Trận quan sát vội những dấu vết trên gò đất trước cửa hang. Đây là
đất đá được đùn ra khi con sói đào hang. Hang càng to, gò càng lớn.
Cái gò này to bằng hai mặt bàn, không có tuyết mà có nhiều dấu chân, một ít
xương vụn. Trần Trận rất hồi hộp, đây là cái mà cậu muốn nhìn thấy.
Cậu bảo con Vàng ra chỗ khác, đứng canh chừng cho cả bọn rồi cùng Dương Khắc
quan sát kỹ các dấu vết đã bị con Vàng làm biến dạng, nhưng vẫn nhận ra dấu
chân của hai con sói lớn và bảy tám con sói nhỏ. Dấu chân sói con hình
hoa mai, lớn bằng đồng hai xu, rất xinh. Tất cả các dấu chân đều mới,
chúng đang chơi đùa ở đây, thấy con Vàng mới chui vào hang. Mặt gò không
có tuyết, có lẽ sói mẹ chọn nơi đây làm sân chơi cho lũ con, có một ít lông và
da cừu non còn lưu vết răng của sói con. Mép gờ có những cục phân tươi
bằng đầu đũa, dài khoảng hai phân, đen nhánh như viên thuốc tễ.
Trần Trận vỗ đánh bộp một phát vào đầu gối, reo lên: Lũ sói con mà mình cần đây
rồi. Thì ra hai thằng mình đã bị con sói mẹ đánh lừa.
Dương Khắc cũng như chợt tỉnh, vỗ lên mặt gờ, nói: Đúng rồi, con sói mẹ lẽ ra
chạy về hang này, nhưng thấy bóng người nên nó chuyển hướng, dụ chúng ta đến
một cái hang không có gì. Nó làm như thật, cắn nhau với chó của ta để bảo
vệ đàn con. Mẹ cha con sói, tao phục mày sát đất! Trần Trận nhớ lại
lúc con sói đổi hướng, cậu đã nghi, nhưng nó giả bộ giống quá, nên hết cả nghi
ngờ. Ai ngờ con sói giỏi tùy cơ ứng biến đến thế. Nếu không choáng
vì pháo nhị thanh, nó có thể chơi ú tim với cậu đến tối.
Dương Khắc nói: May mà chúng mình có hai con chó săn, nếu không thua chỏng
gọng.
Trần Trận có vẻ bức xức: Giờ thì gay đây. Con sói lại gây cho ta nhiều
khó khăn, thời gian thì đã mất toi nửa ngày, pháo nhị thanh mất toi ba
quả. Chẳng hiểu cái hang này liệu có sâu hơn, phức tạp hơn cái hang đầu
tiên?
Dương Khắc cúi nhìn hồi lâu vào trong hang. Thời gian không còn mấy, pháo
nhị thanh thì đã hết, chẳng còn cách nào khác. Công việc cấp bách bây giờ
là phải xem còn cửa hang nào nữa thì lấp hết lại, ngày mai rủ thêm một số mục
dân cùng đào. Cậu cũng cần tranh thủ ý kiến bố Pilich.
Trần Trận vẫn chưa chịu về không, cậu bảo Dương Khắc: Mình có chiêu này, ta thử
xem. Địa đạo ở Bình Sơn có thể xuống, vậy sao mình không chui thử vào
trong hang. Chắc là con Nhị Lang đã đuổi hai con sói bố mẹ đi nơi khác, ở
đây không còn sói lớn nữa. Cậu hãy lấy dây lưng buộc cổ chân mình, cầm
chịch cho mình trườn xuống từ từ, biết đau tóm được sói con, mà nếu không có
sói con thì mình cũng muốn biết chúng cấu trúc cái hang như thế nào.
Dương Khắc lắc đầu quầy quậy, nói: Cậu không sợ chết hay sao? Giả dụ
trong hang còn sói lớn thì sao? Chúng mình đã bị lừa một lần, cậu có dám chắc
cái hang này là của con sói mẹ hồi nãy? Nếu là của con khác thì sao?
Nguyện vọng ấp ủ hai năm nay chợt bùng lên át cả nỗi sợ. Trần Trận nghiến
răng: Trẻ con Mông Cổ còn dám chui vào hang bắt sói mà ta không thì xấu hổ
chết. Tớ phải xuống, cậu giúp một tay. Tớ có đèn pin và chòng, nếu
có sói lớn, đối phó được.
Dương Khắc nói: Nếu nhất định phải xuống thì để tớ. Cậu gầy hơn tớ, nhưng
tớ khoẻ hơn cậu.
Trần Trận nói: Hang hẹp, đến lúc nào đó cậu bị kẹt. Thôi đừng tranh luận
nữa, ai béo người ấy ở lại.
Trần Trận cởi phăng áo ngoài, Dương Khắc bất đắc dĩ phải đưa cho Trần Trận đèn
pin, chòng và bao tải, buộc hai chân Trần Trận bằng dây lưng Mông Cổ dài hai
trượng, lại cởi dây lưng của cậu buộc một đầu vào thắt lưng Trần Trận.
Trước khi chui xuống hang, Trần Trận nói: Không vào hang sói, làm sao bắt được
sói con! Dương Khắc dặn đi dặn lại: Nếu gặp sói lớn thì hét to lên, co
chân làm hiệu kéo lên. Trần Trận bật đèn pin, trượt dốc 40 độ chui
xuống. Trong hang sặc mùi sói, đến nỗi cậu không dám thở mạnh. Cậu
nhích từng tí. Cái hang tương đỗi nhẵn, một ít lông sói mắc lại trên đất
đá. Mặt đất đầy dấu chân sói con. Trần Trận mừng quá, tưởng chỉ vài
mét là tóm được sói con. Cậu đã chui hẳn vào trong hang. Dương Khắc
nhả dây lưng từng tí một, luôn miệng hỏi đã muốn lên chưa. Trần Trận lớn
tiếng giục nhả dây, rồi dùng cùi chỏ thay cho tay, cậu nhích xuống từng tấc
một.
Cách miệng chừng hai mét, cái hang rẽ ngang, bò thêm chút nữa, ánh sáng bên
trên bị che khuất, Trần Trận phải chĩa đèn ra phía trước, tất cả nhờ ánh sáng
đèn pin.
Qua khúc rẽ, lòng hang không dốc nữa nhưng thót hẳn lại, phải chui đầu so vai
mới chui lọt. Trần Trận vừa bò vừa quan sát mặt và vách hang, ở đây bóng
hơn nhiều so với miệng hang, nhẵn nhụi tưởng như đẽo bằng rìu. Vách hang
rất ít đất đá vụn, chọc bằng chòng cũng chỉ rơi vài mẩu, Trần Trận yên tâm,
không sợ lở hang. Cậu không thể tưởng tượng chỉ với hai chân trần
mà con sói đào được cái hang sâu như thế. Những tảng đá hai bên sườn cạnh
nhẵn thín, có tảng hình trứng, căn cứ vào độ mài tròn, cái hang có tuổi hàng
trăm năm, không biết bao nhiêu con sói, đực và cái, đã ra vào hang này.
Trần Trận cảm thấy cậu đã lạc vào thế giới của sói, mùi hôi kinh người.
Trần Trận tiếp tục bò, ngày càng sợ. Ngay trước mũi cậu là mấy dấu chân
sói lớn bị lũ sói con dẫm chồng chéo. Giả dụ có sói lớn thì đèn pin và
cái chòng này có đánh lại được không? Hang hẹp, sói không cắn tới, nhưng
chân trước của sói rất dài, thừa sức cào tới người. Sao mình không nghĩ
tới nanh vuốt của sói nhỉ, Trần Trận toát mồ hôi lạnh. Cậu chững lại, chỉ
cần co chân một cái là được kéo lên. Nhưng cậu lại nghĩ lũ sói con đã rất
gần, tám chín con, mươi mười mấy con chứ ít đâu. Cậu nghiến răng liều
mạng chui tiếp. Cậu nghĩ, mình không phải một thợ săn, mà y như một tên
đào mả trộm. Không khí càng ít, mùi sói càng đậ, cậu chỉ sợ chết ngạt như
đã từng xảy ra với những tên đào mả trộm.
Đến đoạn thắt cổ chai khiến cái hang càng hẹp hơn. Chỗ này chỉ chui lọt
sói mẹ, còn người lớn thì không lọt, rõ ràng là sói thiết kết cái hang như thế
này là để chống lại thiên địch duy nhất của loài sói trên thảo nguyên - con
người. Trần Trận cho rằng, sói đã phòng ngừa bằng cách bít chặt không cho
nước hoặc khói vào bên trong. Chỗ thắt cổ chai, thực tế là công cụ phòng
ngự, chặn con người lại. Trần Trận không chịu bỏ cuộc. Cậu dùng
chòng tông mạnh chỗ thắt cổ chai để mở rộng cửa. Nhưng con sói đã có lý
khi chọn chỗ này làm công sự. Trần Trận chỉ tông được mấy nhát là phải
dừng vì gặp toàn đá tảng, chọc không vỡ. Cậu hít thở khó khăn không còn
hơi sức để đào, mà đủ còn sức cũng không dám, lỡ hang sập làm mồi cho sói.
Trần Trận buộc phải hít mạnh, dù rất hôi nhưng trong đó còn có ít nhiều
oxy. Cậu đâm nản vì không bắt được sói con. Nhưng cậu cũng không
chịu rút ngay, vẫn nấn ná mong nhìn thấy một con. Dồn hết sức còn lại cho
mục đích cuối cùng, cậu ló đầu và cánh tay phải vào bên trong. Cảnh tượng
dưới ánh đèn pin làm cậu nản hoàn toàn: Cái hang đi ngược lên và chẳng nhìn
thấy gì nữa. Chỗ trên ấy chắc dễ chịu cho cả sói mẹ lẫn sói con, khô ráo
và thoát nước. Trần Trận đã chuẩn bị cho những tình huống phức tạp,
nhưng thực dụng kiểu này khiến cậu kinh ngạc.
Trần Trận ghé tai nghe. Trong hang không một tiếng động, có lẽ đàn sói
con đã ngủ say. Cũng có thể chúng đang nấp một chỗ theo bản năng, im thin
thít khi có tiếng động lạ. Nếu không quá mệt, Trần Trận rất muốn hát tặng
bầy sói mấy câu đồng dao: Sói con ngoan nào, mở cửa ra, mở cửa ra! Rất
tiếc ông ngoại người Hán chưa tóm được cháu ngoại sói Mông Cổ! Trần Trận
khó thở tới mức mặt mày xây xẩm, cậu co chân giật mạnh. Dương Khắc vừa
sốt ruột vừa mừng kéo mạnh Trần Trận lên cửa hang. Trần Trận mặt mũi phờ
phạc, ngồi thở dốc, bảo Dương Khắc: Chẳng thấy gì hết, như hang quỉ, không biết
đâu là tận cùng. Dương Khắc thất vọng, trùm áo lên người Trần Trận không
nói gì.
Nghĩ đã đỡ mệt, hai người liền sục sạo trong phạm vi hai trăm mét vuông, chỉ
thấy một cái hang thông với hang chính, bèn bịt lại bằng đá tảng, những hòn đá
tảng rất to, sói không thể đẩy ra, lại còn lấy đất trét kín các kẽ. Trước
khi ra về, Trần Trận vẫn chưa hết bực, cậu bổ một nhát cuốc chim lên miệng
hang, nhắn sói mẹ: Hãy đợi đấy, ngày mai bọn tao còn đến.
Trời gần tối, Nhị Lang vẫn không thấy quay lại. Con sói mẹ ranh ma quỉ
quyệt, Nhị Lang chỉ dùng sức chưa chắc đã là địch thủ của nó. Hai người
lo thay cho Nhị Lang. Trần Trận cùng con Vàng về gần tới nhà thì trời đã
tối mịt, cậu bảo Dương Khắc mang dụng cụ về trước, bảo Cao Kiện Trung là không
xảy ra chuyện gì, còn cậu thì phi một mạch đến lều ông già Pilich.
Biên niên sử (bản chép tay)
của người Mông Cổ chép rằng:... Người Thaiuxiuthi bắt nguồn từ Saliho Linhcon,
con trai Haido Khan thực tổ Thành Cát Tư Hãn - người dẫn chú). Haido Khan
có ba người con trai. Con cả tên Baxanghonhi (Ngũ tổ Thành Cát Tư Hãn),
một chi của tổ tiên Thành Cát Tư Hãn bắt đầu tự ông này. Chi ấy đứng đầu
là Saliho Linhcon. Anh trai là Batanghonhi chết, Salitho Linhcon lấy chị
dâu làm vợ, bà này là mẹ Đonnhinai Khan (Tư tổ Thành Cát Tư Hãn), sinh hai con
trai, một người tên Jiando Xichna, người kia tên Uthosan Xichna. Hai tên
nêu trên có nghĩa là "sói đực" và "sói cái".. Những người
thuộc chi này đều gọi là Xichnaxu (Xicha, tiếng Mông Cổ nghĩa là sói,
"xu" chỉ số nhiều, tức "đàn sói".
(Ba Tư) Laxit "Sử tập. Quyển Một"
Ông già im lặng ngồi hút thuốc nghe Trần Trận kể. Nghe xong, không khách
sáo gì hết, ông xạc cho Trần Trận một mẻ: Đáng giận nhất là hai cậu học sinh
người Hán này đánh thuốc nổ hang sói. Ông không phải không biết uy lực và
hiệu quả của thuốc nổ khi phá hang. Ông bóp mạnh cái tẩu, bộ ria
rung rung vì giận. Ông nói với cậu: Hỏng bét! Rách chuyện
rồi! Mấy quả pháo của các cậu đuổi đàn sói đi rồi. Các cậu làm vậy
còn nguy hiểm hơn người Mông hun khói, con sói không kịp đào đất lấp
hang. Sói Mông Cổ sợ nhất mùi thuốc súng. Nếu các cậu đánh thuốc nổ
thì sói trong hang sẽ chạy hết ra cho các cậu bắt. Bằng cách này thì
chẳng bao lâu sói thảo nguyên sẽ không còn một con. Đồng ý là phải diệt
sói, nhưng không được diệt như thế. Diệt kiểu ấy ông trời sẽ giận, thảo
nguyên sẽ không còn. Từ nay trở đi không được đánh bắt sói bằng thuốc nổ,
không bao giờ được bày cho đám mã quan và những người khác dùng thuốc nổ.
Các cậu làm hư đám mã quan rồi...
Trần Trận không ngờ ông già giận đến như thế. Qua lời ông già, cậu đã
nhận ra hậu quả tai hại của chuyện đánh thuốc nổ. Cách này mà phổ biến
rộng rãi thì dù phòng ngự nghiêm ngặt đến mấy cũng không chặn được tiếng nổ và
mùi thuốc súng. Thảo nguyên không có tục đốt pháo trong ngày Tết, những
thứ này do đám lưu dân và thanh niên trí thức đem đến. Súng đạn trên thảo
nguyên bị quản lý chặt chẽ, nhưng với bộc phá thì chưa kịp ngăn chặn, con đường
từ nội địa lên cao nguyên không kiểm tra, rất dễ đem theo. Nếu như pháo
nổ đem lên thảo nguyên với khối lượng lớn cùng với bom cay, thuốc xịt chảy nước
mắt thì là tai họa cho họ hàng nhà sói vố thống trị thảo nguyên hàng vạn năm
nay, chúng sẽ bị tuyệt diệt. Thuốc súng đối với thảo nguyên trong giai
đoạn du mục nguyên thủy, có sức sát thương khủng khiếp. Một dân tộc mà để
cho tôtem bị hủy diệt thì dân tộc ấy cũng có khả năng bị tàn sát, hơn nữa, thảo
nguyên mà dân tộc đó dựa vào để sinh tồn cũng tàn lụi theo.
Trần Trận có vẻ sợ. Cậu lau mồ hôi trán: Bố đừng sợ, con xin hứa từ nay
trở đi không dùng thuốc nổ phá hang sói, cũng xin hứa không bày cách này cho
bất cứ ai. Người thảo nguyên lấy chữ tin làm gốc, là một trong những huấn
lệnh của các Khan để lại. Giữ lời là vô cùng quan trọng, các bộ lạc
trên thảo nguyên đều giữ lời hứa. Trong cuộc rượu, có khi vì một lời hứa
mà mất con chó quý, mất con ngựa hay, mất con dao sắc, mất cây thòng lọng, thậm
chí mất người yêu.
Nét mặt giãn ra, ông già nhìn Trần Trận nói: Tôi biết cậu diệt sói để bảo vệ
cừu và ngựa, nhưng bảo vệ thảo nguyên còn quan trọng hơn. Hiện nay các mã
quan trẻ thi nhau diệt sói. Người khu vực nông canh đến quản lý khu vực
du mục cứ nhắm mắt làm bừa. Bao nhiêu tội vạ đều đổ lên đầu người thảo
nguyên.
Caxumai bê cho Trần Trận một bát xáo thịt cừu, còn đặc cách cho cậu một lon rau
phỉ. Chị quỳ bên bếp, múc cho bố chồng một bát xáo thịt rồi bảo Trần
Trận: Bây giờ ít người nghe lời bố, muốn người khác không giết sói mà mình cứ giết
thì mình nói ai nghe.
Ông già cười buồn tiếp lời con dâu: Cậu có tin lời ta nói không?
Trần Trận nói: Con tin. Không có sói, thảo nguyên rất dễ bị phá
hoại. Có một nước ở mãi tận phương nam xa xôi là nước Úc, đồng cỏ thì rất
rộng nhưng không có sói, cũng không có thỏ. Sau có người nhập thỏ về
nuôi, một số con chạy ra đồng cỏ. Khôg có sói, nên thỏ sinh sôi nảy nở
ngày càng nhiều, đến nỗi đồng cỏ đầy những hang hốc, cỏ chăn nuôi bị thỏ ăn hết
quả nửa, nông nghiệp bị tổn thất nặng nề. Chính phủ Úc đã áp dụng tất cả
các biện pháp nhưng đều vô hiệu. Họ mua lưới thép về căng trên đồng, cỏ
chui lên, nhưng thỏ thì không thể chui lên, bị kẹt dưới lưới. Nhưng đất
đai rộng lớn, lấy đâu ra lưới thép nhiều như thế, thành thử kế hoạch thất bại.
Con nghĩ, thảo nguyên Mông Cổ tươi tốt chắc rất nhiều thỏ, nhưng khi đến Ơlon
lại thấy không nhiều, chắc đây là công của sói. Khi chăn cừu, con từng thấy sói
bắt thỏ, hai sói bắt một, thỏ khó mà chạy thoát.
Ông già nghe say sưa, nét mặt dịu dần, miệng lẩm bẩm: Nước Úc, nước Úc!
Rồi bảo Trần Trận: Mai đem bản đồ lại đây cho tôi xem cái nước Úc đó. Để
xem còn ai đòi giết hết sói thì kể chuyện nước Úc cho họ nghe. Thỏ phá
hoại đồng cỏ mới khiếp, một con thỏ cái một năm đẻ mấy lứa, mỗi lứa đông hơn
sói. Mùa đông, rái cá cạn và chuột đồng ngủ vùi trong hang, chỉ thỏ là
vẫn đi kiếm ăn. Thỏ là thực phẩm mùa đông của sói. Sói bắt thỏ thì
đỡ bắt cừu, vậy mà không thể bắt hết thỏ. Nếu không có sói thì cứ ba bước
chân lại có một hang thỏ trên thảo nguyên.
Trần Trận nói: Mai con đem bản đồ đến, bản đồ thế giới rất to, bố tha hồ mà
xem.
Bấy giờ thì cậu về nghỉ, vất vả cả ngày rồi còn gì - Thấy Trần Trận nấn ná chưa
muốn về, ông hỏi - có phải cậu muốn hỏi làm thế nào để bắt được ổ sói con, phải
không?
Trần Trận gật đầu, nói: Đây là lần đầu con đi đào bắt sói, bố cố giúp con thành
công.
Ông già nói: Bày cho cậu thì được, nhưng phải hứa là từ nay không được bắt
nhiều.
Vâng - Trần Trận hứa lần nữa.
Ông già cười mỉm: Cậu mà không hỏi ta thì đừng hòng bắt được ổ sói này.
Theo ta thì cậu nên tha cho con sói mẹ, đừng dồn nó đến bước đường cùng.
Trần Trận vội hỏi: Vậy con phải làm thế nào để bắt lũ sói con?
Ông già không cười nữa: Cái hang đầu tiên cậu đã đánh thuốc nổ, cái hang thứ
hai có hơi người vì cậu đã chui vào, cửa hang đã bị lấp. Vì vậy, chắc
chắn đêm nay con sói sẽ dọn nhà. Nó sẽ đào một cái hang mới, chuyển đàn
con tới trạm trú, nó còn đào tiếp một cái hang nữa rồi một cái nữa, ở một nơi
không ai tìm ra.
Trần Trận vô cùng hồi hộp, hỏi: Cái hang tạm ấy tìm có dễ không hở bố?
Ông già nói: Người không tìm ra, nhưng chó tìm ra. Con Vàng, con Mực đều
được. Xem ra cậu quyết ra tay với con sói mẹ.
Trần Trận đề nghị: Hay là mai bố dẫn con đi. Dương Khắc bảo, cậu ấy sợ
mưu của sói lắm rồi.
Ông già cười: Ngày mai ta bận đặt bẫy. Đêm qua một con sói lớn mắt bẫy
của ta đặt hôm nọ. Nhưng ta chưa đụng đến nó. Đàn sói phía bắc đã
đói, chúng sẽ trở lại đây. Mai phải đem tất cả các bẫy đi đặt.
Chuyện ổ sói con thì sau khi đánh bắt đàn sói hãy bàn.
Trần Trận sốt ruột, mặt đỏ gay. Ông già nhìn cậu, nói nhỏ: Đã vậy thì
ngày mai hai anh em đi xem thử, hang sói mùi rất đậm, dắt chó đi vài tua là
phát hiện ra. Hang mới không sâu, nhưng nếu sói mẹ tha con đến một hang
cũ thì rất gay vì khó đào. Đào bắt sói cũng có may có rủi. Nếu
không đào được thì tôi đi. Tôi mới dám cho Bayan chui vào hang.
Bayan tỏ vẻ thành thạo: Cái hang thắt cổ chai mà chú nói ấy, cháu chui vào
được. Phải thật nhanh, nếu không, bị nghẹt thở. Chú cho cháu
đi với, cháu sẽ bắt cả ổ.
Trần Trận trở về lều, Dương Khắc vẫn đợi cậu. Trần Trận nói lại những
nhận xét của ông già, Dương Khắc vẫn không yên tâm.
Nửa đêm, Trần trận bị tiếng chó sủa dữ dội đánh thức. Con Nhị Lang đã trở
về, nó không bị đàn sói bao vây. Trần Trận nghe tiếng chân chắc nịch bên
ngoài, định trở dậy cho nó ít thịt vụn và băng bó vết thương cho nó, nhưng cậu
buồn ngủ đến nổi không sao dậy được. Bên ngoài con Nhị Lang sủa dóng một,
còn Trần Trận ngủ say như chết.
Sáng ra, lúc Trần Trận ngủ dậy đã thấy Dương Khắc, Cao Kiện Trung và Đan Chi
đang uống trà bên bếp, bàn cách bắt sói con. Đan Chi là ngưu quan tổ 3,
hai bốn hai lăm tuổi, già dặn, xốc vác, học hết cấp 2 thì nghỉ học đi chăn bò
kiêm chức kế toán của tổ, và là thợ săn nổi tiếng toàn mục trường. Bố cậu
là dân Mông - nửa làm ruộng nửa chăn thả vùng Đông Bắc. Sau khi thành lập
mục trường, ông chuyển cả gia đình về đây sinh sống, là một trong những hộ ngụ
cư ở Ơlon. Phong tục tập quán của người Mông Đông Bắc và người Mông bản
địa khác nhau khá xa, rất ít khi gả bán cho nhau. Tộc Mông - nửa làm
ruộng nửa chăn thả, nói tiếng Hán trôi chảy bằng giọng Đông Bắc. Họ là
người phiên dịch và thầy dạy tiếng Mông đầu tiên cho các học sinh Trung
Quốc. Ông Pilich hầu như không tiếp xúc với số người Mông này. Đám
thanh niên trí thức thì không muốn giữa họ có mâu thuẫn. Dương Khắc mời
Đanchi đến lều từ sáng sớm, khẳng định nỗi lo của cậu là lại sợ bị sói lừa hoặc
gặp nguy hiểm, nên mời Đanchi làm cố vấn. Đanchi là con người đã nói là
làm, sự có mặt của cậu ta là một đảm bảo cho công việc tốt đẹp.
Trần Trận vội dậy mặc quần áo, chào Đanchi. Cậu ta nhìn Trần Trận cười:
Cậu dám chui vào hang bắt sói con? Cẩn thận đấy, sói mẹ ngửi hơi cậu, cậu
đi đâu nó theo đó.
Trần Trận giật mình, xỏ nhầm tay áo: Vậy ta phải diệt con sói mẹ, không thì
mình chết mất.
Đanchi cười: Mình dọa cậu thế thôi. Sói sợ người. Nó có nhận ra
cũng không dám làm gì cậu. Sói ghê gớm đến thế thì mình tiêu từ lâu
rồi. Mình chui vào hang sói từ năm 13 tuổi, vậy mà đến giờ vẫn sống nhăn.
Trần Trận như trút được gánh nặng, hỏi: Cậu là lao động tiên tiến về diệt sói,
đã hạ tất cả bao nhiêu con?
Không kể sói nhỏ, khoảng sáu bảy chục con sáo lớn, sói con thì bảy tám ổ.
Bảy tám ổ thì chí ít cũng năm sáu chục con. Vậy là cậu đã diệt hơn một
trăm hai mươi con. Sói có trả thù cậu không?
Sao lại không? Mười năm qua, sói đã cắn chết của nhà mình bảy con chó,
cừu thì nhiều hơn, không nhớ cụ thể là bao nhiêu.
Cậu giết quá nhiều sói, nếu không còn sói thì người Mông khi chết làm thế nào?
Phong tục người Mông vùng Đoanmen chúng tôi như người Hán, khi chết không cho
sói ăn thịt, mà cho vào quan tài đem chôn dưới đất. Người Mông ở đây lạc
hậu lắm.
Phong tục ở đây là cho sói ăn, còn ở Tây Tạng thì cho chim kền kền ăn.
Cậu bắn chết nhiều sói như thế, người dân ở đây có ghét cậu không?
Sói Ơlon nhiều vô kể, làm sao diệt hết? Chính phủ kêu gọi diệt sói.
Diệt một con sói bảo đảm cho một trăm con cừu; diệt một ổ sói con, bảo đảm cho
mười đàn cừu. Mình diệt đã thấm gì. Cong xã Bayincaoti có nhiều dân
ngụ cư, nhiều dân Mông Đông Bắc, nhiều thợ săn nên sói rất ít.
Trần Trận hỏi: Chăn nuôi ở đấy thế nào?
Đanchi trả lời: Chẳng ra sao cả, thua xa ở đây. Các bãi chăn ở đó không
tốt, thỏ và chuột nhiều vô kể.
Trần Trận mặc vội áo ngoài, ra cửa ngó con Nhị Lang. Nó đang chén một con
cừu non đã lột da. Về mùa xuân, cứ cách hai ba hôm lại có cừu non chết
cóng hoặc ốm chết, là thức ăn mà chó rất thích. Chó chăn cừu trên thảo
nguyên chỉ ăn những con cừu đã lột da, không ăn cừu còn sống. Nhưng Trần
Trận phát hiện con Nhị Lang khi ăn con cừu chết, mắt vẫn nhìn đau đáu những con
cừu sống trong chuồng. Trần Trận cất tiếng gọi, nhưng con Nhị Lang vẫn
không ngửng lên, chỉ mỗi cái đuôi là khẽ phe phẩy. Còn con Vàng và con
Ilua thì nhào tới chồm hai chân trước lên vai Trần Trận. Dương Khắc đã băng
bó cho con Nhị Lang, nhưng nó tỏ ra không thích, chỉ muốn gỡ bỏ băng để liếm
vết thương. Nhìn vẻ phấn kích của nó, Trần Trận tháy có thể cho nó đi
theo.
Ăn sáng xong, Trần Trận đến nhà Quanbu nhờ anh ta chăn cừu hộ. Cao Kiện
Trung thấy Trần Trận và Dương Khắc đi đào bắt sói con, một công việc mà cậu rất
mê, liền đi nhờ con trai Quanbu chăn giúp một ngày. Ở thảo nguyên Ơlon
rất vinh dự khi đào bắt được một ổ sói con.
Bốn người đi theo hàng dọc, đem theo đồ lề, vũ khí và hai con chó, nhắm núi Đen
chạy tới. Mùa xuân năm nay lạnh buốt, đến ầm ầm như băng vỡ, đi chậm chạp
như nhả tơ. Ba bốn ngày trôi qua mà cái nắng vẫn không chọc thủng nổi
tầng mây, thảo nguyên u ám, khiến sắc mặt mục dân đen sạm, mất đi vẻ tươi
tắn. Những mầm cỏ dưới tuyết chuyển dần thành màu vàng như giá đậu ủ dưới
chăn, hoàn toàn không có màu xanh lục điệp, ngay cừu cũng chê, không thích
ăn. Đanchi nhìn những đám mây tơi tả như giẻ rách, vui mừng ta mặt: Trời
lạnh nhiều ngày nay sói không có gì cho vào bụng. Đêm qua chó canh cừu
sủa dữ dội, chắc là đàn sói đã về.
Bốn người lần theo những vết chân ngựa hôm qua, đi hơn hai tiếng đồng hồ tới
một cái khe rậm rạp. Cái mai vẫn cắm trên miệng hang đã bị lấp, nhưng
chúng không đụng đến đất đá lấp cửa hang, hình như sói mẹ trông thấy cái mai,
sợ quá bỏ chạy. Hai con chó săn trông thấy cái hang liền quýnh lên, cắm
đầu đánh hơi. Con Nhị Lang lại càng hăng, mắt vằn những tia lửa phục
thù. Trần Trận giơ tay chỉ sườn núi gần đó, chụm miệng suỵt một tiếng,
hai con chó lập tức chia hai hướng, vừa đánh hơi vừa lần theo vết chân
sói. Bốn người lại đi tới một lối ra khác, xung quanh miệng hang có rất
nhiều dấu chân sói còn mới, đất đá lấp miệng hang vẫn không suy suyển.
Đanchi phân công từng người đi tìm các cửa hang xung quanh. Cả bọn đi chưa
được hai vòng, chợt nghe tiếng sủa ầm ĩ của con Nhị Lạng và con Vàng từ phía
bắc vọng lại. Trần Trận cầm lấy cây mai, cùng ba người kia chạy về sườn
núi phía bắc.
Qua đỉnh dốc mọi người trông thấy hai con chó đang sủa như điên. Con Nhị
Lang vừa sủa vừa cào bới, con Vàng cũng chổng mông mà cào. Đất vụn bắn
tung toé. Đanchi reo to: Thấy hang sói rồi! Bốn người phấn khởi tới
mức bất chấp đá sỏi dưới chân, thúc ngựa chạy một mạch tới chỗ hai con chó liền
xuống ngựa. Hai con chó không nhường chỗ cho chủ, vẫn tiếp tục cào
bới. Con Nhị Lang đã rúc mõm vào trong hang, quyết lôi bằng được con mồi
ra. Trần Trận bước tới ôm eo con Nhị Lang lôi nó ra, nhưng những gì trông
thấy trước mặt khiến cậu hơi thất vọng: Trên mặt đất bằng phẳng, cái hang nhỏ
xíu, chỉ rộng chừng ba mươi phân, so với những cái hang mà cậu đã từng trông
thấy, thì cái này không thể gọi là hang. Miệng hang lại không có gờ, chỉ
một ít đất vung vãi trên tuyết đã bị hai con chó giẫm nát.
Cao Kiện Trung bĩu môi: Thế này mà là hang sói? Hang thỏ thì có.
Không thỏ thì rái cá.
Đanchi từ tốn: Cậu xem này, đây là hang mới đào, chắc chắn sói mẹ tha con tới
đây.
Trần Trận tỏ vẻ không tin: Dù mới đào nhưng hang sói đâu có nhỏ như thế
này. Sói mẹ chui vào bằng cách nào?
Đanchi nói: Đây là hang tạm. Sói mẹ mình thon, chui vào được. Nó
giấu tạm ở đây, vài hôm nữa, khi đào xong hang lớn ở nơi khác, nó sẽ chuyển đi.
Dương Khắc giơ cao cây mai: Bất kể là sói hay thỏ cũng phải bắt bằng được, khỏi
uổng công. Các cậu tránh ra!
Đanchi vội ngăn: Để mình xem nó sâu bao nhiêu, có gì trong đó không đã.
Nói xong, cậu cầm ngược cán thòng lọng, luồn vào trong hang sâu khoảng một
mét. Chợt cậu mừng rỡ: Đụng rồi, có cái gì mềm mềm. Cậu thử
đi. Trần Trận cầm cây thòng lòng luồn vào, quả nhiên đụng một vật đàn
hồi. Khoái quá, Trần Trận cười toe toét: Đúng là có con gì rồi, phải sói
con thì hay quá. Dương Khắc và Cao Kiện Trung cũng thử, đều khẳng định là
bên trong có cái gì đó, nhưng chưa dám chắc là sói con.
Đanchi luồn cây thòng tới đáy hang, giữ nguyên chỗ tay cầm làm cữ, cậu rút cây
thòng ra, chiếu theo lòng hang để xách định hướng rồi dùng mũi giày đánh dấu vị
trí, nói: Đào chỗ này, cẩn thận kẻo làm chúng bị thương.
Trần Trận cầm lấy cây mai trong tay Dương Khắc, hỏi: Sâu bao nhiêu?
Đanchi nói: Khoảng hai thước. Thân nhiệt của lũ sói con khiến đất mềm ra,
nên đừng mạnh tay quá.
Trần Trận dùng lưỡi mai gạt tuyết trên mặt rồi dùng chân ấn lưỡi mai từ từ ăn
sâu vào lòng đất. Mặt đất đột nhiên bị sụt, hai con chó chồm tới sủa ầm
ĩ. Trần Trận đỏ bừng mặt, xúc động như đào thấy mộ Tây Hán. Trong
đám đất vụn là những con sói con lông xám, lông gáy màu đen. Ba cậu thanh
niên trí thức Bắc Kinh ngớ ra một lúc rồi mới reo ầm lên. Trần Trận và
Dương Khắc đừng như bụt mọc. Công trình mà các cậu lao tâm khổ từ suốt
mấy ngày đêm, cứ tưởng phải một trận ác chiến hoặc tốn công tốn sức một thời
gian dài mới gặt hái, nào ngờ chỉ một nhát mai đã kết thúc. Hai
người không dám tin những con vật bé tí trước mặt lại là sói, những con sói
Mông Cổ xuất quỉ nhập thần, tinh thông binh pháp, xưng hùng xưng bá trên thảo
nguyên mà lại bị đám thanh niên trí thức mò đến tóm tận ổ? Dương Khắc
nói: Mình cứ tưởng nằm mơ! Không nghĩ rằng ổ sói này lại rơi vào
tay chúng ta! Cao Kiện Trung cười diễu; Không ngờ mèo mù Bắc Kinh vớ cá rán Mông Cổ.
Trần Trận ngồi xổm nhặt những viên sỏi trên mình những con sói, cẩn thận đếm:
Bảy con tất cả. Mỗi con to bằng nắm tay, đầu đen nhánh, nằm cuộn tròn
không động cựa nhưng mắt mở, con ngươi phủ một tấm màng màu xám trong suốt,
mọng nước. Con ngươi đã có màu đen. Cậu bảo lũ sói con: Tao tìm
chúng mày đã lâu, cuối cùng ta đã gặp nhau.
Đanchi nói: ổ này được khoảng hai mươi hôm, sắp mở mắt rồi.
Trần Trận hỏi: Chúng ngủ say hay sao, chẳng động cựa gì hết.
Đanchi nói: Bọn sói tinh ra từ bé. Vừa rồi tiếng người tiếng chó đánh
thức chúng dậy nên chúng đang giả vờ chết. Không tin, cậu thử xách
một con lên xem.
Lần đầu đụng tay vào con sói, Trần Trận hơi do dự. Cậu không dám đụng vào
mình nó, mà chỉ dùng ngón trỏ và ngón giữa cầm tai nó nhấc lên. Nó vẫn
không cử động, bốn chân thõng thượt như đã chết. Con sói được đưa đến
trước mắt mọi người. Trần Trận đã nhiều lần nhìn thấy chó con, nay thấy
sói con, cậu thấy chúng khác nhau khá xa. Chó con lông bóng mượt, rất
xinh. Còn sói con thì không thế. Sói là loài thú hoang dã, lông dày
màu xám, nhưng giữa đám lông mềm mại đâm ra tua tủa những chiếc lông dài và
cứng, còn lông đầu thì đen như phết hắc ín. Mắt chưa mở nhưng răng đã
mọc, hàm răng trắng nhởn trông phát khiếp. Sói con hôi rình, không dễ
thương như chó con. Tuy vậy trong con mắt Trần Trận, sói con là con vật
cao quý nhất, hiếm gặp nhất, đẹp đẽ nhất trên thảo nguyên.
Trần Trận vẫn xách tai con sói con. Nó vẫn giả vờ chết, không chống trả,
không kêu rên. Vậy mà khi sờ vào ngực, tim nó nhảy thình thịch, không
nghĩ là tim đập nhanh đến thế. Đanchi bảo: Cậu thử đặt nó xuống đất mà
xem. Trần Trận vừa đặt xuống, con sói liền cựa quậy, trườn rất nhanh về
phía không có người và chó, nhanh như đồ chơi bằng dây cót. Con Vàng chỉ
ba bước đã đuổi kịp, định cắn thì bị cả ba người quát nạt. Trần Trận vội
nhặt con sói cho vào túi xách. Con Vàng nhìn Trần Trận tỏ vẻ bất mãn, nó
chỉ muốn cắn chết tươi mấy con sói cho hả giận. Trần Trận nhận thấy con
Nhị Lang đứng ngẩn nhìn mấy con sói, đuôi khẽ vẫy.
Trần Trận mở miệng túi vải bạt, ba thanh niên trí thức Bắc Kinh vui như trẻ nhỏ
ra ngoại thành bắt được ổ trứng chim, tranh nhau xách tai từng con sói con bỏ
vào trong túi. Trần Trận buộc chặt miệng túi, đeo bên hông ngựa, chuẩn bị
ra về. Đanchi nhìn bốn phía, nói: Chắc sói mẹ quanh quẩn đâu đây, ta nên
đi vòng xa một tí, nếu không, nó theo ta về tận nhà. Nghe nói vậy, ba
người chợt nhận ra mối nguy, mới hiểu trong túi xách không phải trứng chim mà
là những con sói mà mỗi khi nhắt đến, người Hán nào cũng tái mặt.
Đời Minh Đế nhà Đông Hán, các
bộ Bạch Lang, Bàn Mộc phía tây quận Văn Sơn gồm một triệu ba mươi vạn hộ, sáu
triệu nhân khẩu, tình nguyện quy thuộc nhà Hán. Họ dâng tặng nhà vua ba
chương thơ có tên "Bạch Lang ca", tỏ ý "Sói chúa trắng vì ái một
(nhà Hán) mà về với chính nghĩa"...
Trương Truyền Tỷ
"Trung Quốc đại sử cương" Quyển thượng.
Trần Trận chưa xuống ngựa đã ngửi thấy mùi thịt mà không phải là mùi thịt cừu,
bay ra từ trong lều ông già Pilich. Cậu lấy làm lạ, liền xuống ngựa bước
vào. Ông già Pilich bảo cậu đừng vào vội. Trần Trận dừng chân, thấy
các góc đông, tây, bắc của căn lều, các tấm thảm trải dưới đất đã được cuộn
lên. Trên những tấm da ngựa chưa thuộc bầy la liệt những chiếc bẫy sói bằng
thép, chí ít bảy tám cái. Một nồi to trên bếp lò giữa căn lều sôi sùng
sục, mùi thịt bay ra từ đấy. Caxumai mồ hôi nhễ nhại, đang lúi húi thêm
phân vào lò. Đứa con gái năm tuổi của chị - Xixico đang chơi với một đống
mạt chược, có đến sáu bảy mươi quân. Batu ngồi bên lau bẫy, những vết
thương trên mặt đang mọc da non. Bà vợ ông Pilich tên Ơchi cũng đang lau
chùi bẫy. Trần Trận không biết ông già đang nấu thịt gì trong nồi.
Ông Pilich dẹp một chỗ cho Trần Trận ngồi.
Trần Trận pha trò: Bố ninh bẫy để ăn hả bố? Răng cụ còn khoẻ gớm.
Ông Pilich cười tít, nói: Cậu mới đoán trúng một nửa. Tôi đang luộc
bẫy. Răng của tôi thì không ổn rồi, chỉ có răng của bẫy là tốt. Cậu
xem đây, bẫy đầy răng.
Trần Trận ngạc nhiên hỏi: Bố luộc bẫy để làm gì?
Bẫy sói - Ông già Pilich chỉ vào nồi - Tôi kiểm tra cậu nhé, thịt gì trong nồi?
Trần Trận lắc đầu. Ông già chỉ vào khay thịt để bên lò, nói: Đây là thịt
ngựa tôi lấy từ hồ tuyết về. Luộc một nồi thịt ngựa, lấy nước luộc bẫy
sói. Cậu biết vì sao lại phải làm thế không? Là để bẫy khỏi
gỉ. Trần Trận hiểu ra, tỏ vẻ thích thú: Thế này thì sói dính bãy rồi, sói
làm sao địch nổi người?
Ông già vê vê bộ ria bạc: Cậu nghĩ thế là không trị nổi sói. Sói thính
mũi hơn chó, hơi có mùi gì sắt là biết liền. Có lần tôi chùi thật sạch,
hơi sắt hơi người đều không có nhưng sói không dính bẫy. Nghĩ mãi mới nhớ
ra là hôm ấy đặt bẫy xong tôi vô ý nhổ đờm, nếu như có đờm trên tuyết thì cũng
không sao, đằng này tôi lại dùng gót chân di đi rồi gạt tuyết lên, tưởng thế là
ổn, ai ngờ sói đánh hơi thấy.
Trần Trận ngạc nhiên quá đỗi, than: Cái mũi của sói kinh khủng quá!
Ông già nói: Sói có linh tính, có thần bảo hộ, có ma trợ giúp, rất khó
chơi!
Trần Trận định hỏi tiếp về quỉ thần, nhưng ông gài đã quì xuống để vớt
bẫy. Bẫy sói khá cồng kềnh, mõi nồi chỉ luộc được một chiếc. Trần
Trận dùng thanh gỗ khều cái bẫy đặt xuống tấm vải đầu, rồi thả chiếc khác vào
nồi. Ông già nói: Hôm qua huy động cả nhà chùi cả ngày. Luộc một
lần rồi, lần này là lần thứ hai. Chưa xong đâu, lát nữa còn phải trộn mỡ
ngựa với lông bờm ngựa rồi chà kỹ lên bẫy. Khi đặt bẫy phải đeo găng tay,
rồi rắc phân ngựa khô lên trên. Bắt sói như bắt giặc, không tỉ mỉ không
thắng. Tỉ mỉ hơn phụ nữ, hơn Caxumai ấy chứ! Ông già vừa nói vừa
cười.
Caxumai ngó Trần Trận bảo: Tôi biết chú đang muốn uống trà. Tôi dở tay,
chú tự lấy mà uống. Trần Trận không thích uống nước gạo rang, chỉ thích
ăn óc đậu do Caxumai làm. Cậu xúc bốn năm miếng óc đậu rồi rót một bát
đầy sữa. Caxumai bảo, Batu định đi nhưng những vết thương trên mặt không
cho phép ra khỏi nhà, đành để chàng trai người Hán này đi. Trần
Trận cười: Hễ có chuyện liên quan tới sói là bố lại nhớ tới con, phải không bố?
Ông già nhìn Trần Trận, nói: Xem ra cậu đã mê sói rồi đấy. Ta già rồi,
muốn truyền nghề cho cậu. Chỉ cần say mê là học được. Nhưng cậu
phải nhớ rằng sói là do trời sai xuống bảo vệ đồng cỏ, sói không còn thì thảo
nguyên cũng không còn, người Mông Cổ không còn thì thảo nguyên cũng không còn.
Trần Trận sửng sốt: Bố bảo sói và người đều là vệ binh của thảo nguyên?
Ánh mắt ông già trở nên xa lạ. Ông nhìn Trần Trận đăm đăm: Đúng vậy,
nhưng cái lý này người Hán không hiểu đâu.
Trần Trận giật mình, vội nói: Bố ơi, bố cũng rõ là con phản đối kịch liệt chủ
nghĩa Đại Hán. Con cũng không tán thành đưa người lên thảo nguyên khai
hoang.
Nét mặt giãn dần, ông già vừa chùi bẫy vừa nói: Mông Cổ người ít, bảo vệ đồng
cỏ không dễ. Không diệt sói, người Mông Cổ còn ít hơn nữa, mà diệt nhiều
sói quá, dân số Mông Cổ cũng lại giảm.
Lời ông già có điều gì đó khó hiểu, Trần Trận đành bỏ dở câu chuyện.
Các bẫy đã xử lý xong, ông già bảo Trần Trận: Đi cùng tôi, cậu sẽ thấy phải làm
như thế nào.
Ông xỏ đôi găng tay bằng vải bạt, đưa cho Trần Trận một đôi, rồi xách bẫy chui
ra ngoài lều, đặt lên cỗ xe bánh sắt. Sàn xe lót thảm đẫm mỡ ngựa.
Trần Trận cùng Batu khuân hết các bẫy ra xe, mỡ ngựa gặp lạnh đông lại thành
một lớp phủ bên ngoài. Khi các bẫy đã đưa lên hết, ông già trở lại lều
lấy một túi phân ngựa khô đưa lên xe. Mọi việc xong xuôi, ba người lên
ngựa. Caxumai gọi với: Trần Trận đừng để bẫy kẹp phải tay! Cô dặn
Trần Trận mà như dặn Bayan không bằng.
Trông thấy những chiếc bẫy, Balua và mấy con chó liền nổi máu săn, nhao ra định
chạy theo. Batu vội túm gáy con Balua, Caxumai cũng giữ rịt cổ một con
khác. Ông già Pilich nạt lũ chó ở nhà, rồi dắt con ngựa kéo cỗ xe bò, ba
người ba ngựa chạy nước kiệu tiến về phía đầm lầy.
Tầng mây dày vẫn áp sát đỉnh núi, tuyết lại rơi nhẹ, bông tuyết khô và
xốp. Ông già Pilich ngửa mặt lên trời, chỉ lát sau mặt ông loáng
nước. Ông tháo găng xoè bàn tay hứng tuyết rồi chà lên mặt, nói: Mấy hôm
nay bận quá quên cả rửa mặt. Rửa mặt bằng tuyết thích thật. Quanh
quẩn suốt ngày bên bếp, mặt ám khói, phải rửa sạch mùi khói, công việc mới đảm
bảo.
Bắt chước ông già, Trần Trận cũng rửa mặt. Ngửi ống tay áo thấy có mùi
khói của phân cừu, rất có thể vì chi tiết này mà tất cả biến thành công
cốc. Cậu hỏi ông già: Mùi khói trên người có sao không hở bố?
Ông già nói: Không sao, đi đường sẽ bay hết. Nhớ là lúc đặt bẫy không
được để vạt áo chạm vào thịt ngựa.
Trần Trận nói: Chơi nhau với sói quá mệt! Đêm qua sói tru, chó sủa tới
sáng, con chẳng ngủ được mấy tí.
Ông già nói: Thảo nguyên không như dưới xuôi. Dưới xuôi người Hán có thể
ngủ một giấc tới sáng. Còn thảo nguyên là chiến trường, người Mông Cổ là
những chiến binh, ông trời bắt phải thế. Chỉ muốn ăn no ngủ kỹ thì không
phải là chiến binh chân chính. Phải học được cách nằm xuống là ngủ, có
tiếng có sủa là mở mắt. Sói ngủ nhưng hai tai vẫn dựng đứng, có động là
bỏ chạy. Muốn bắt sói phải có bản lĩnh hơn sói. Ta cũng là một con
sói già: ăn được, ngủ được, săn bắt được, tàn một tẩu thuốc đã được một
giấc. Sói Ơlon căm ta lắm, chắc chắn khi ta chết chúng sẽ ăn sạch không
còn một mẩu. Vậy là ta chầu trời rất nhanh.
Trần Trận vừa ngáp vừa nói: Bọn thanh niên trí thức chúng con ốm nhiều lắm, đã
phải gửi về Bắc Kinh một cô. Cứ đà này thì phải gửi về đến một nửa.
Con nhất định không cho sói ăn thịt. Phải hỏa táng mới sướng!
Ông già cười hề hề: Người Hán lãng phí quá. Chết mà cần quan tài làm
gì. Gỗ ấy đóng được bao nhiêu là xe bò.
Trần Trận nói: Con không cần quan tài, hoả thiêu trực tiếp là xong.
Ông già cười: Nhưng vẫn phải dùng rất nhiều củi đun, lãng phí quá. Người
Mông Cổ tiết kiệm làm cách mang, khi chết đặt lên xe bò chạy về hướng đông, rớt
xuống chỗ nào đợi sói ăn ở chỗ ấy.
Trần Trận cũng cười: Nhưng mà thảo nguyên làm gì có gỗ hả bố? Ngoài lý do
lên chầu trời, phải chăng còn vì tiết kiệm củi, thảo nguyên không thấy có cây
cối.
Ông già nói: Ngoài chuyện tiết kiệm củi, còn vì "ăn thịt thì phải trả bằng
thịt"!
Ăn thịt phải trả bằng thịt, Trần Trận lần đầu tiên nghe câu này nên chưa
hiểu. Cậu vội hỏi: Ăn thịt trả bằng thịt là thế nào hả bố?
Ông già nói: Người thảo nguyên suốt đời ăn thịt, sát hại không biết bao nhiêu
là sinh mạng, tội to đấy! Vì vậy khi chết con người trả lại thịt cho thảo
nguyên mới công bằng, linh hồn không đau khổ trên thiên đường.
Trần Trận cười: Như vậy quả công bằng. Nếu con không bị sói trả về Bắc
Kinh thì con cho sói ăn thịt lại hóa hay. Đàn sói chỉ một loáng là xong,
nhanh hơn thiêu bằng củi.
Ông già rất vui, nhưng rồi ông lại lo: Trước kia thảo nguyên không nhiều người
Hán. Cả mục trường có trăm ba trăm tư gia đình, khoảng bảy tám trăm người
Mông Cổ. Trong cách mạng văn hóa, thanh niên trí thức Bắc Kinh lên đây
trên một trăn, lại còn bộ đội, tài xế xe lớn xe nhỏ, thợ xây dựng... Họ đều
ghét sói. Rồi đây hết sói, cậu muốn cho sói ăn thịt cũng chịu.
Trần Trận cũng rất vui. Cậu nói: Bố đừng lo, sau này có đánh nhau thì
đánh bằng bom nguyên tử, người và sói chết sạch, chẳng còn ai ăn ai nữa.
Ông già khoát tay vẽ một vòng tròn, hỏi: Nguyên... nguyên tử là bom gì?
Trần Trận giải thích một hồi mà ông già vẫn không hiểu, đành thôi.
Sắp đến chỗ những con ngựa chết ở mạn bắc của đầm lầy. Ông già để Bayan ở
lại cùng với con ngựa kéo và cỗ xe. Ông xách hai cái bẫy, một chiếc xẻng
nhỏ, một túi phân ngựa khô, rồi cùng Trần Trận đi về phía những con ngựa đông
cứng, lúc lúc dừng ljai, nghiêng ngó. Mấy con ngựa đã bị đụng tới, những
vết răng hằn rõ dưới lớp tuyết mỏng và những dấu chân sói xung quanh.
Trần Trận không nhịn được, lại hỏi: Sói đã đến hả bố?
Ông già không trả lời, tiếp tục quan sát, sau đó ông bảo sói lớn chưa
tới. Ulichi đoán đúng, đàn sói lớn vẫn còn ở phía bắc đường biên phòng,
chúng quả thật kiên trì.
Những dấu chân sói này là thế nào hở bố? - Trần Trận chỉ những dấu chân trên
tuyết, hỏi.
Ông già nói: Những dấu chân này phần lớn là của cáo, chỉ có một vết của sói
mẹ. Đây, phía này là một cặp sói mẹ sói con đi ăn lẻ - Ông già có vẻ suy
nghĩ - Mình định bẫy sói đầu đàn hoặc sói gộc trong đàn, nhưng đây toàn
là dấu chân cáo, không có sói lớn.
Vậy là công cốc hả bố?
Không hẳn vậy, nhiệm vụ của mình là đánh lạc hướng đàn sói. Thấy mình
đánh bẫy, chúng tưởng rằng mình không tổ chức vây bắt, nên kéo về ăn thịt
ngựa. Khi chúng về ta mới bủa vây.
Trần Trận hỏi: Có cách nào bắt được một con sói lớn không bố?
Có thể - Ông già nói - Giăng tất cả số bẫy đem theo, chốt sâu một tí, cỡ cho
sói và cáo không mắc.
Ông già cho ngựa dạo hai vòng quanh con ngựa chết, chọn điểm đặt bẫy.
Trần Trận vội xuống ngựa, xúc tuyết trên mặt rồi dùng cuốc chim đào một hố tròn
đường kính bốn mươi phân, sâu chừng mười lăm phân, giữa hố còn đào một hố
nhỏ. Ông già đeo găng tay tẩm mỡ ngựa cầm bẫy đặt xuống hố, dùng chân lèn
chặt hai bên lưỡi kẹp hình bán nguyệt rồi dùng sức banh lưỡi kẹp đầy răng cưa
sang hai bên cho tới khi chạm đất. Sau đó đặt miếng đệm vải hình tròn vào
giữa lỗ tròn nhỏ, luồn chiếc tăm sắt dưới tấm đệm rồi luồn vào hố khẩu cái bẫy.
Trần Trận thấp thỏm theo dõi một loạt thao tác vô cùng nguy hiểm của ông già,
chỉ cần sơ ý là gãy tay lập tức. Ông già co chân ngồi xổm trên tuyết, mồ
hôi rỏ giọt, thở phì phò. Ông lấy ống tay áo lau mồ hôi trên mặt, không
cho rớt xuống miếng thịt ngựa. Lần đầu tiên theo ông già đi đặt bẫy, Trần
Trận mới hình dung được con sói sập bẫy như thế nào. Chỉ cần đặt chân lên
miếng đệm vải rớt xuống, chiếc tăm bật khỏi hố khẩu, bộ lò xo thép với sức bật
vải trăm cân đẩy hai hàm răng thép bập vào chân con mồi, gãy xương luôn.
Thảo nào sói rất sợ bẫy kẹp. Cái hôm gặp đàn sói, nếu chúng không sợ tiếng
va đập của sắt thép thì Trần Trận đã mất mạng.
Việc còn lại là nguỵ trang. Cũng hết sức tỉ mỉ, không được sai sót.
Ông già bảo: Không phủ tuyết lên bãy, sức nặng của tueyest có thể làm rớt miếng
đệ, hoặc nắng nóng làm tuyết tan ra nước, khiến bẫy bị kẹt vì đóng băng.
Cậu đưa cho ta túi phân ngựa.
Ông già đón lấy túi phân, bốc một nắm, vừa vê vừa rắc lên miếng đệm, phân mịn
lấp kín các kẽ răng cưa và miệng bẫy. Lúc này miếng đệm vẫn lửng lơ,
không sợ phía trong đóng băng. Rồi thì chiếc xích sắt của cái bẫy được
móc vào bộ xương con ngựa chết, phủ tuyết mới lên trên. Ông già bảo Trần
Trận gạt tuyết lên bẫy, phủ kín bè và lò xo, lấy tuyết xốp rắc lên trên phân
ngựa. Cuối cùng dùng mảnh da cừu san nhẹ mặt tuyết phẳng như xung quanh.
Tuyết hoa vẫn nhẹ nhàng rơi. Lát sau, tất cả các dấu vết trên mặt tuyết
đều không nhìn thấy nữa. Trần Trận hỏi: Cái bẫy này chỉ sói mới mắc, còn
cáo thì không hả bố? Ông già bảo: Đẩy cái then sắt sâu thêm một chút, cáo
nhẹ đạp không tụt, sói nặng mới bật then ra.
Ông già nhìn quanh rồi tính cự li bằng bước chân, chọn một địa điểm cách chỗ cũ
hai bước, đặt cái bẫy thứ hai. Ông bảo: Cậu đặt đi!
Trần Trận hỏi: Sao hai bẫy đặt gần nhau? Ông già nói: Cậu không biết, có
con rất hung, nó cắn đứt cái chân mắc bẫy rồi bỏ chạy bằng ba chân còn
lại. Ta đặt thêm một bẫy để khi con sói giằng cái xích, chạy tới chạy lui
để rút chân thì chân thì chân sau dẫm phải cái bẫy thứ hai. Chỗ này vừa
vặn chiều dài của cái xích. Nếu con sói bị kẹp hai chân thì dù nó
cắn đứt cả hai, nó vẫn không chạy thoát. Thử hỏi, chỉ còn hai chân thì
chạy sao được?
Trần Trận rùng mình. Cuộc chiến giữa người và sói trên thảo nguyên quả
thực tàn khốc. Cả sói và người đều dùng tàn bạo chống lại tàn bạo, tàn
nhẫn chống tàn nhẫn, quỉ quyệt đối phó quỉ quyệt. Nếu cứ tiếp tục lấy oán
báo oán, gần mực thì đen, con người rồi sẽ biến thành sói, mặt sứa gan lim,
không còn tình người. Tuy rất căm thù sói, vậy mà khi đặt bẫy, tay cậu
run lên. Cái bẫy này rất hiểm. Nó ở ngay phía trước con ngựa chết
béo mập, rất hấp dẫn, chỉ ngửi thấy mùi thịt và phân ngựa, không thấy hơi người
và mùi gỉ sắt. Trần Trận tin rằng, con sói ranh mãnh nhất cũng bị đứt gân
lòi xương, bị người ta lột lấy da, còn xác thì vứt trên đồng cỏ. Đây mới
chỉ bẫy một con, nếu trên quy mô lớn thì đâu chỉ vài con sa bẫy! Cậu nghĩ
tới biết bao nhiêu quân sĩ các triều Chu, Tần, Hán, Đường, Tống, Minh... bị dụ
vào nơi thảo nguyên heo hút này rồi rơi vào cái bẫy sắp đặt tinh vinh mà toàn
quân bị diệt. Xưa kia kỵ binh thảo nguyên không chỉ dựa vào tính hung hãn
mà đập tan quân đội của các nước tiên tiến. Họ là những người bảo vệ thảo
nguyên, họ học tài năng quân sự và trí tuệ của sói để giữ gìn thảo nguyên, đập
tan các cuộc tấn công của sắt và lửa, cày và cuốc của người Hán vào thảo
nguyên. Ông già Pilich nói đúng. Trần Trận nghĩ mà sợ.
Ông già cười khà: Sợ rồi phải không? Đừng quên thảo nguyên là chiến
trường, kẻ nào sợ máu, kẻ ấy không phải chiến sĩ. Sói dùng quỉ kế sát hại
của ta cả một đàn ngựa, cậu có xót xa không? Con người không giở độc
chiêu thì không thể thắng sói.
Trần Trận bình tâm lại, cẩn thận gạt tuyết đào hố. Khi đặt bẫy, tay cậu
lại run, lần này thì sợ kẹp tay, vì đây là lần đầu. Ông già vừa hướng
dẫn, vừa nhét đầu gậy vào hố khẩu để bảo vệ cái tay Trần Trận phòng khi bẫy
sập. Cảm kích vì được bảo vệ, Trần Trận cố gắng đặt chính xác. Lúc
đứng lên lau mồ hôi, cậu trông thấy ông già mồ hôi nhiều hơn cậu. Ông thở
ra một hơi khoan khoái: Này con trai, ta hướng dẫn con đặt một cái nữa, đến cai
thứ ba thì con tự làm lấy. Ta thấy con đã thạo rồi đấy. Trần Trận
thưa vâng. Cậu theo ông già trở lại chiếc xe lấy hai cái bẫy rồi chọn một
con ngựa chết, xác định chỗ đặt bẫy. Bốn chiếc bẫy còn lại, chia nhau mỗi
người hai cái, đặt xong. Ông già bảo bé Bayan phụ việc cho cậu.
Trời gần tối mà tuyết vẫn không tạnh. Ông già cẩn thận kiểm tra từng
chiếc bẫy của Trần Trận, cười vui: Không thể phát hiện ra. Ta mà là sói
thì cũng bị lừa. Ông nhìn cậu đăm đăm, hỏi: Giờ thì làm gì? Trần
Trận nghĩ một thoáng, nói: Phải xoá sách dấu chân của ta, đếm lại dụng cụ,
không được bỏ quên. Ông già rất thỏa mãn: Cậu thành tinh rồi đấy!
Ba người bắt đầu từ phía bắc quét xuống, vừa quét vừa kiểm tra cho đến chỗ để
xe thì dừng. Trần Trận thu nhặt đồ dùng, hỏi ông già: Ngần ấy cái bẫy thì
được mấy con hả bố? Ông gài nói: Đi săn thì không được hỏi săn được mấy
con, nếu kể số lượng ra thì không bắt được con nào hết. Mưu sự tại người,
thành sự tại trời!
Ba người lên ngựa ra về.
Ông già nói: Cho dù sói mắc bẫy, ta cũng không được đến lấy, phải để cho lũ sói
nhìn thấy. Không thấy người đến, chúng càng nghi tợn, và sẽ bám riết đàn
ngựa chết. Nhiệm vụ của ta là dụ được cả đàn sói về đây, chứ không phải
chỉ bẫy vài con, mục trường yêu cầu như thế. Phải đợi thôi, ngày mai cậu
không cần đến, mình ta theo dõi từ xa là đủ.
Ba người ung dung ra về. Trần Trận nghĩ tới đàn sói con, định bụng hỏi
ông già cách đào bắt. Bắt sói con là công việc nguy hiểm, nặng nhọc, kỹ
thuật cao trong nghề săn. Nó được coi như biện pháp chủ yếu ngăn chặn
sự phát triển vô độ của sói thảo nguyên. Một ổ sói con có bảy tám
con, có khi mười mấy con. Thức ăn của sói vùng Ơlon rất phong phú, tỉ lệ
trưởng thành cao. Đầu xuân triệt một ổ, coi như trong năm diệt một
đàn. Để bảo vệ sói con, đàn sói rất lắm mưu và cả sự liều mạng.
Trần Trận đã được nghe không ít chuyện may rủi trong khi đào bắt, nên cũng đã
chuẩn bị về tư tưởng. Đã hai mùa xuân qua đi, hơn một trăm thanh niên trí
thức wor mục trường chưa một ai bắt được một ổ nào. Trần Trận cũng không
mong tóm được cả ổ, mà chỉ mong được đi theo ông già vài chuyến để học
nghề. Nhưng sau sự cố đàn ngựa, ông già không còn thì giờ cho việc bắt
sói con, Trần Trận đành hỏi kinh nghiệm ở ông.
Trần Trận hỏi ông già: Cách đây mấy hôm, một con sói mẹ đã cắp con cừu non chạy
về phía núi Đen. Con nghĩ ở đó có sói con nên định sáng mai đi tìm.
Con muốn được bố dẫn đi.
Ông già nói: Ngày mai thì không được rồi. Chuyện ở nhà rất quan trọng,
ban quản lý đang đợi tin ta. Ông ngoảnh lại hỏi: Nó chạy về phía núi Đen
hả? Vâng. Ông già vê vê chòm râu hỏi: Thế lúc ấy cậu có đuổi theo
không? Trần Trận nói: Nó chạy nhanh quá, con không kịp lấy ngựa
đuổi. Ông già bảo: Như vậy còn được. Nếu cậu đuổi theo, con sói sẽ
đánh lừa cậu. Nó không chạy về ổ, mà chạy đi hướng khác.
Ngẫm nghĩ một lát, ông già bảo: Con sói này khôn thật. Mùa xuân năm
trước, tôi đào bắt một ổ sói ở đó. Năm nay không ai đến nữa, không ngờ
con sói bất ngờ đẻ ở đấy. Ngày mai cậu cứ đi, nhớ rủ thêm vài người, đem
theo nhiều chó. Phải chọn những người dũng cảm, có kinh nghiệm.
Không được đi một mình, rất nguy hiểm!
Đào bắt sói thì nguy hiểm ở chỗ nào hả bố?
Ông già nói: Đào bắt đã khó, nhưng tìm ổ còn khó hơn. Ta mách cậu một
cách: Sáng sớm mai. Lúc còn tối đất, cậu trèo lên đỉnh đồi dưới chân núi
Đen mà phục, đợi sáng ra, sau một đêm hoạt động kiếm mồi, sói mẹ trở về cho con
bú, nó về chỗ nào, chỗ ấy có sói con. Có điều khi thấy rồi đào bắt mới
khó, sợ nhất là trong hang có sói mẹ. Các cậu phải hết sức cẩn thận!
Mắt tối sầm, ông già có vẻ buồn: Nếu không vì chuyện đàn ngựa đã bị giết sạch,
ta không muốn các cậu đi bắt sói con. Người già Ơlon không bao giờ thích
làm chuyện này.
Trần Trận không dám hỏi tiếp. Ông già vốn đã khó chịu về chuyện phát động
phong trào diệt sói con với quy mô lớn, hỏi nữa có khi ông không cho cậu
đi. Nhưng muốn trị sói thì phải có kiến thức, phải hiểu tập tính của sói,
nên cậu định nuôi một con. Nếu bây giờ không tranh thủ bắt ngay thì khi
chúng mở mắt sẽ rất khó nuôi. Dứt khoát phải nuôi từ lúc nó chưa mở mắt,
chưa phân biệt bạn thù, chuyển nó từ thế giới của sói sang thế giới của
người. Cậu e tính cách hoang dã của sói khiến nó khó nuôi hơn chim
sẻ. Chim sẻ rất khó tính. Bị giam trong lồng, nó nhắm tịt mắt,
không ăn không uống chỉ chờ chết. Sói con không dễ bắt như chim sẻ.
Nếu như tốn bao công sức mà chỉ vài ngày nó chết thì uổng công quá. Trần
Trận định bụng hỏi Batu. Anh nổi tiếng khắp mục trường về tài săn bắt
sói. Mấy hôm trước bị sói cho một vố, anh đang tức, chắc chắn sẽ phổ biến
kinh nghiệm cho cậu.
Về đến lều trời tối hẳn. Căn lều đã được thu dọn, những tấm thảm đẹp đã
được trả lại chỗ cũ, ba cây đèn mỡ cừu sáng rực, hai đĩa lớn thịt cừu, lòng cừu
bốc hơi thơm phức. Miệt mài cả ngày trời, ai nấy bụng đói meo. Trần
Trận cởi phăng áo ngoài, ngồi xuống bên bàn ăn. Caxumai bê đĩa tràng - món
cậu thích nhất, đặt trước mặt cậu; bê đĩa sườn cừu, món ăn ông già ưa nhất, đặt
trước mặt ông già. Sau đó, cô trộn xì dầu với tương nấm, món hỗn hợp Bắc
Kinh - Mông Cổ mà Trần Trận ưa thích nhất, và đã trở thành món nước chấm thường
xuyên của cả nhà. Trần Trận gặp miếng tràng chấm nước chấm rồi đưa lên
miệng, thơm ngon đến nỗi cậu nhất thời quên cả chuyện bắt sói con. Tràng
là phần ngon nhất trong nội tạng con cừu, chỉ dài một thước, gọi là
"béo" nhưng chẳng béo chút nào, gần như toàn bộ phế thải tích tụ về
đây, nhưng lại là món ngon nhất trong bữa ăn của người Mông Cổ, giòn và thơm,
có mỡ nhưng không béo.
Trần Trận nói: Người Mông Cổ rất tiết kiệm, ngay cả hoành cách mô cũng không
bỏ, mà cũng rất ngon.
Ông già gật đầu: Con sói khi đói ăn cừu cả lông, lẫn móng guốc. Khi trời
ra tai, người và sói đều kiếm ăn không dễ, phải ăn bằng hết những gì trên thân
con cừu.
Trần Trận cười: Vậy là người Mông Cổ bắt chước sói, ăn cừu cả con!
Ông già cười, luôn miệng bảo đúng. Trần Trận gắp miếng tràng thứ
ba.
Caxumai rất vui. Trần Trận nhớ có lần chị nói, chị thích những ông khách
ăn hùng hục như sói. Cậu hơi ngượng, thấy mình lúc này có vẻ giống
sói. Cậu biết cả nhà ông Pilich thích ăn tràng. Vậy mà loáng cái,
cậu đã ăn hết quá nửa. Caxumai nhổm dậy, dùng dao rạch khoang bụng dưới
con cừu, lấy ra một cái tràng nữa, cười bảo: Biết cậu đến là không định đi đâu
nữa, nên luộc hai cái, một cái phần cậu. Cậu nên học tập sói, ăn bằng
hết. Cả nhà cười, Bayan vội gặp miếng tràng vào đĩa thịt trước mặt.
Đã hai năm mà Trần Trận vẫn chưa phân định được vai vế của Caxumai đối với
cậu. Caxumai đáng tuổi chị dâu, nhưng có lúc cậu có cảm tưởng chị gái, có
lúc lại như em gái, như bà dì, như bà trẻ. Caxumai vui vẻ hồn nhiên và
phóng khoáng như thảo nguyên.
Trần Trận ăn hết cái tràng, bê bát trà sữa uống hết một nửa, hỏi Caxumai: Bayan
dám tóm đuôi sói, dám vào hang bắt sói con, dám cưỡi ngựa chưa thuần, liệu còn
chuyện gì đáng ngại không?
Caxumai cười: Người Mông Cổ ai cũng thế từ bé. Batu hồi nhỏ còn bạo gan
hơn Bayan. Cái hang mà Bayan chui vào không có sói mẹ, sói con thì chưa
biết cắn, nên chẳng có gì ghê gớm. Còn Batu thì trong hang có sói mẹ, anh
ấy tóm lấy sói mẹ lôi ra khỏi hang nữa kìa.
Trần Trận ngạc nhiên. Cậu vội hỏi: Chuyện này sao anh chưa nói. Kể
đi anh.
Batu cười, tợp một ngụm rượu, kể: Năm ấy mình mười ba tuổi. Bố và mọi
người tìm suốt mấy ngày mới tháy một hang sói con. Hang to và sâu, không
đào được. Bố sợ có sói mẹ nên cho hun khói. Khi hết khói mà
vẫn không thấy sói mẹ chạy ra, mình cầm đuốc và bao tải chui vào hang.
Nào ngờ vừa chui được một khoảng thân người rưỡi thì mình trông thấy cặp mắt
con sói chỉ cách hai thước, mình sợ suýt bĩnh ra quần, vội huơ cây đuốc, thấy
con sói cũng đang run cầm cập. Khi sợ, chó và sói có điệu bộ giống nhau:
cụp đuôi giữa hai chân sau. Mình không dám động đậy. Lửa đuốc vừa
tắt, con sói liền xông ra, mình không kịp rút, bụng nghĩ phen này chắc
chết. Không ngờ con sói không định cắn, mà định nhảy qua đầu mình vọt ra
ngoài. Khi ấy mình sợ bên ngoài không kịp đối phó, sợ sói cắn phải bố, và
không hiểu vì sao mình bạo gan đến thế, mình nhổm dậy đội đúng chỗ họng con
sói, ép đầu nó lên nóc hang. con sói bị kẹt, cào cấu lung tung, quần áo
mình rách tơi tả. Mình cũng đánh liều, ngồi thẳng lên cho đầu tìn giữa
hàm dưới con sói, ép chặt hơn nữa đầu nó vào nóc hang, rồi ngồi thở, mệt đứt
hơi. Batu kể lại một cách bình thản, y như chuyện của người khác:
Bên ngoài đợi rất lâu không hiểu vì sao không thấy ra. Bố vội chui vào
giơ đuốc soi thấy mình và con sói thì sợ toát mồ hôi, vội bảo mình ngồi yên rồi
ông ôm eo mình lôi dần ra. Mình vừa tì chắc cái đầu con sói lên nóc hang,
vừa lôi hai chân trước của nó, lôi nó ra từng tí. Khi ra đến mép hang,
mọi người mới rõ chuyện, liền đâm một nhát xuyên từ miệng ra phía sau đóng đinh
lên nóc hang, sau đó lôi hẳn nó ra ngoài, đập chết. Sau khi nghỉ cho lại
sức, mình lại chui vào hang. Càng vào trong càng hẹp, chỉ trẻ con mới vào
được. Bên trong cùng hóa ra rất rộng, mặt đất trải đầy da và lông cừu,
một đàn sói con đang nằm thu lu, tất cả chín con, đều còn sống. Để bảo vệ
lũ con, sói mẹ lấp quá nửa chiều cao của hang, con mẹ ở phía ngoài. Khi
hun khói, nhờ mấy lỗ thông hơi nên khói tản đi nơi khác. Mình phá cái đập
chắn, lôi từng con ra nhét vào bao tải rồi lôi ra ngoài hang...
Trần Trận nín thở nghe Batu kể. Mọi người hình như không muốn nhớ lại
chuyện này nên nghe có vẻ thờ ơ. Trần Trận thấy câu chuyện không giống
chút nào với những chuyện bắt sói mà cậu được nghe, liền hỏi: Em nghe nói sói
mẹ rất dữ khi bảo vệ con, dám cắn người, vậy sao con này lại không dám?
Ông già nói: Thực ra sói thảo nguyên sợ người. Chỉ có người mới đánh chết
sói. Con sói mẹ đã bị choáng váng vì khói, lại thấy người cầm đuốc chui
vào, sao nó không sợ? Con này tuy to xác nhưng xem ra nó mới hai tuổi, đẻ
lứa đầu. Rất đáng thương, hôm nay cậu không hỏi thì chẳng ai muốn nhắc
đến nó. Caxumai không còn tươi cười như lúc thường, mắt cô có ngấn nước.
Bayan nói với Caxumai: Ngày mai chú Trận lên núi đào sói, con định giúp các chú
một tay. Các chú to con chui không lọt hang sói. Đêm nay con ngủ
cùng các chú để mai đi sớm. Caxumai nói: Được cho con đi nhưng phải cẩn
thận đấy. Trần Trận vội xua tay: Đừng, đừng đi, em sợ có chuyện gì xảy
ra. Chị chỉ có mỗi cục cưng này. Caxumai nói: Xuân này tổ mình mới
đào bắt được một ổ, còn thiếu ba ổ nữa. Không đào cho đủ, ông Bao Thuận
Quý lại tế cho. Trần Trận nói: Thôi chị ạ, thiếu thì thiếu, em vẫn không
thấy nên cho cháu đi. Thà không đi còn hơn. Ông già ôm Bayan vào
lòng nói: Bayan không cần đi, chắc chắn ta sẽ có một hai con sói lớn.
Không nộp da sói con thì thay bằng da sói lớn vẫn hoàn thành định mức.
"Sói xám là khẩu
lệnh của quân ta!"
Ánh nắng ban mai dọi vào trường Uhu Khan, một sói đực lông xanh bờm xanh hiện
ra trong nắng, dùng tiếng sói tâu lên Uhu Khan:... Thần xin dẫn đường cho
Khan...
Uhu Khan nhổ trại, con sói đực lông xanh bờm xanh đi trước dãn đường, đại quân
theo sau.
Sau đó, Uhu Khan gặp lại con sói lông xanh bờm xanh, sói dùng tiếng sói bảo
Khan: "Lập tức lên ngựa cùng quân sĩ!" Uhu Khan lập tức lên
ngựa. Sói bảo: "Dẫn theo tất cả A Khun và dân chúng, thần xin đi
trước dẫn đường."
Từ đó Khan luông cùng sói xanh xuất chinh...
"Sử thi Uhu Khan".
Hàn Nho Lâm trích dẫn từ "Cùng Lô tập"
Trên thảo nguyên Mông Cổ, cuộc vây ráp quy mô lớn được tổ chức vào đầu mùa
đông, khi những con rái cá cạn đã ngủ đông, trong hang. Rái cá lớn hơn
thỏ, béo núc ních, món ăn khoái khẩu của sói, là nguồn thực phẩm quan trọng của
sói trên thảo nguyên. Khi rái cá ngủ trong hang, sói đói bắt đầu tấn công
đàn gia súc, mục trường phải tập trung thợ săn đối phó. Đầu mùa đông là
lúc sói có bộ lông dài chống rét, da mềm, lông sáng màu, tuyết lông mịn, những
bộ lông thượng hạng như vậy chỉ có ở mùa này và được trạm thu mua định giá cao
nhất. Săn bắn mùa đông là nghề phụ quan trọng của mục dân. Săn bắn là dịp
để các mã quan rèn luyện và khoe tài cưỡi ngựa, tung thòng lọng và sự gan dạ;
cũng là dịp thi thố tài chỉ huy, trinh sát, chọn địa điểm, định giờ giấc, tổ
chức, điều phối, hiệu lệnh; cũng là một dịp để các tù trưởng, các Khan, Đại
Khan, Đại Đinh huy động bộ tộc diễn tập quân sư trên thực địa, một truyền thống
từ ngàn xưa để lại cho đến tận bây giờ. Trận tuyết đầu mùa vừa dứt, công
việc chuẩn bị cũng đã hoàn tất. Lúc này, dấu chân sói trên tuyết rất rõ,
đàn sói dễ bị lần ra tung tích. Sói tuy chân dài, nhưngk hông thể chạy
nhanh trên tuyết mới, dễ dàng bị ngựa đuổi kịp vì chân ngựa dài hơn.
Tuyết đầu mùa và thời điểm đầu đông rất bất lợi cho sói, mục dân trên thảo
nguyên lợi dụng thời tiết này rửa hận cho người và gia súc một năm khổ vì sói.
Thế nhưng, con người nắm được quy luật của thảo nguyên thì sói cũng không lại
gì quy luật của thảo nguyên. Những năm gần đây sói ngày càng tinh quái,
sói biết mỗi năm một lần săn, nên khi tuyết đầu mùa vừa ngưng rơi là chạy hết
sang bên kia biên giới, hoặc chui vào thâm sơn cùng cốc bắt dê bắt thỏ cầm hơi,
hoặc nằm co nhịn đói, gặm xương khô hoặc xác súc vật thối, đợi khi tuyết rắn
lại, chạy trên tuyết đã quen và người thì đã nản, chúng mới kéo về phá phách.
Tại cuộc họp trên mục trường, Ulchi nói: Mấy năm nay, đầu vụ đông chỉ săn được
vài con, mà toàn là những con sói choai. Từ nay ta cũng phải làm như
sói, hạn chế đến mức thấp nhất cách đánh đúng bài bản, mà phải làm cho rối tinh
rối mù, đánh rồi ngừng, ngừng rồi đánh, tuy không đúng binh pháp, nhưng sói
không mò ra quy luật. Thường thì không săn vào mùa xuân, nhưng nay ta làm
một cuộc tập kích lớn vào mùa xuân xem sao? Lúc này, bộ da không tốt bằng
bộ da mùa đông nhưng vẫn còn được, một tháng nữa sói mới rụng lông, tuy không
được giá, nhưng được thưởng đạn.
Hội nghị quyết định, quán triệt tinh thần chỉ thị của trên về việc diệt sói
trên cao nguyên Ơlon, xóa bỏ ảnh hưởng rất xấu do sự cố đàn ngựa, huy động toàn
thể mục dân triển khai phong trào diệt sói trên quy mô lớn. Ban quản lý
nói: Bây giờ là mùa bắt sói con, huy động nhân lực không dễ, nhưng phải kiên
quyết tổ chức cuộc săn, nếu không, ăn nói làm sao với thiên hạ!
Ulichi nói: Kinh nghiệm cho thấy, sau một trận đánh lớn, sói chủ lực chắc chắn
rút xa, chúng biết con người sẽ trả thù. Lúc này chúng đang quanh quẩn
vùng biên, hễ có động là vọt sang bên kia. Vì vậy những ngày sắp tới
không nên đánh, phải đợi cho thịt ngựa trong bụng sói tiêu hoá hết, chúng sẽ
nhớ đến đàn ngựa đông lạnh. Rái cá cạn và chuột đồng chưa ra khỏi hang,
sói đói ăn, chắc chắn phải tìm về ăn thịt ngựa.
Ông già Pilich gật đầu tán thành: Tôi sẽ cùng một số anh em đi đặt bẫy quanh hồ
tuyết để đánh lừa. Sói chúa thấy ta đặt bẫy cho rằng ta chỉ nghĩ đến
phòng thủ. Trước kia ta thường thu hết bẫy về trước khi tấn công để chó
nhà khỏi nguy hiểm. Lần này ta để bẫy đấy không thu về, sói chúa tinh
ranh đến mấy cũng bị lừa. Nếu một vài con mắt bẫy, đàn sói sợ chỉ đứng xa
mà nhìn, ăn không dám ăn, bỏ đi thì tiếc. Khi ấy ta lập tức bủa vây, chắc
chắn bắt được không ít, biết đâu vớ được con đầu đàn cũng nên.
Bao Thuận Quý gọi ông Pilich: Nghe nói sói ở đây rất khôn, đặt bẫy không
mắc. Sói già và sói đầu đàn còn cắn bỏ hoặc đánh dấu chỗ thịt tẩm độc để
sói cái và sói con ăn chỗ không độc. Có con lôi bẫy lên để trêu ngươi, có
thật không?
Ông già Pilich trả lời: Cũng không đúng hẳn. Bả sói của Hợp Cung tiêu rắt
nặng mùi, chó nhà còn nhận ra huống hồ sói? Xưa nay bọn tôi không
đánh bả, sợ chết chó nhà. Tôi ưa đánh bẫy. Tôi mà đặt bẫy là không
thể ngửi thấy, trừ sói thần.
Bao Thuận Quý cảm thấy ban quản lý mục trường giống hệt một bộ tư lệnh, hội
nghị sản xuất giống hệt hội nghị quân sự. Xem ra năm xưa trên điều đại
đội trưởng kỵ binh Ulichi về đây là đúng chỗ. Với ông ta cũng vậy, làm
đại diện quân đội cũng hợp. Ông ta gõ bút vào cốc trà, tuyên bố: Quyết
định như vậy nhé!
Ban quản lý ra lệnh: Nếu chưa được sự đồng ý của ban quản lý, cấm các đội và cá
nhân tự ý đi săn ở mạn bắc mục trường, đặc biệt không được nổ súng làm kinh
động đàn sói. Mục trường sẽ tổ chức cuộc săn sói quy mô lớn, các đội
chuẩn bị sẵn sàng, đợi thông báo.
Các đội bắt đầu chọn ngựa, vỗ béo chó, sửa thòng lọng, mài dao, lau súng, tất
cả chuẩn bị theo trình tự như khi đi bắt sói con vào tiết thanh minh, xén
lông cừu vào mùa hạ, cắt cỏ vào mùa thu, giết thịt cừu vào đầu đông, bận rộn
nhưng không lúng túng.
0o0
Sáng sớm, mây đen đầy trời sà thấp cắt ngang các đỉnh núi. Thảo nguyên
Ơlon phẳng lì như bị nén. Tuyết lất phất, gió hiu hiu, ống khói trên nóc
lều thở khò khè nặng nhọc như người lên cơn hen. Khói sà xuống mặt tuyết
đầy phân cừu, phân bò và cỏ vụn. Đợt rét muộn hình như còn dài, chưa có
dấu hiệu chấm dứt. May mà gia súc vẫn còn mỡ dự trữ, dày khoảng đốt ngón
tay, đủ cầm cự đến khi trời ấm lên, tuyết tan, cỏ bắt đầu mọc. Phía dưới
tuyết vẫn còn cỏ, cừu có thể bới tuyết mà gặm.
Đàn cừu nằm ườn trong chuồng nhai lại thức ăn, không muốn ra. Ba con chó
sủa suốt đêm, giờ vừa rét vừa đói, nằm run rẩy trước cửa lều. Trần Trận
vừa đẩy cửa, con Vàng đã vùng dậy chồm hai chân trước lên vai cậu mà liếm mặt,
đuôi vẫy rối rít đòi ăn. Trần Trận bê từ trong lều ra một lô xương chưa
lọc hết thịt cho lũ chó. Chúng tranh nhau mỗi con tha một khúc ra một chỗ
nằm xuống, hai chân trước ôm khúc xương mà gặm sồn sột, rồi chén tuốt cả xương
lẫn tủy.
Trần Trận lại vào trong lều lấy ra mấy miếng thịt mỡ cho con chó cái Ilo.
Ilo lông đen mượt, đầu dài, thân dài, chân dài, eo thon, lông mỏng. Hai
con này thuộc giống chơ Hưng An, chạy nhanh, ngoặt gấp nhanh, biết giữ và xẻ
con mồi, trông thấy sói là lao lên như động đực. Cả hai là cao thủ bắt
cáo, nhất là con Vàng học được tuyệt kỹ săn mồi từ bố mẹ. Nó không bao
giờ bị con cáo mê hoặc, đớp rất trung đuôi rồi ghìm chặt để con cáo cố trườn
lên rồi bất thình lình nhả ra, khiến con cáo chổng bốn vó, con Vàng xông tới
cắn một phát đứt họng. Cắn vào họng thì bộ da lành lặn, bán được giá.
Những con chó lười nhác thì bị vướng đuôi cáo gãy chân, hoặc cắn con cái nát
bét, thường ăn đòn của chủ. Con Vàng và con Ilo không sợ sói. Chúng
nhanh nhẹn tránh né cầm chân sói, tạo điều kiện thuận tiện cho người đi săn và
chó hạ thủ.
Con Vàng là của ông già Pilich và Caxumai cho Trần Trận. Ilo là của chủ
nhà Dương Khắc cho. Dân thảo nguyên Ơlon luôn tặng học sinh Bắc Kinh
những thứ tốt nhất. Vì thế, con Vàng và con Ilo lớn lên đẹp hơn những con
khác. Về sau Batu thường rủ Trần Trận và Dương Khắc đi săn cáo, lý do
chính là vì Batu rất thích hai con chó. Mùa đông vừa rồi, con Vàng và con
Ilo bắt được năm con cáo lớn. Hai chiếc mũ lông cáo Trần Trận và Dương
Khắc đội trên đầu là tặng phẩm của hai con chó cưng. Sau tết, con Ilo đẻ
một lứa sáu con; ba con đã bị ông Pilich, anh Lanmutrac và một thanh niên trí
thức bế đi; còn lại ba con thì một cái hai đực, hai vàng một mực, béo mũm mĩm
trông chẳng khác lợn bột, rất đáng yêu.
Dương Khắc chăm sóc con chó hơi quá đáng. Cậu ngày nào cũng nấu cho Ilo
một nồi cháo đặc gồm thịt vụn và kê. Đã dùng hết quá nửa kê tiêu chuẩn
của trạm lương thực cấp cho thanh niên trí thức. Khi đó thanh niên trí
thức vẫn hưởng tiêu chuẩn lương thực của Bắc Kinh: 30 cân (15 kilogam) một
tháng, nhưng chủng loại thì không như ở Bắc Kinh, 3 cân gạo rang, 10 cân bột
mì, còn lại 17 cân là kê. Kê dùng để nuôi chó, đám thanh niên trí thức ăn
thịt như dân du mục. Tiêu chuẩn lương thực của dân du mục chỉ 19 cân một
tháng. Cháo kê nuôi chó rất tốt, cách nấu do Caxumai dạy cho. Ilo nhiều
sữa, đàn chó con của bọn Trần Trận bụ bẫm hơn chó của mục dân.
Một con chó mực giống Mông Cổ to lớn khác thường chừng năm sáu tuổi, đầu vuông
miệng rộng, ngực nở chân dài, trường thân, tiếng sủa như hổ gầm. Nó
thương tích đầy mình, đầu và lưng nhiều chỗ trụi lông, da đen nhẻm. Nó
vốn có hai con mắt giả ở phía trên mắt thật, nhưng nay chỉ còn một, cùng với
hai con mắt thật hợp thành ba mắt như Nhị Lang Thần, mặc dù con mắt giả không
cân đối trên mặt.
Con Mực hung thần ác quỉ này, Trần Trận nhặt được khi đi mua hàng trên cung
tiêu. Hôm ấy trên đường về, Trần Trận luôn cảm thấy có luồng khí lạnh
phía sau, con bò cũng có vẻ sợ sệt. Cậu ngoảnh lại trông thấy một con chó
to như sói, lưỡi thè ra rất dài lẳng lặng theo sau. Cậu suýt ngã xuống xe
vì sợ. Cậu giơ roi dọa đánh, nó không đi, cứ theo về nhà. Đám mã
quan biết con chó. Nó có tật cắn chết cừu, bị chủ đuổi ra khỏi nhà, lang
thang đã hai năm, tuyết xuống thì nằm dưới chân tường, ban ngày tự đi kiếm ăn:
bắt thỏ đồng, rái cá cạn, ăn thịt súc vật chết, nhặt lương thực rơi vãi, và đôi
khi tranh ăn với sói độc. Nó cũng đã từng tự đến ở một vài nhà, nhưng vì
cái tật cắn chết cừu, lại bị đuổi ra khỏi cửa. Nếu người ta không thương
vì nó từng hạ thủ mấy con sói thì họ đã đánh chết nó rồi. Theo quy định,
chó nhà cắn chết cừu là phải giết đi, để phòng nó liên kết với sói nổi loạn, và
cũng là để răn đe những con chó vẫn còn thú tính. Mọi người khuyên nên
đuổi con Mực đi, nhưng Trần Trận thấy nó rất đáng thương. Cậu cũng rất tò
mò về nó. Nó đã từng sống chung với sói, từng tồn tại qua những mùa đông
khắc nghiệt, rõ ràng là nó rất có bản lĩnh. Với lại, từ sau khi dọn nhà
xa con Balua oai phong lẫm liệt, Trần Trận cảm thấy thiếu người đỡ đần bên
cạnh. Cậu nói với các mục dân, chỗ các cậu chỉ có chó săn tuổi còn non, thiếu
một con chó dữ để trông nhà, nên tạm thời giữ con Mực lại. Nếu nó cắn
chết cừu, cậu sẽ bồi thường.
Vài tháng trôi qua, "Nhị Lang Thần" không cắn chết con cừu nào, nhưng
Trần Trận vẫn nhận ra nó cố gắng kiềm chế, chủ động lánh xa đàn cừu. Cậu
nghe ông già Pilich nói, vài năm trở lại đây có một số lưu manh đến làm thuê ở
Ơlon, đã giết thịt hầu hết những con chó hoang. Họ dụ chúng vào trong
lều, đóng cửa lại rồi giết thịt. Hình như con Mực đã có lần bị bắt nhưng
chạy thoát. Nó không dám lang thang, không dám trở thành chó hoang.
Chó hoang không sợ sói, nhưng sợ người giết. Con Mực rất dữ, gác đêm sủa
tới sáng, tấn công sói quyết liệt, lúc nào cũng có máu sói dính trên mép.
Một mùa đông đã qua, đàn cừu của Trần Trận và Dương Khắc không con nào bị sói
vồ hoặc bị cắn chết. Nhiệm vụ chính của chó thảo nguyên là gác đêm, giữ
nhà và đi săn. Ban ngày chó không đi theo đàn cừu và cũng không ở cùng
đám cừu non vì cách bức tường xây. Có lẽ vì thế mà con Mực dần cải tà quy
chính.
Mấy cậu thanh niên trí thức ở cùng Trần Trận cũng đối xử rất tốt với con Mực,
thường cho nó ăn. Nhưng con mực chưa khia nào tỏ ra gần gũi với người,
chưa bao giờ biểu thị tình cảm đối với những người đã bao dung nó. Nó
không chơi đùa với con Vàng và con Ilo, ngay cả khi gặp chủ, phải tinh mắt mới
thấy nó vẫy đuôi. Buổi sáng rảnh rỗi, nó thường đi dạo một mình trên đồng
cỏ hoặc nằm một nơi rất xa căn lều ngắm trời ngắm đất, trầm tư mặc tưởng, cặp
mắt lim dim, biểu lộ một tình cảm lưu luyến đặc biệt với thảo nguyên.
Một lúc nào đó, Trần Trận chợt thấy con Mực không giống chó mà có phần giống
sói. Tổ tiên của chó là sói. Khuyển Nhung là bộ tộc có mặt sớm nhất
trên thảo nguyên tây bắc Trung Quốc, tự nhận tổ tiên của họ là hai con chó
trắng. Tôtem của Khuyển Nhung là chó. Trần Trận thường tự hỏi: Vì
sao một bộ tộc mạnh trên thảo nguyên lại thờ một con vật đã bị nhân loại thuần
hóa làm vật tổ? Có lẽ cách đây vài ngàn năm, sói thảo nguyên cực kỳ dũng
mãnh, đầy thú tính, hoặc giả là chó nhưng chưa mất hết thú tính. Hai con
chó trắng mà tộc Khuyển Nhung sùng bái có thể là sói trắng. Trần Trận
nghĩ, phải chăng con Mực hung dữ mà cậu đem về là một con chó nhưng mang đầy đủ
tính sói? Hay là một con sói nhưng một trăm phần trăm tính chó? Hay
là nó có những dấu hiệu trở lại sói?
Trần Trận thường ngồi xuống bên cạnh vuốt ve, gãi ngứa cho con Mực, nhưng
nó ít khi hưởng ứng, ánh mắt không rõ u tối hay thâm trầm, đuôi phe phẩy rất
nhẹ, chỉ cậu mới cảm thấy. Trần Trận không hiểu nó cần gì để giúp nó trở
lại tập tính thông thường của loài chó như con Vàng chẳng hạn, có công ăn việc
làm, có người thương, sống bằng sức lực của mình, một cuộc sống vô lo.
Nhưng đôi khi Trần Trận cũng nghĩ lan man: Chẳng lẽ nó không muốn cuộc sống
bình thường của chó, trở về với thế giới của loài sói? Thế thì vì sao hễ
trông thấy sói là nó nổi hung, coi như kẻ thù không đội trời chung? Đó là nhìn
vẻ bên ngoài. Nó là một con chó một trăm phần trăm, lông đen tuyền đã đủ
vạch rang giới giữa nó với loài sói. Nhưng sói Ấn Độ, Liên Xô, Mỹ, cổ La
Mã và sói Mông Cổ ngày xưa từng nuôi dưỡng trẻ con. Chẳng lẽ nó không
thích nuôi chó con? Nhưng nếu nó gia nhập đàn sói thì là tai họa cho
những đàn ngựa, đàn bò, đàn cừu. Có thể nỗi đau của nó là cả chó và sói
đều không nhận nó, hoặc giả nó không muốn ngả về bên nào. Trần Trận nhiều
lúc nghĩ, nó quyết không phải chó - sói, chó - sói tuy dữ nhưng tính chó trăm
phần trăm. Có thể nó là loài sói - chó rất ít gặp, hoặc tính nết mỗi thứ
một nửa, hoặc tính sói trội hơn tính chó. Trần Trận chưa hiểu sâu
con Mực. Cậu thấy nên đối xử tốt với nó, dần dà sẽ hiểu nó. Cậu rất
muốn trở thành người bạn của nó. Cậu định bụng sẽ không gọi nó là
"Nhị Lang Thần" mà gọi "Nhị Lang", gọi đúng tên, không thần
thánh gì hết.
Trần Tận cho lũ chó ăn để đợi Dương Khắc và Cao Kiên Trung ngủ dậy. Cậu
cũng vuốt ve con Nhị Lang luôn luôn tỏ ra vô cảm.
0O0
Bốn học sinh cùng lớp ở cùng lều đã hơn một năm. Bốn người: Một mã quan
(chăn ngựa), một ngưu quan (chăn bò), hai dương quan (chăn cừu).
Mã quan Trương Kế Nguyên năng nổ, cẩn thận, cùng Batu và Lanmatrac chăn đàn
ngựa chừng năm trăm con. Ngựa ăn nhiều tốn cỏ, nên phải đi xa để không
tranh ăn với bò, cừu. Vào những nơi thâm sơn cùng cốc xa xôi cách trở,
sói đàn lảng vảng, chen chúc trong lều dã chiến chỉ vừa đủ cho hai người nằm,
đun nấu trên cái lò bằng sắt tây, nhiên liệu là phân ngựa khô, cuộc sống còn
hoang dã hơn sống trong lều Mông Cổ. Công việc của mã quan nguy hiểm và
gian khổ, trách nhiệm thì nặng nề, nhưng mã quan có địa vị cao nhất trong cộng
đồng. Đây là cái nghề đáng tự hào nhất của bộ tộc sống trên lưng ngựa.
Tung thòng lọng bắt ngựa là một nghệ thuật, đẹp và hấp dẫn. Cũng có thể
dùng thòng lọng bắt sói. Mã quan gần như ngày nào cũng dùng đến thòng
lọng để đổi ngựa cưỡi, sửa bờm ngựa, cho ngựa uống thuốc hoặc tiêm chích, kiểm
tra ngựa, luyện ngựa... Mã quan nào cũng rèn luyện kỹ thuật bắt ngựa bằng thòng
lọng. Sử dụng cây sào dài, trên mình con ngựa phi như bay, nhắm chuẩn,
rướn người tung cuộn dây thòng lọng trúng cổ ngựa. Mã quan giỏi hễ tung
là trúng, rất ít khi hụt. Với kỹ năng này mà bắt sói, chỉ cần ngựa chạy
nhanh, cự li gần, có chó săn giúp sức, là có thể tròng trúng cổ sói rồi phóng
ngựa trở về, sói sẽ bị xiết cổ chết, hoặc cho chó cắn chết. Ban ngày, sói
rất sợ mã quan, hễ thấy mã quan cầm thòng lọng là chạy trối chết hoặc nấp trong
cỏ rậm. Trần Trận nghĩ sói sợ ban ngày mà không sợ đêm, có lẽ liên quan
tới chiếc thòng lọng. Chiếc thòng lọng bắt ngựa của mục dân Mông Cổ đã có
lịch sử mấy ngàn năm, thời gian ấy đủ để thay đổi tập tính của sói.
Cây thòng lọng trên thảo nguyên Ơlon là cây thòng lọng đẹp nhất, đắc dụng nhất
và hoàn mỹ nhất mà Trần Trận từng thấy. Nó dài hơn, tinh vi hơn, thực
dụng hơn những cây thòng lọng mà cậu đã thấy trên sách báo phim ảnh của mục dân
nơi khác. Mã quan Ơlon thường tự hào mà khoe caya thòng lọng của họ là
loại cao cấp nhất, lợi hại nhất và đẹp nhất so với toàn Mông Cổ. Thảo
nguyên Ơlon nằm ở phía bắc lưu vực sông Mã Câu nổi tiếng của Mông Cổ, nơi sản
sinh chủ yếu giống ngựa Uchumuxin nổi tiếng (xưa gọi là ngựa Đột Quyết).
Ngựa là bạn, là chiến hữu thân thiết của người Mông Cổ. Cây thòng lọng
bắt ngựa cũng không thể tùy tiện, xấu tốt cũng năm sáu mét đến bảy mét.
Nó thường được ghép bởi hai mảnh bằng gỗ bạch hoa. Trần Trận có lần trông
thấy cây thòng lọng dài tới chín mét. Sào càng dài càng dễ tròng trúng cổ
sói. Thẳng thì như cây trúc không đốt. Muốn thẳng, mã quan bào
phẳng các mắt gỗ, chỗ nào cong thì dùng phân ngựa tươi để hun cho mềm ra, sau
đó nắn thẳng bằng cách ép khít vào một vật phẳng. Đầu cây sào còn cột
omoojt đoạn roi nhỏ dài chừng nửa mét, thô bằng ngón tay, đầu roi nhỏ tết một
cái khuyết bằng lông bờm ngựa, dây thòng lọng luồn qua khuyết đó sẽ không bị
trơn. Dây thòng lọng bắt ngựa là loại dây bền nhất, chịu lực tốt nhất,
không làm bằng những sợi da bò, mà bằng ruột cừu bện như thừng. Đây là
một công nghệ phức tạp, mã quan không tự làm được mà phải mua trên Cung
tiêu. Công đoạn cuối cùng là trộn phân cừu tươi với lông cừu, miết trên
cây sào từ màu trắng chuyển sang màu phân cừu, đợi phân khô, lấy khăn lau
sạch. Lúc này cây sào có màu đồng điếu, giống như một loại vũ khí bằng
kim thuộc thời xưa.
Khi mã quan ngồi trên ngựa nách kẹp cây sào, ngọn sào chúc xuống tự nhiên theo
sức nặng, thòng lọng đung đưa theo nhịp chân ngựa, linh hoạt như con rắn
dài. Lũ sói đều đã từng trông thấy cảnh tượng hãi hùng khi thòng lọng
xiết cổ. Có lẽ trong con mắt sói, chiếc thòng lọng đáng sợ như long
thần. Ban ngày trên thảo nguyên, bất kể lớn bé già trẻ, dù chỉ đi một
mình trên đồng cỏ vắng vẻ hoặc trong thung lũng heo hút, chỉ cần trong
tay có cây thòng lọng là bình yên vô sự. cây thòng lọng coi như một đạo bùa.
Trương Kế Nguyên làm mã quan đã được một năm. Cậu tay nghề kém, thường
tung thòng lọng không trúng. Cậu không thể tự thay ngựa, mà phải nhờ Batu
giúp. Có khi cậu thòng trúng, nhưng trong khoảng khắc khi chiếc thòng
chưa tròng vào cổ con ngựa, cậu không kịp ngồi lùi lại phía mông, để dùng yên
làm vật cản giữ người lại, cây sào liền bị con ngựa giật khỏi tay, chỉ lát sau
cái vật mà cậu mất mấy ngày mới làm ra đó, bị ngựa xéo gãy làm ba khúc.
Cậu thường đến chỗ đàn cừu để luyện khiến đàn cừu chạy tán loạn, có con suýt
trụy thai, ông già Pilich phải có ý kiến mới thôi. Về sau ông già bày cho
cậu tập tung thòng lọng vào chiếc cọc phía sau xe bò, cậu tiến bộ trông thấy,
đã có thể đổi ngựa cho cả ba người, một vấn đề không dễ dàng thực hiện.
Trương Kế Nguyên rất ít khi về nhà, một tháng về tổng cộng một tuần là
nhiều. Về đén nhà là lăn ra ngủ, thức dậy lại kể cho cánh Trần Trận nghe
những chuyện về người, ngựa và sói.
Mã quan có nhiều ngựa tốt, được đi nhiều biết nhiều. Mục trường cấp cho
mã quan bảy tám con ngựa chuyên dụng, còn được sử dụng những con ngựa mới nhập
đàn, ngựa vô chủ. Mã quan gần như thay ngựa mỗi ngày, có khi ngày hai
lần. Mã quan không nương nhẹ con ngựa, hễ lên yên là phóng như điên bất
kể đường ngắn đường dài. Mã quan đến các lều đổi ngựa theo yêu cầu, đưa
thư hoặc chở giúp đồ đạc, mời thầy thuốc, báo tin. Mã quan nhận được
nhiều nhất những nụ cười duyên của các cô gái, khiến các cậu dương quan (chăn
dê) rất hâm mộ, vì các cậu này chỉ được cấp bốn năm con ngựa, còn thông tin thì
mù tịt. Nhưng chăn ngựa là công việc nặng nhọc và nguy hiểm trên thảo
nguyên. Nếu không có những tố chất của loài sói: kiên trì, dũng cảm, khoẻ
mạnh, mưu trí, nhạy cảm, cảnh giác, chịu đói chịu khát, dãi dầu mưa nắng... thì
mục trường không tuyển. Cứ bốn người mà chọn được một mã quan thì đã là
may rồi. Những chuyện về sói Trần Trận thu thập được phần lớn do Trương
Kế Nguyên kể. Mỗi khi về nhà, Trương Kế Nguyên thường được Trần Trận chăm
sóc chu đáo từ cái ăn cái uống. Hai người rất hợp gu trong những chuyện
về sói. Mã quan là những người đứng trên tuyến đầu chiến đấu sinh tử với
sói, nhưng thái độ đối với sói thì rất mâu thuẫn. Trần Trận, Dương Khắc,
Trương Kế Nguyên thường trò chuyện tới khuya, đôi khi tranh luận không
dứt. Trương Kế Nguyên bao giờ cũng trở về với đàn ngựa hơi muộn.
Cậu mượn của Trần Trận vài quyển sách đọc cho đỡ buồn.
Cao Kiện Trung chăn hơn một trăm bốn mươi con bò. Chăn bò là công việc thoải
mái nhất trên thảo nguyên. Người Mông Cổ có câu: ngưu quan sướng hơn
huyện quan. Đàn bò đi sớm về muộn, thuộc đường ra bãi, nhớ đường về
nhà. Bê con buộc thành hàng vào sợi thừng tết bằng lông bờm ngựa trước
lều, bò mẹ về cho con bú rất đúng giờ. Chỉ lũ bê choai là đáng phàn nàn
đôi chút. Đâu có cỏ non là chúng chạy đến và sau đó không thích trở
về. Vất vả nhất là đi tìm bò lạc và đuổi bò về. Một con bò khi đã
nổi khùng thì gân cổ lên, mắt trợn trừng, ỳ ra không chịu bước, những muốn đập
cho một trận. Ngưu quan có nhiều giờ rỗi, cần giúp việc gì có thể nhờ
họ. Mông Cổ mà không có bò thì rất vất vả. Kéo xe, dời nhà, cho
sữa, các món ăn bằng sữa bò, thịt, da, phân, tất cả trông vào con bò. Dân
tộc trên lưng ngựa, tất yếu gia đình trên lưng bò. Ngưu quan, mã quan,
dương quan ba loại công việc gắn với nhau như một chuỗi xích, không thiếu được
khâu nào.
Trần Trận và Dương Khắc cùng chăn đàn cừu hơn một ngàn bảy trăm con, hầu hết là
giống cừu đuôi to nổi tiếng của vùng Ơlon, khu đuôi to như cái đĩa cỡ trung
bình, mỡ màu trắng đục, ròn mà không ngấy, thịt thơm mà không có mùi hôi.
