Thứ Sáu, tháng 12 21

Ngô tất tố (VIỆC LÀNG) MỘT TIỆC ĂN VẠ

Hôm ấy nhằm phiên chợ Đình, cái chợ mà cả làng Đ.G. đều  sống về nó. Tôi đi đến đầu làng ấy giữa lúc người làng đi chợ  đương đông. Quái lạ! Làm sao hôm nay không có đàn ông, trên  đường rặt những đàn bà. Kẻ gồng rau, người gánh gạo, bà này  gồng chiếc lồng lợn, bà kia quẩy đôi lồng gà, hết lũ dài dến lũ  ngắn, người ta tiếng to tiếng nhỏ, nhao nhao nói chuyện với nhau.

- Khốn nạn! Trông thấy tình cảnh ông Sửu mà tôi thương  quá. Hôm qua đến giờ, bà vợ lúc nào nét mặt cũng ủ rầu rầu, ông  chồng chỉ nằm thở dài, có lúc đấm mãi hai tay vào ngực, hàm răng  nghiến lại kèn kẹt...

Bà ấy còn định nói nữa, nhưng bị bà khác cướp lời: 

- Tôi cũng ái ngại cho ông ấy. Tội nghiệp! Cả vợ lẫn chồng ai  cũng hiền lành biết điều, thật thà như đếm. Không hiểu cớ gì lại bị  nhiều người ghét bỏ đến thế? Phen này không khéo hết cả cơ nghiệp!

Một bà thứ ba nói xen: - Các bà là bậc nhân đức từ bi, các bà cứ thương ông ấy.  Riêng tôi, tôi chẳng thương một chút nào!... Anh em ít, cánh vế  không có, thế mà vẫn không biết thân, lại còn cứ bướng, thì ai người ta để cho yên lành!

Lại một bà nữa tiếp theo:

- Phải, bà nói phải đấy! Mình ở trong làng, sống nhờ làng,  chết nhờ làng. Cái người đã dám vác miệng chửi làng, thì bị trừng  trị là đáng kiếp lắm. Hơi đâu mà thương.

Rồi một bà nữa cãi lại: - Các bà đừng nói thế, oan cho ông ta! Chẳng qua ghét nhau  thì họ gắp lửa bỏ vào bàn tay... chứ đời nào ông ấy dám động đến  làng. Luôn mấy năm nay, hết người này ăn hiếp, lại đến người kia  đè lấn, ông ấy vẫn nhịn như nhịn cơm sống, có dám bướng bỉnh với  ai đâu! 

Còn nữa! Làn sóng dư luận còn kéo dài mãi ở dọc đường. Nhưng nó mỗi lúc mỗi theo những gánh gà lợn, rau gạo đi xa dần,  nên khi bay lại tai tôi, không còn rõ là tiếng gì nữa. Cố nhiên tôi  không có ý nghe chi những chuyện giữa trời, nhưng vì nó đã ngẫu  nhiên lọt vào tai, tôi cũng ngẫu nhiên bận óc vì nó. "Chắc là trong  làng đã có người nào bị đánh bị trói gì đây". Với câu phỏng đoán đó  vơ vẩn trong óc, tôi lững thững đi vào cổng làng. Người làng ở  trong các xóm, lũ lượt kéo ra con đường giữa làng, già có, trẻ có,  con nít cũng có. Trái lại với quang cảnh của đoạn đường lúc nãy, ở  đây rất nhiều đàn ông, thỉnh thoảng mới có một người đàn bà. Với  những tiếng cười cười, nói nói, vui như đám hội, người ta đổ xô về  nẻo cuối làng. Xen lộn vào sự xôn xao của đám đông người, ở trong  các xóm, lại có tiếng lợn eng éc. "Không phải là chuyện đánh nhau,  trói nhau, có lẽ người ta sắp sửa có cuộc ăn uống. Phải rồi, hôm  nay đàn ông vì bận ăn uống, nên mới nhường hết quyền đi chợ  Đình cho bọn đàn bà, đoạn này toàn là đàn ông", tôi vừa cải chính  cái câu của tôi phỏng đoán mới rồi, vừa im lặng đi theo một con  đường với lũ người ấy. Và tôi đã từ biệt họ khi đến khỏi đình: họ đi  tấp nập kéo vào điếm đình, thì tôi rẽ sang nhà Khóa Trúc, người  bạn đồng học với tôi năm xưa. Bởi vì chúng tôi có hẹn trước nên  lúc ấy anh Trúc đương vơ vẩn đón tôi ở chỗ đầu ngõ. Đường đi tuy  rằng hơi xa, nhưng nhà anh này lại ở kề với sân điếm và chỉ cách  khu điếm một bức rào bằng găng tây. Vào ngồi trong nhà anh ấy,  tôi còn thấy rõ hết thảy cảnh tượng trong điếm. Cái điếm rộng quá! 