Ông Ulichi nói: Cỏ ở Ơlon tốt nhất so với cỏ các nơi trong khu vực, mà cừu Ơlon
cũng là giống cừu tốt nhất, xưa kia là cừu tiến vua, là món thịt cừu mà Hốt Tất
Liệt sau khi tiến vào Bắc Kinh đích thân tuyển chọn. Ngày nay khi lãnh
đạo nhà nước tiếp nguyên thủ các nước A Rập theo đạo Islam đều chọn cừu
Ơlon. Nghe nói nguyên thủ các quốc gia đó thường bỏ bê việc nước để đến
thăm xứ sở của loại cừu này. Trần Trận nghĩ, sói Ơlon cao lớn lạ thường,
đầu óc tính toán nhanh hơn người, có thể là do ăn thịt cừu Ơlon. Trong
đàn cừu có những con lai giống Tân Cương với giống bản địa, lông mịn, cho len
tốt, sản lượng cao gấp ba bốn lần cừu nội, nhưng thịt nhão, không thơm, dân du
mục không thích ăn. Rồi đến sơn dương, số lượng rất ít, chiếm khoảng 1/30
đàn cừu. Tuy sơn dương ăn cỏ cả rễ phá hoại đồng cỏ, nhưng bộ lông rất
được giá, hơn nữa, những con sơn dương thiến sừng nhọn rất dũng cảm, dám quần
nhau với sói. Đàn cừu nào mà có sơn dương là có thể chống lại sói
độc. Do vậy, đàn cừu Mông Cổ thường là do vài chục con sơn dương làm
nhiệm vụ đầu đàn. Sơn dương nhớ bãi chăn, nhớ đường về, lại dám tự quyết,
gặp cỏ ngon là cho đàn dừng lại ăn, cỏ không ngon thì dẫn đàn đi nơi
khác. Sơn dương còn một ưu điểm nữa so với cừu. Đó là khi bị sói
công kích, chúng be rầm lên và chạy lung tung, mục đích là báo động cho cả
đàn. Còn cừu thì bị cắn thủng bụng mà vẫn im như thóc không dám be một
tiếng, mặc cho sói xé xác. Trần Trận nhận thấy dân du mục Mông Cổ rất
giỏi lợi dụng sở trường các các loài vật trên đồng cỏ, nhằm mục tiêu hại ít lợi
nhiều.
Hai cậu dương quan, một chăn ban ngày, một gác đêm. Ngày công, ban ngày
mười điểm, ban đêm tám điểm, hai người luân phiên hoặc đổi phiên cho nhau,
người này đi vắng thì người kia làm thay. Nếu chó tốt thì gác đêm vụ xuân
có thể ngủ đẫy giấc. Nhưng ba vụ sau là du mục, không có chuồng xây để
chăm sóc cừu con như vụ xuân, chỉ dùng xe bò, hàng rào tạm và thảm quây thành
hình bán nguyệt, hoàn toàn không ngăn nổi sói, nếu nạn sói nghiêm trọng thì
đúng là khổ sai, suốt đêm đừng hòng chợp mắt, cầm đèn pin lượn quanh chuồng,
quát tháo khản cổ lũ chó. Ông Ulichi nói: Trực đêm chủ yếu là phòng sói,
hàng năm công điểm trực đêm bằng 1/3 tổng số công điểm của mục trường. Đó
chính là khoản chi rất lớn về sói. Trực đêm là công việc chính của phụ nữ
Mông Cổ. Phụ nữ ban đêm trực, ban ngày làm việc nhà, rất ít khi ngủ đẫy
giấc. Người ban ngày làm lụng, sói ban đêm quậy phá; người khốn đốn, sói
hung hăng. Sói thảo nguyên quậy phá đến nỗi con người ăn không ngon ngủ
không yên. Sói đánh gục từng gia đình, từng thế hệ phụ nữ. Do vậy,
các nữ chủ nhân thường ốm đau, chết yểu. Nhưng cũng có nhiều người có sức
khoẻ, trụ vững. Sói thảo nguyên sinh sản quá nhanh, còn người thì không
thể tăng trưởng nhanh trên quy mô lớn. Do đó xưa nay chưa hề xảy ra nạn
nhân mãn mà chỉ có chuyện khai khẩn đất hoang để có cai ăn. Chính là sói
đã khống chế sự phát triển dân số trên thảo nguyên.
Đàn cừu là nền tẳng của nghề chăn nuôi trên thảo nguyên. Nuôi cừu để có
thịt ăn, có áo mặc, có phân khô để đun nấu, thu nhập hai công điểm một con, bảo
đảm cuộc sống nguyên thủy của người thảo nguyên. Vậy mà cuộc sống của
người chăn cừu tẻ nhạt, mòn mỏi và tù túng, từ sáng tới đêm một mình với đàn
cừu trên đồng cỏ ngút mắt hoặc tuyết trắng. Từ trên cao nhìn ra, vài chục
dăm vuông không một bóng người. Không có người để chuyện trò, có sách
không dám đọc chăm chú, vì phải coi chừng sói tập kích. Ngày nào cũng cảm
thấy mình như Tô Vũ chăn dê, cô đơn thui thủi, con người khác gì cỏ dại.
Cảm giác này đuổi không đi, vì nó đã thấm sâu vào xương tủy. Trần Trận
thường cảm thấy mình đã già, rất già, già hơn cả Tô Vũ. Ngàn năm nay thảo
nguyên không hề thay đổi, con người vẫn sống cuộc sống du mục nguyên sơ, vẫn
đang tranh giành miếng ăn với sói, quyết liệt và bất phân thắng bại. Trần
Trận cảm thấy mình như người vượn Bắc Kinh, kẻ thù là sói. Nếu như một
ngày nào đó Tô Vũ tay cầm gậy trúc, hoặc người vượn quấn tấm da thú xuất hiện
trước mặt, thì cậu cũng không lấy làm lạ. Có thể trong câu chuyện giữa họ
với nhau, đầu đề vẫn là sói. Thời gian trên thảo nguyên Ơlon đọng lại như
hóa thạch. Cái gì đã giữ nguyên bộ mặt của thảo nguyên từ thời viễn cổ,
không mảy may thay đổi? Phải chăng là sói?
0O0
Với Trần Trận, chăn cừu là công việc rất có lợi. Cậu có thì giờ một mình
nghiền ngẫm, cho đôi cánh của tư tưởng tự do bay lượn. Hai hòm sách to
tướng đem từ Bắc Kinh về, lại thêm một hòm sách lịch sử và sách cấm có chọn lọc
của Dương Khắc, cậu có thể tiêu hóa tất cả số sách bằng cách nhai lại của con
cừu. Ban đêm, cậu ngốn sách kinh điển như cừu ngốn cỏ; ban ngày cậu ngốn
tinh hoa văn hóa Trung Quốc và nước ngoài. Cậu nghiền ngẫm, suy từ, coi
sách voẻ khô khan như cỏ non đầy nhựa. Ban ngày chăn cừu, cậu thường dành
nhiều thời gian cho suy nghĩ, cậu chỉ đọc lướt, chỉ khi chắc chắn không có sói,
cậu mới đọc thật sự. Chẳng lẽ như lời ông già Pilich: Phải hiểu thảo
nguyên, hiểu người Mông Cổ thì mới hiểu được sói! chẳng lẽ thảo nguyên
ngàn vạn năm vẫn giữ nguyên bộ mặt, dân tộc thảo nguyên không thể phát triển
thành dân tộc lớn, liên quan tới sói? Cậu cho là có thể như thế.
Chỉ ít sự tấn công của sói đã gây ra những tổn thất có thể tính đếm cũng như
không thể tính đếm cho mục trường, khiến sự nghiệp chăn nuôi và sự nghiệp con
người không thể tích luỹ nguyên thủy, khiến người và gia súc dừng lại ở trình
độ tái sản xuất giản đơn, duy trì nguyên trạng trình độ nguyên thủy, không thể
dôi ra nhân lực và tài lực để phát triển mậu dịch, thương nghiệp, nông nghiệp,
càng không thể phát triển công nghiệp. Những vấn đề mà sói can dự rất
rộng và rất sâu. Vậy mà hiểu được sói thì khó quá. Người ở chỗ
sáng, sói trong bóng tối. Tiếng tru của sói có thể nghe thấy từ xa mà
không thể lại gần. Trần Trận rất muốn nuôi một con sói nhỏ ngay bên lều
để cậu ngày đêm quan sát từ lúc còn nhỏ tới lúc lớn.
Cậu lại nghĩ tới con sói cái tha con cừu non đi đâu, và ổ sói con ở chỗ nào?
Hôm ấy sau khi quan sát đàn cừu một lượt thấy không có gì, cậu bèn nằm ngửa
trên bãi cỏ ngắm con chim ưng đang bay lượn trên trời xanh. Thấy đàn cừu
có vẻ xôn xao, cậu bật dậy trông thát một con sói lớn xông vào giữa đàn cừu
ngoạm lấy gáy một con cừu non hất lên vai, chạy dọc theo khe về phía Núi Đen,
thoáng cái đã mất hút. Cừu non thường hay kêu, tiếng kêu lảnh lói.
Chỉ cần nghe tiếng kêu của con cừu non là xảy ra phản ứng dây chuyền, hàng trăm
con cừu non và cừu mẹ kêu đinh tai nhức óc. Nhưng con sói ngoạm vào gáy,
khiến họng con cừu không phát ra thành tiếng, rồi sói mẹ lẳng lặng rút lui,
khiến hầu hết những con cừu không biết đã xảy ra chuyện gì, có thể cừu mẹ cũng
không biết đã mất con. Nếu Trần Trận không tinh mắt và cảnh giác cao thì
chiều về điểm lại số cừu mới biết. Trần Trận kinh hoàng như đụng phải một
phi tặc vào loại cao thủ, thó túi tiền ngay trước mũi cậu.
Khi đã bình tĩnh, Trần Trận cưỡi ngựa đến chỗ con sói bắt cừu non. Cậu
nhìn thấy trong bụi cỏ rậm có một cái hố, cỏ trong hố bẹp đi. Rõ ràng là
con sói nằm phục tại đây từ lâu chứ không phải chạy từ đâu tới, nếu chạy đến
thì cậu đã nhìn thấy. Trần Trận nhìn mặt trời, nhẩm tính con sói đã phục
ở đây hơn ba tiếng đồng hồ. Chỉ sói mẹ mới bắt cừu non trong mùa này, nó
dùng con mồi còn sống để dạy con. Và cũng là để cho các con ăn vì chúng
đang cai sữa. Thịt cừu non dễ tiêu.
Trần Trận rất căm con sói, nhưng cậu thấy vãn còn may. Gần đây cậu và
Dương Khắc cứ hai ba hôm lại mất một cừu non, các cậu nghi cho chim ưng hoặc
đại bàng bắt. Loại giặc nhà trời này nhanh như chớp lao xuống quắp lấy
một con cừu non rồi bay vút lên cao. Nhưng khi chúng bổ nhào thì đàn cừu
kinh hãi chạy tán loạn, các cậu không thể không biết. Vì vậy, các cậu
không hiểu cừu non vì sao mà mất? Cho đến khi mục kích con sói dùng kỹ
xảo bắt cừu và trông thấy cái hố, Trần Trận mới vỡ nhẽ. Nếu không, con
sói cái còn tiếp tục bắt trộm.
Mặc cho mọi người nhắc nhở, Trần Trận vẫn để xảy ra sai sót. Binh vô
thường pháp, sói thảo nguyên rất giỏi tùy cơ ứng biến, sử dụng rất nhiều đấu
pháp. Sói không có cánh nhưng cứ như từ trên trời rơi xuống, khiến anh
trơ mắt ếch, không khôn cũng phải khôn ra.
Trần Trận vuốt ve con Mực, nó không tỏ vẻ hàm ơn.
Tuyết rơi, Trần Trận chui vào trong lều cùng Dương Khắc, Cao Kiện Trung uống
trà, ăn thịt hun, ăn đậu phụ của Caxumai cho, bên bếp lò đun bằng phân
ngựa. Trần Trận lại thuyết phục Dương Khắc và Cao Kiện Trung cùng cậu đi
bắt sói con. Phải nuôi một con để có sự hiểu biết về sói, biết địch biết
ta.
Cao Kiện Trung nướng thịt bên bếp lò, mặt ỉu xìu, nói: Bắt sói con đâu phải
chuyện đùa. Cách đây mấy hôm, các anh Lanmutrac hun khói một hang
sói. Sói mẹ liều chết chống lại, suýt cắn đứt cánh tay Lanmutrac, ba bốn
mã quan, ngưu quan cùng bảy tám con chó xúm lại mới tóm được con sói. Cái
hang sâu quá, họ thay phiên nhau đào hai ngày mới thấy sói con. Cừu mẹ
bênh con dám húc người, sói mẹ bảo vệ con dám chết bỏ. Chúng mình không
có súng, chỉ dùng xẻng và roi ngựa thì làm sao đánh lại? Đào hang sói đâu
phải việc nhẹ, lần trước tôi đi cùng Tang Kiệt, đào hai ngày mà vẫn chưa tới ổ,
cuối cùng đành hun khói rồi lấp hang, không hiểu sói con có chết không?
Tang Kiệt bảo, sói mẹ biết bị khói, trong hang có lỗ thông hơi ngầm. Sói
thường xuyên di chuyển chỗ ở. Mục dân bắt sói con mà khó như thế, không
hiểu chúng mình có làm nên trò trống gì không?
Dương Khắc trái lại rất vui. Cậu bảo Trần Trận: Tớ sẽ đi với cậu.
Tớ có một cây gậy sắt, đầu vát nhọn như mũi giáo, đảm bảo gặp sói mẹ chiến đấu
được. Lại có cả dao quầm, giá gỗ có chân. Giờ mà đánh bắt được một
con sói gộc thì chúng ta tha hồ mà vênh váo!
Cao Kiện Trung trêu: Lại một tấc đến trời rồi! Cẩn thận kẻo sói biến cậu
thành "nhắm lại anh hùng có một người" - anh chột, thành chó dại, à
mà không, thành sói điên thì rầy rà to!
Dương Khắc lắc đầu: Không sao, tớ cao số, hồi vũ đấu ở trường, tổ tớ có năm
người thì bốn thằng bị thương, chỉ mỗi mình tớ là không việc gì. Vì sao
người ta cứ lo sợ vẩn vơ thế nhỉ? Người Hán như cậu mới để cho dân du mục
vào chiếm trung nguyên! Lanmutrac bảo tớ là cừu ăn cỏ, anh ta là sói ăn
thịt. Ta mà bắt được sói con thì Lanmutrac không gọi ta là "đồ con
cừu" nữa! Tớ dám lấy một mắt để đánh cuộc!
Trần Trận nói: Được rồi, nói lời thì phải giữ lời, không được bỏ cuộc đấy nhé!
Dương Khắc dằn chén trà lên mặt bàn, hỏi: Khi nào đi? Đi càng sớm càng
tốt. Để muộn thì có khi mục trường điều chúng mình đi vây ráp đàn
sói. Với lại, mình cũng thích công việc này lắm.
Trần Trận đứng lên nói: Vậy thì ăn xong đi luôn, phải trinh sát trước.
Cao Kiện Trung quệt mép, nói: Được, lại phải nhờ Quanbu chăn cừu hộ, vậy là bọn
mình mất một ngày công.
Dương Khắc nói khảy: Lần kéo về một xe đầy ắp dê thì được bao nhiêu công điểm.
Cậu keo kiệt thế?
Cao Kiện Trung và Dương Khắc đang chuẩn bị yên cương chợt thấy Bayan cưỡi con
ngựa lông vàng chạy tới nói ông Pilich muốn gặp Trần Trận. Trần Trận nói:
Bố già chắc có chuyện quan trọng. Dương Khắc nói: Chưa chắc đã phải
chuyện vây ráp, cậu đi ngay đi, nhân tiện hỏi cách nào bắt sói con.
Trần Trận lập tức lên yên, Bayan thấp bé không lên ngựa được ở chỗ đất
bằng. Dương Khắc định bế Bayan lên yên nhưng cậu bé không chịu. Cậu dắt
ngựa tới bên cỗ xe bò, trèo lên xe, lồng chân vào bàn đạp rồi nhảy lên
ngựa. Hai người ra roi cho ngựa phi nước đại