Ngoài một tòa chính ở giữa lại có hai tòa giải vũ kèm ở hai  đầu, mỗi tòa độ bốn năm gian. Đám người lúc nãy lần lượt tiến vào  đến cửa điếm. Các ông già và người cao tuổi lên thẳng tòa chính,  còn người ít tuổi và đám con nít thì xuống hai tòa giải vũ. Giây lát,  ba bọn đàn ông lực lưỡng khiêng ba con lợn bị trói đặt vào trước sân, và một lũ người khác đài tải tới đó đủ hết các thứ: bát, đĩa,  dao, thớt, rổ, rá và nồi ba mươi. Rồi đó, bọn này bắc nồi đun nước,  bọn kia đè lợn chọc tiết. Bắt đầu câu chuyện, tôi phải hỏi ngay anh  Trúc:

- Đám ấy là đám gì, đám gì mà có đủ từ ông bạc đầu đến lũ  trẻ con!

Anh Trúc mỉm cười đáp: 

- Đó là một đám ăn vạ!

Rồi vừa pha nước, anh ấy vừa tiếp: 

- Cái tục ăn vạ, thiên hạ cũng nhiều nơi có. Nhưng mà có lẽ  không đâu nặng bằng làng tôi. Bởi vì theo lệ làng tôi, quyền hành  của bốn "trùm nhất" lớn lắm, bao nhiêu công việc trong làng đều  do bọn họ quyết định, lý dịch cũng phải theo họ. Người nào cưỡng  lại với họ, ấy là họ sẽ tìm cách ăn vạ. 

Như đã thấy tôi không hiểu  "ăn vạ" là gì, anh Trúc uống cạn chén nước rồi thêm:

- Chắc anh chưa được chứng kiến cuộc ăn vạ nào thì phải! Có  gì đâu, người nào có lỗi với "làng" thì "làng" cứ việc mua lợn, mua  rượu, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao nhiêu, người  có lỗi đó phải chịu. Hôm nay họ ăn vạ lão Sửu. Tội nghiệp! Lão ấy  hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ vì nhà đã lép vế, lại có  bát ăn, một hôm một ông trong bốn ông "trùm" đến nhà hỏi vay  gánh lúa, lão ta đi vắng, mụ vợ chối là không có, ông trùm kia lấy  làm thù, cách vài hôm sau hắn mượn việc làng sinh sự cãi nhau  với lão ấy, rồi hắn vu cho lão ta chửi làng và đem chuyện đó trình  "làng". "Làng" là bọn đó chứ có ai đâu! Chúng với hắn cũng như  một đào một kép, cho nên khi thấy hắn trình, chúng liền hùa nhau  bắt vạ lão Sửu.

Anh Trúc rót chén nước nữa cho tôi, rồi tỏ vẻ ái ngại: 

- Cuộc ăn vạ này, chúng làm hại lão ta đến hơn trăm bạc. Bởi  vì chúng ăn to lắm, ăn suốt từ trên đến dưới. Những đứa con nít  toét mắt, ỏng bụng mà anh thấy đó, cũng đều được ăn tất cả.  Chúng nó cũng là "làng". Hễ ai là "làng", hôm nay đều được ra ăn,  chỉ trừ đàn bà và những trẻ con ẵm ngửa.

Tôi vẫn chưa hiểu: 

- Thế thì những tiền mua lợn, mua rượu, mua gạo đó ai ứng  ra cho làng?

Anh Trúc trả lời: 

- Chẳng ai phải ứng hết thảy, họ đi mua chịu tất cả. Mà hễ  họ đã hỏi mua, thì ai cũng bán. Bởi vì bán chịu cho "làng" như thế,  sau này có thể tính với khổ chủ một giá rất cao và tính bao nhiêu,  khổ chủ phải trả bấy nhiêu, không được bớt xén một đồng nào hết.

- Nếu như khổ chủ không chịu thì sao? 

- Khổ chủ không chịu thì họ phải lấy tiền làng mà chi. Nhưng rồi họ sẽ họp làng tại đình, đóng chiếc đinh cù vào cột đình  và phát thệ rằng: "Nhà ấy đã không thèm tuân lệ làng, từ sau trở  đi, những lúc làng có ăn uống, không ai được ngồi với người nhà  ấy, và rồi nhà ấy có người nào chết, bất kỳ đàn ông, đàn bà, họ xa,  họ gần, làng sẽ không khiêng". Ở thôn quê, cái người lúc sống không ai ngồi với, lúc chết làng không khiêng cho, là người cực  nhục, sống cũng như chết. Vì vậy từ xưa đến nay, họ đã ăn vạ  người nào, người ấy cứ phải bán nghiệp mà trả. Không ai dám bướng.

Anh ta đương nói, thì ở bên điếm, có tiếng nói lớn:

- Thưa "chạ"! Hôm nay từ trên già lão đến dưới trai đinh, tất  cả hơn hai trăm xuất, ăn ba con lợn có lẽ không đủ, xin "chạ" cho  bắt thêm một con nữa.

Thế rồi, một lúc sau, lại nghe có tiếng lợn kêu. Cuộc ăn uống  linh đình mãi đến quá trưa mới tan. 

Chiều hôm ấy, tôi còn ở đó, đã  có tin nói lão Sửu thắt cổ chết ở trong nhà, lý dịch còn đi khất  quan về khám. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét