Chủ Nhật, tháng 4 28

HÀNH TRÌNH NGÀY THƠ ẤU (truyện dài ) Chương 8

VÀ NHỮNG LO TOAN KHÔNG TÍNH TRƯỚC

Ngày mai mình sẽ sống như thế nào đây? Mình sẽ trở thành cái gì? Mình sẽ làm gì…
Trên đường về, những câu hỏi quay cuồng trong óc. Dẫu sao, tôi cũng đứt ruột khi rời bỏ cái cồng trường đồ sộ, cả hai cánh lớn quay cọt kẹt trên ổ trụ và một tán phượng vĩ xanh mướt che bên trên. Dẫu sao, tôi cũng đau lòng khi nhìn từng tốp học sinh ngược tới trường. Tôi thèm muốn số phận của họ biết bao. Đứa học trò kém cỏi nhất, láo lếu nhất, đội sổ hoặc lưu ban cũng còn sung sướng gấp ngàn lần tôi bây giờ. Dẫu dốt nát và lười biếng, nó vẫn có quyền bước vào lớp, nơi ngày ngày trên tấm bảng đen diễn ra một phương trình toán mới, một phản ứng hóa học mới, một định luật vật lý mới, một bài thơ hay một bài văn mới. Đứa học trò hư hỏng nhất cũng có quyền bước vào phòng thí nghiệm, nơi trong bóng tối chúng tôi hồi hộp ngước nhìn bộ xương thạch cao hay bức tranh vẽ con khủng long thời cổ đại. Đứa học trò tồi tàn nhất cũng có quyền cầm chiếc vợt mút của tôi, đánh bóng trên chiếc bàn tôi quen từng vết nứt, hái hoa trong bồn hoa trước cửa văn phòng… Đám học sinh đông đúc và sung sướng kia tới trường. Còn tôi, tôi trở về nhà với cuốn học bạ đen kịt. Lòng tủi hổ, tôi không dám đi đường lớn tôi rẽ xuống con đường nhỏ băng qua cánh đồng.
Về phố, tôi lang thang thơ thẩn chơi ở các cửa hàng. Tôi không muốn về nhà. Từ ngày tôi tuyệt thực, mẹ tôi không đánh tôi nữa. Nhưng mẹ không nhìn tôi và nói với tôi một câu. Sự im lặng của mẹ khiến tôi cảm thấy tôi đã chết rồi. Tôi đã chết thật.
Tôi là đứa con hư, là học trò bị đuổi, tôi không xứng đáng là con cô giáo Hạnh…
Đang đứng, tôi chợt nhìn thấy một đám đông trước cửa nhà cai Cân. Chắc có chuyện gì… - Tôi nghĩ.
Ở thị trấn, hễ có sự lạ là người ta xúm lại vòng trong vòng ngoài. Trước đây mẹ tôi dặn phải lảng tránh những đám đông hiếu sự, tò mò đó. Người bây giờ, buồn chán nên tôi tới xem. Tới nơi, chưa chen chân vào đám đông được, tôi lại gặp ngay Cóc tóc đỏ. Cóc tóc đỏ là đứa con gái kém tôi một tuổi, con ông gác chợ. Vì mặt nó bị mụn, sần sùi từ nhỏ nên bố nó đặt luôn tên là Cóc. Cóc học dốt quá, nên đúp ba năm mà không lên nổi cấp hai. Ông bố liền bắt nó thôi học ở nhà giúp bố gác chợ, thu thuế đám hàng rong. Ngoài ra, nó xếp chỗ bán lấy tiền. Cửa hàng thịt, hàng mậu dịch nào Cóc cũng đặt hàng chục hòn gạch, rổ cá, nón rách, mũ mất chóp… để giữ chỗ từ tối hôm trước. Hôm sau người ta tới xếp hàng mua thực phẩm thì Cóc bán lại chỗ cho. Chỗ tốt một hào, chỗ kém hơn năm xu. Làm cái nghề kỳ quặc thế nên con bé nổi tiếng là đanh đá, láo xược. Nó sẵn sàng chửi nhau tay đôi với một bà già hoặc cởi trần đánh nhau với một thằng bé mười ba, mười bốn tuổi. Suốt ngày phơi nắng nên da Cóc đã đen lại càng giống như nhọ chảo. Tóc đỏ xác xơ như lông bò. Những mụn thịt ở mặt ngày càng dày chi chít và to thêm Cóc tóc đỏ là hình ảnh quái gở nhất mà các bà mẹ thường đem ra dọa đám con trai. Đứa nào nho nhoe, bướng bỉnh là bị cảnh cáo:
- Mày liều liệu không tao cưới con Cóc tóc đỏ cho đấy…
Các cậu con trai dù ương ngạnh mấy cũng phải nhũn như chi chi ngay.
Vậy mà đối với tôi, Cóc lại tỏ ra tử tế. Không hiểu sao, nó chuyên gọi tôi là chị, xưng em một cách ngon lành mặc dù bình thường nó cứ mày mày tao tao với đám thiếu nữ mười lăm, mười bảy. Có lần, tôi ra chợ mua thịt, Cóc sấn sổ gạt mọi người, giành chỗ tốt nhất cho tôi. Mua xong, tôi dúi vào tay Cóc năm xu và bảo:
- Cám ơn nhé.
Cóc tóc đỏ lập tức trợn mắt lên:
- Sao chị coi khinh em thế? Em với chị mà lại ngửa tay nận năm xèng hay sao?
Rồi vỗ bộp vào túi quần, nó nói:
- Em mời chị một bát tái bò, phở nhà Hoi ngon lắm…
Tôi vừa lắc đầu từ chối thì Cóc tóc đỏ đã nắm tay tôi kéo đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò vì kinh ngạc của mọi người…
Bây giờ, nó đang đứng trên hè, kể cho tôi nghe vụ xung đột nhà cai Cân:
- Chị biết không? Lão cai Cân vừa đánh mụ vợ kế đấy. Hai thằng con trai lão cũng nhảy vào đánh hôi. Công an tóm lão lên đồn. Còn hai thằng ranh bị em trai bà Lưu tát tai cho đang la lối om sòm trong sân…
- Nhưng vì sao lão đánh cô Lưu chứ? Vừa cưới nhau được hơn một tháng mà!...
- Vàng, vàng… Tiền, tiền… Từ đó mà ra cả…
Cóc tóc đỏ cong môi, khua hay tay như người rao bán dầu cù là. Vẻ mặt nó hăm hở và tức tối, đúng tính cách của một đứa trẻ quá quan tâm và làm quen với đồng tiền:
- Chị hiểu không, lão cai Cân lừa mụ vợ kế ngon ơ. Hồi cưới, lão xui mụ bán nhà về ở với lão. Thu được sáu lạng vàng và một cục tiền, lão bảo vợ đem chung vốn buôn thuốc phiện với cánh Hà nội. Mụ vợ nghe ngọt nhạt gật đầu. Thế là lão tuốt về quê. Tuần sau, lão trở về bảo đã bị lừa hết. Mụ vợ phát điên rồ kêu la, lão nện liền…
Tôi đứng lặng người. Thế là Loan bắt đầu cơ cực. Nỗi lo buồn không thể đo đếm, những tai ương không thể tính trước, người xưa nói đúng thật.
Cóc tóc đỏ thấy tôi im lặng, giơ tay lên:
- Em mà như vậy ấy à?... Em sẽ róc xương lão ra cho tới khi lão trả đủ số vàng đó…
Lúc đó một bà già cao lòng khòng đứng bên kia đường gọi to:
- Con bé trời đánh kia, bố mày hét ầm cả nhà lên kia kìa…
Cóc tóc đỏ nhướng cổ đáp:
- Rõ rồi, thưa bà…
Nó chào tôi rồi biến mất. Tôi đứng suy tính hồi lâu, quay lại, tìm quán nước chè quen, vào ngồi chờ Loan đi học về. Ỏ quán nước đó cũng như mấy quán bên cạnh, đâu đâu người ta cũng xôn xao bàn tán vụ đánh lộn ở nhà cai Cân. Nhân cớ đó, người ta lục tìm quá khứ mờ ám của lão, từ những vụ mua bán lừa đảo tới việc chạy chọt xin giấy mở cửa hàng chạy nước đá bán lẻ. Tôi ngồi nghe chuyện vặt đó cho tới gần trưa Loan hạt mít mới về. Tội nghiệp, nó đi thui thủi một mình giữa những tốp học sinh vui vẻ. Ngày thường, bao giờ chúng tôi cũng cặp kè nhau như đôi cá thờn bơn. Loan bảo tôi:
- Tối nay bố Thế đến nhà đằng ấy đấy. Buổi sớm bố ở Ty giáo dục về thì đằng ấy đã đi rồi…
Tôi biết rằng bố Thế thương tôi. Nhưng tôi không muốn gặp mặt bố nữa. Vì tôi bố đã phải chống đỡ và sẽ còn gặp nhiều sự phiền hà. Tôi không thể nào nhìn gương mặt chất phác và nhân hậu của bố, khi gương mặt đó nặng trĩu những nỗi lo buồn. Tôi bảo Loan:
- Mình không về nhà đâu.
Loan chưa kịp hỏi, tôi đã nói tiếp:
- Còn đằng ấy cũng có chuyện cần phải nghĩ đấy. Ta tìm chỗ vắng rồi tớ sẽ kể lại đầu đuôi.
Nhìn vẻ mặt tôi, Loan ngoan ngoãn phục tùng. Chúng tôi chui vào một ngõ hẻm có ngôi chùa cổ để tránh đám học sinh tan trường đang tiếp tục diễu qua. Ở đó, dưới một tán bàng xanh um, tôi kể cho Loan biết vụ xung đột tại nhà cai Cân, biết mẹ Loan hiện đang nằm bệnh viện, biết tình thế của Loan hiện tại. Sau cùng, tôi bảo:
- Đằng ấy về thẳng nhà mình. Buổi chiều, mẹ mình sẽ đưa về nhà cai Cân lấy quần áo. Có đằng ấy ở với mẹ, mình sẽ yên tâm. Mà đằng ấy sẽ bớt khổ sở.
Loan im lặng. Tôi biết nó sẽ ưng thuận hoàn toàn. Lát sau, cô bạn ngước nhìn tôi, hỏi rụt rè:
- Còn Bê… Bê đi đâu?
Tôi đáp:
- Không thể cho đằng ấy biết được. Chiều nay lúc năm giờ ta sẽ gặp nhau ở bến sông, chỗ buộc thuyền của bà An Lạc. Tuyệt đối không được cho mẹ mình và bố Thế biết rằng đã gặp mình. Thôi, đứng dậy… và đi đi…
Tôi ngồi dưới gốc bàng, ôm đầu suy tính: Đi đâu bây giờ? Đi đâu? Ở thị trấn này chăng?
Các thầy cô giáo quen biết mẹ ở khắp nơi. Họ sẽ phát hiện ra tôi và đem trả ngay cho mẹ. Và mẹ lại nhìn tôi với con mắt lạnh lẽo, buồn rầu, không nói một tiếng. Chao ơi, tôi sợ những tia nhìn nghiệt ngã đó và sự im lặng hơn những roi đòn đau rát nhất từ xưa đến nay… Hay về quê?
Không, về quê xa xôi quá. Vả lại có về đó rồi mẹ tôi cũng sẽ tìm thấy ngay. Mà tai hại hơn nữa, là tất cả bà con họ hàng, chị em họ, cháu họ xa gần sẽ biết tôi bị đuổi học. Xưa nay, tôi vẫn là ngọn cờ để họ biểu dương: “Cứ nhìn chị Bê con bác giáo Hạnh đấy, học sớm hai năm mà năm nào cũng đứng thứ nhất”. Hoặc: “Cứ nhìn cô Bê con bà trẻ Hạnh đấy, học cứ như thần đồng. Còn chúng mày thì chỉ là một lũ ăn hại thôi…” Đáng buồn thay, thần tượng của họ đã bị sụp đổ rồi. Tai ương và lỗi lầm đã cướp đi của tôi niềm tự hào nhất đối với tuổi niên thiếu. Đi tới đâu, bây giờ tôi cũng bị nỗi tủi nhục bao vây…
Nghĩ tới đó, nước mắt tôi chảy ròng ròng trên má tự lúc nào không biết. Tôi cúi đầu úp mặt vào hai đầu gối để mấy bà đi vào chùa khỏi nhìn thấy. Nghĩ lan man mãi, cuối cùng tôi quyết định đi tới nhà chú bé chụp cá bên kia sông.
Đồng hồ các nhà trong ngõ thong thả điểm mười hai tiếng chuông. Đám học sinh tan trường đã về tới nhà. Đường phố vắng vẻ hơn. Tôi đi rất nhanh ra bờ sông, mặt cúi gằm xuống đường để tránh những cặp mắt của người quen trong thị trấn. Bến sông vắng lặng. Làn nước lấp lánh dưới ánh nắng. Vài đám bèo Nhật bản hoa tím nổi bập bềnh trên sông và một con bói cá lẻ loi, lông xanh biếc chốc chốc lại nhào xuống cắp mồi. Tôi định bơi qua sông nhưng chợt nhớ mình đang đói bơi dễ bị chuột rút nên tôi cố gắng leo lên đồi, đi vòng qua cầu để sang bờ bên kia. Vượt qua đê, tôi tới làng chú bé chụp cá đêm. Men theo hồ sen, tôi lại tìm được nếp nhà tranh nhỏ xíu, cổng bằng rào tre, mảnh sân hẹp như chiếc chiếu xung quanh co vài bông mào gà và cúc kim chi vàng nở.
- Cau ơi Cau… Cọt ơi… Cọt…
Tôi cất tiếng gọi:
- Ai đấy, vào đi i i…
Giọng đàn bà cao vút trả lời. Rồi mẹ chú bé bước ra. Ban ngày, tôi nhìn rất rõ người đàn bà lai tàn tật. Lưng cô gù gập xuống khiến dáng người như con cua. Khuôn mặt đẹo nhưng quá nhỏ nên trông kỳ dị, đôi mắt rất to với những rạch sáng xanh lam, và những lọn tóc quăn màu hung rực rõ bao quanh mái đầu.
- A, cháu đã đến chơi hôm trước, đúng không?
Cô cất tiếng cười vui vẻ, hỏi tôi.
Tôi lúng túng cảm động vì thái độ hồ hởi của người đàn bà, khẽ đáp:
- Thưa cô, vâng ạ…
Chủ nhân quay người đi trước, miệng nói:
- Vào nhà kẻo nắng.
Tôi hỏi:
- Em Cau có nhà không cô?
Người đàn bà bước vào nhà, ngồi xuống chõng. Lấy tích rót nước vào chén cho tôi rồi mới trả lời:
- Em Cau đi học rồi. Nhưng cháu cứ ngồi chơi.
Chờ tôi bưng chén nước uống, người đàn bà lặng lẽ xuống bếp. Rồi sau đó, cô trở lại với một nồi đất đầy ngô bung đậu đen:
- Cháu uống nước rồi ăn ngô. Cô với em vừa ăn xong tức thì.
Tôi thấy những ánh mắt xanh long lanh của cô nhìn tôi trong sáng và nhân hậu quá. Dưới cái vỏ ngoài kỳ dị, tâm hồn cô dịu dàng và tinh tế. Lòng tốt của cô khiến tôi bàng hoàng. Tôi nói khẽ:
- Cháu cám ơn cô.
Người đàn bà cười:
- Ồ, có gì đâu…
Rồi cô nói lảng chuyện khác:
Chiều hôm đó tôi kể cho cô nghe tất cả những rủi ro của mình. Tôi kể một cách tự nhiên, tin cậy như tôi đã thân thiết với gia đình cô từ lâu lắm. Người đàn bà lắng nghe với vẻ cảm thông, trầm tĩnh. Sau đó cô bảo tôi:
- Tất cả rồi đâu sẽ vào đấy. Cháu cứ tin điều cô nói. Qua cơn bĩ cực, tới tuần thái lai.
Chừng non chiều, người tôi bỗng mệt rã rời. Mắt díp lại sau những ngày căng thẳng. Tôi có ý nghĩ nếu đặt lưng nằm xuống tôi sẽ ngủ mãi mãi không thể thức dậy được. Thế nhưng, tôi ngủ được tới năm rưỡi, Cau đánh thức. Chú bé gọi:
- Chị dậy ăn cơm. Cơm chín rồi.
Tôi choàng dậy. Tắt nắng rồi. Những ráng chiều màu đỏ, màu da cam chất ngất ở phía tây, trải lên mặt đất thứ ánh sáng như đồng chảy. Trong ngôi nhà tranh, mọi vật đã nhũ nhòa. Trước sau chỉ còn những bông cúc kim chỉ và những bông hoa mào gà là còn tươi sáng. Tôi sực nhớ giờ hẹn với Loan, hốt hoảng:
- Mấy giờ rồi, Cau nhỉ?
Chú bé ngửa mặt nhìn trời:
- Sắp sáu giờ.
Tôi nói:
- Thôi chết, mình phải đi ngay.
Cau túm tay tôi lại:
- Không đi đâu cả. Cơm dọn ra rồi. Ăn xong đã.
- Nhưng có việc cần, mà mình đã hẹn…
Chú bé nghiêm nghị nhìn tôi:
- Việc nào cũng phải ăn rồi mới có sức làm được.
Và mẹ chú từ trong bếp bước ra, má đỏ lựng hơi lửa, tiếp lời con:
- Cơm thương cháo thương hơn tất cả mọi người thương. Phải ăn đã, cháu ạ...
Tôi không còn cách nào hơn là ngồi xuống bên chiếc mâm gỗ đặt ngay giữa sân. Trên mâm, một đĩa rau khoai lang luộc chín tới xanh rờn đang bốc khói. Chiếc đĩa nhỏ đựng cà pháo kho với tép và ớt chỉ thiên.
Mẹ chú bé chụp cá bảo con:
- Cau múc tương chưa nhỉ?
Chú bé vội vã trả lời:
- Con múc tương bây giờ đây.
Nói đoạn, chú cầm chiếc bát sạch, ra góc sân. Ở đó, có một chiếc chum da lươn nhẵn bóng. Trên miệng chum úp cái chậu sành non. Cau thận trọng lật chiếc chậu sành lên. Xong, nó dỡ mấy lượt lá chuối khô phủ trên rồi mới tới lượt vải màn bên dưới. Cuốn tấm vải màn sang một bên, chú bé vực cái bát ăn cơm vào trong chum. Rồi khi nhấc bát tương lên, nó thè lưỡi liếm những giọt tương rớt bên dưới bát khiến cho tôi suýt bật cười. May mà tôi ghìm giữ được.
Chúng tôi ngồi ăn cơm khi trời chập choạng tối. Ánh hoàng hôn chỉ còn vương vất trên những ngọn tre cao vút và những tàn lá xoan mỏng manh, luôn luôn lay động vì gió thổi. Quanh sân, những con cóc già nghiến răng trèo trẹo nơi góc tường hoặc kẽ đất. Thỉnh thoảng, cào cào châu chấu từ đồng lúa bay vào, đá tạch vào tai tôi, vừa đau vừa ngứa. Tôi lo ngay ngáy khi nghĩ tới chuyện một chú ễnh ương hoặc nhái bén nhảy vào bát tương hay đĩa cá. Nhưng may sao, điều đó không xảy đến. Còn mẹ con chú Cau đã quen ăn cơm ngoài trời nên chẳng mảy may bận tâm. Sau này, khi đã quen, tôi cũng cảm thấy ăn cơm ngoài trời thú vị. Bầu không khí mát mẻ, thoáng đãng khiến ta ngon miệng hơn. Và phong cảnh xung quanh cũng làm cho bữa ăn đạm bạc thêm thú vị.
Ăn xong, tôi ra bến sông. Không thấy Loan hạt mít ở đó. Tôi ngồi chầu hẫu bên chiếc thuyền tôn của bà An Lạc cho tới hơn bảy giờ tối, Loan mới dò dẫm tới nơi.
Tôi chưa kịp hỏi, nó đã nhăn nhó:
- Mẹ đằng ấy không cho đi.
- Tai sao cơ?
- Cô bảo ở nhà với cô cho đỡ buồn. Sau đó tớ phải nói dối là tới nhà Yến sếu mượn bài tập vật lý mới đi nổi.
- Mẹ tớ có tìm tớ không?
- Có. Cô đi khắp lượt những nhà quen trong thị trấn.
- Rồi sao?
- Không tìm thấy, cô đoán đằng ấy về quê ngoại.
- Biết ngay mà...
Tôi lẩm bẩm, hết sức hài lòng vì mình đã tính đúng mọi nước.
Loan kể tiếp:
- Chiều, cô đưa tớ lên viện thăm mẹ rồi sang nhà cai Cân lấy quần áo.
- Mẹ đằng ấy ra sao?
- Đau lắm nhưng vẫn tỉnh. Mẹ tớ khóc nức nở, xin lỗi vì không nghe lời cô.
- Thế mẹ đằng ấy có bằng lòng cho đằng ấy ở với mẹ tớ không?
- Có. Mẹ tớ bảo khi ra viện, mẹ tớ không về nhà lão cai Cân nữa...
Hai đứa im lặng một lúc, rồi tôi hỏi Loan:
- Chiều ăn cơm với gì?
- Rau muống xào tỏi và trứng luộc.
- Còn mình, mình ăn rau lang luộc chấm tương mà cũng thấy ngon. Con người sẽ quen được mọi thứ...
Tôi nói vừa như để lên lớp cô bạn, vừa như tự bảo mình.
Loan nhìn tôi, mắt long lanh như ướt nước:
- Đằng ấy có đói không?... Này cầm lấy cho đỡ thèm.
Nó rút trong túi ra một gói kẹo đưa cho tôi. Tôi chưa kịp bóc kẹo ăn thì Loan đã thò tay vào lục trong lưng quần hồi lâu, rồi móc ra một gói giấy khác:
- Đây nữa.
Tôi cầm gói giấy, giơ lên dưới ánh sao?
- Gì thế này?
Loan nói khẽ:
- Tiền.
Tôi sửng sốt hỏi:
- Một mình đằng ấy mà dám ra đảo lấy tiền cơ à?
Loan lắc đầu:
- Không. Đây là tiền khác... Mà nhiều lắm, nhiều hơn cả kho tàng của chúng mình.
Nó nhìn quanh quẩn rồi quỳ gối, ghé sát vào tai tôi, thì thầm:
- Hai trăm cơ đấy. Toàn giấy mười đồng thôi.
Tôi sững sờ. Quả thực hai trăm lúc đó là to lắm. Cả vốn liếng hai đứa tôi dành dụm ngoài đảo cũng chỉ ngót nghét năm mươi đồng. Mà chỉ toàn giấy năm hào, một đồng mới. Chưa bao giờ chúng tôi có được một tờ năm đồng trong tay. Ngày ấy ăn quà chỉ cần ba hào là sang lắm. Ba hào một bát phở tái. Một hào ba quả chuối chín, mười hai cái kẹo bột, hoặc hai tấm bánh dẻo không nhân. Trứng gà chỉ có sáu bảy xu một quả. Còn trứng vịt to nhất cũng chỉ một hào mốt là cùng... Đó, bạn hãy cứ hình dung ra giá trị món tiền hai trăm đối với chúng tôi trong lúc vật giá như vậy.
Tôi cầm gói tiền, hỏi Loan:
- Tiền ở đâu ra? Ai cho thế?
Loan rụt tay lại:
- Không ai cho cả.
Tôi nói:
- Không ai cho thì cậu lấy ở đâu?
Thấy vẻ mặt nghiêm nghị và ngờ vực trên mặt tôi, Loan nói khe khẽ:
- Mình không làm điều gì xấu cả. Mai mình sẽ nói. Bây giờ mình phải về, không cô sẽ mắng.
Nói xong, không chờ tôi trả lời, Loan quay về phía thị trấn, đi mải miết như chạy.
Tôi giắt gói tiền vào cái túi nhỏ trong lưng quần. Tính tôi hay ăn vặt: lạc rang, hạt dẻ, thóc nếp rang hay bỏng ngô... Thế nên quần nào tôi cũng khâu một chiếc túi để tiện chứa thực phẩm. Không ngờ cái túi con bây giờ có giá trị lớn lao thế. Tôi cẩn thận sờ các đường chỉ may xung quanh, rồi lấy ghim băng cài chặt lại Về nhà Cau, tôi thấy chú bé đang chuẩn bị đồ nghề đi cá. Tôi bảo:
- Cho chị đi với nhé.
Cau lắc đầu:
- Không được. Mẹ em bảo chị đang mệt lắm, đêm nay phải nghỉ ở nhà nghỉ ngơi đã. Khi nào béo khỏe mới được đi. Sương đêm độc lắm, con gái không thể liều được đâu.
Nói xong, chú bé đưa mắt nhìn mẹ. Người đàn bà cười:
- Em Cau nói đúng đấy. Cháu không bì được với nó đâu.
Cau đưa mắt nhìn tôi kiêu hãnh như muốn nói: “Chị đã thấy chưa?”. Rồi nó cao giọng:
- Chị ấy ở ngoài phố nên thích ăn khoai hầm lắm đấy. Chốc nữa mẹ đổ trấu ủ một nồi mẹ nhé.
Người đàn bà gật đầu, trả lời với giọng nói thánh thót nhẹ nhàng như giọng thiếu nữ
- Con cứ đi đi. Mẹ nhớ rồi.
Chú bé đeo giỏ, xách chụp ra sân. Lưng lủng lẳng những hộp mồi lớn, mồi nhỏ. Tay nắm một bó cần câu nhỏ. Trông nó oai vệ như viên tướng xuất trận. Bỗng dưng tôi ao ước được như nó. Tôi ao ước mình cũng làm được một công việc gì đó hữu ích như Cau để nuôi mẹ, đem lại niềm vui sướng cho những người thân và trở thành trụ cột của gia đình...
Tôi cứ theo đuổi những ý nghĩ đó mãi cho tới khi mẹ chú bé đứng dậy để sắp nồi khoai theo lời con dặn. Tôi theo cô xuống bếp. Người đàn bà vần nồi cám lợn sang bên, bắc nồi khoai lên bếp. Những tàn lửa đỏ bắn lung tung như hoa cà hoa cải. chúng tôi đung khoai tới lúc nước sắp cạn thì ủ vào lửa trấu. Sẵn than, người đàn bà nướng thêm mấy củ khoai nhỏ cho tôi ăn trước. Tồi ngồi rủ rủ nói chuyện với cô mãi cho tới khuya mới lên giường đi ngủ. Trong giấc ngủ đầu tiên xa nhà, bao nhiêu giấc mơ ngắn ngủi và lộn xộn ập đến, giống như những câu chuyện thực xen lẫn những huyền thoại hoang đường. Tuy thế, đó cũng là một giấc ngủ ngon lành, nó đem lại cho tôi sự thăng bằng, niềm phấn khởi để bước tiếp trong những ngày tháng tới. 

Thứ Năm, tháng 4 25

HÀNH TRÌNH NGÀY THƠ ẤU (truyện dài ) Chương 7

                                        NHỮNG NỖI BẤT NGỜ CAY ĐẮNG VÀ ÊM DỊU

Trong bản kiểm điểm, tôi giải thích hành động của mình có hai duyên cớ: Thứ nhất, đáp lại sự hành hạ tàn nhẫn của ông giáo. Thứ hai, phản đối thái độ bất chính của ông ta với nữ sinh. Bà hiệu trưởng đọc xong nhưng chưa trả lời. Bà cần nghiên cứu, xác minh. Và trong thời gian chờ đợi ấy, bà buộc tôi nghỉ học. Bố Thế và thầy Bách đấu tranh rất kiên quyết và nhẫn nại nhưng không thể lay chuyển quyết định của bà. Bà muốn chứng tỏ cho mọi người thấy bà là hiệu trưởng và quyền quyết định tối cao của bà là một thứ tài sản bất khả xâm phạm. Những ngày bị buộc nghỉ học, tôi gầy tọp đi. Bạn hãy tưởng tượng một ngày nào đó, người ta nói với bạn rằng: Mày sẽ được cho ăn, cho uống, nhưng bị nhốt vào chuồng sống chung với lũ bò và sống như thế cho tới mãn kiếp… Tôi cảm thấy mình bị hành tội đúng như vậy trong những ngày chờ phán xử.
Mẹ tôi không dung tha cho bất cứ hành động hoặc lời lẽ nào của tôi. Mẹ tôi chỉ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất:
- Bất luận lý do gì, thầy vẫn là thầy, trò vẫn là trò. Trò dám chống lại thầy là tội không dung thứ.
Hoặc là mẹ tôi cố tình không hiểu. Hoặc là mẹ không bao giờ hiểu rằng đôi khi số phận áp đặt cho ta một ông giáo không đủ tư cách làm thầy, thậm chí không đủ tư cách làm một người đứng đắn và lương thiện. Vì thế mọi lỗi lầm mẹ trút cả lên đầu tôi:
- Con là đứa phá hoại luân lý gia đình. Bốn đời nhà ta làm nghề dạy học mà chưa gặp đứa học trò bất trị nào như con. Con phải hiểu rằng người học trò ngoan chỉ có mỗi nhiệm vụ: lắng nghe và học hỏi thầy…
Tôi buồn rũ, chỉ ngồi im. Nhưng có lúc nổi khùng, tôi vặn lại mẹ:
- Nếu con là con trai mà thực hiện đúng lời mẹ dạy, thì con đã theo ông Gia đuổi theo các cô gái tán tỉnh suốt ngày… Liệu mẹ có chịu không?
Lúc đó, mẹ lại quát to:
- Con nhà mấy dạy, không được cãi lý với mẹ.
Tôi nói:
- Nhưng thưa mẹ, mẹ vừa bảo con phải học hỏi người thầy. Vậy con đã nghe thấy thầy Gia nói với chị Bội rằng…
Tôi nhắc lại nguyên văn những câu tán tỉnh ba xu của ông giáo thể dục. Mẹ tôi bí thế, lại đùng đùng quát lên:
- Giỏi thật, cho chúng mày tiền đi ăn kem, lại đứng nghe những chuyện nhảm nhí. Ngữ này không đánh cho no đòn thì cũng đến nước hư hỏng thôi. Bê, nằm xuống đây!…
Mẹ tôi quất roi mây lên mông tôi, vừa thở hổn hển. Thoạt đầu, tôi còn khóc vì đau đớn. Sau, tôi không khóc nữa. Tôi cảm thấy mình trở nên lỳ lợm. Tôi nằm im đếm những roi đòn rơi xuống và thầm nói:
- Lão Gia ác độc, cầu cho lão chết đi, cầu cho lão chết…
Tôi không giận mẹ, mặc dầu mẹ đánh tôi quá nhiều và thật vô lý. Đánh xong, mẹ ném roi, ngồi ôm mặt khóc. Dường như mỗi roi đòn mẹ quât lên mông tôi thì một ngọn roi vô hình nào đó cũng quất xuống trái tim mẹ và khiến mặt mẹ co dúm lại vì đau khổ. Đêm tới, khi thấy tôi ngủ say, mẹ rón rén tụt quần tôi ra, xoa dầu lên những lằn roi bỏng rát. Tôi thức giấc,nằm thật yên, nhưng nước mắt rơi ướt đầm gối vì thương mẹ và thương cả thân mình.
Giấc ngủ kéo dài mười hai giờ liền. Mãi gần trưa hôm sau, tôi mới tỉnh. Lúc ấy khoảng mười giờ rưỡi. Mẹ tôi đi đâu đó, khoá cửa ngoài. Nắng lọt qua cửa sổ kẻ lên mặt chiếu. Vệt nắng khiến tôi nhìn ra những đồ đạc quen thuọc hàng ngày: bàn ghế, tủ treo quần áo, tủ chè gương mặt đã ố, con búp bê ngồi trên xích đông, cái đầu sư tử treo trên tường mua ngày Tết Trung Thu năm tôi lên bảy… Tất cả đều xám xịt và buồn tẻ.
Căn phòng tối lờ mờ như nhà tù. Còn tôi, tôi là một tù nhân. Đúng tôi là một tù nhân. Nhưng không phải tù hình sự - đám lưu manh chuyên móc túi, cướp giật, lừa đảo… Tôi là tù chính trị. Nếu sinh vào thời cách mạng, rất có thể tôi sẽ trở thành Tô Hiệu, Lý Tự Trọng… Các chiến sĩ cách mạng đã chẳng chống lại lũ thực dân áp bức dân lành đó sao? Còn tôi, tôi không thể chống thực dân Pháp vì chúng đã cút về nước và cách mạng đã thành công rồi.Nhưng tôi chống lại ông Gia là kẻ độc ác, hành hạ trẻ nhỏ, cưỡng bức phụ nữ… Ít ra, việc làm của tôi cũng khiến lão phải e dè hơn trước. Và sự hả hê không che giấu của học sinh trong trường đã chẳng nói lên điều đó sao?… Nếu tôi biết căm ghét và phản kháng cái xấu, tôi có thể trở thành người chiến sĩ khi nước nhà gặp cơn nguy biến… Tôi tự an ủi và không buồn chán nữa. Tôi vừa định ngồi lên thì có tiếng khoá lách cách. Mẹ về. Nhớ lại những đòn roi tối qua, tôi lại nằm xuống giường. Mẹ toi cất túi xong, vội vã tới hỏi:
- Bê đã dậy chưa con?
Tôi im lặng.
- Bê đã tỉnh chưa con?
Mẹ tôi hỏi lần thứ hai, hốt hoảng hơn. Tôi không trả lời.
- Trời ơi, con bé ốm mất rồi! … - mẹ kêu lên, ôm chặt lưng tôi - khổ thân con bé, trời ơi!
Tôi co cứng người lại để mẹ không thể xoay mặt tôi ra ngoài. Giờ đây, những giọt nước mắt nóng hổi đang theo nhau lăn xuống gối.
“Không được khóc, chẳng chiến sĩ nào khóc trong nhà tù cả… Mày phải nín ngay đi…” – tôi thầm giận dữ mắng mỏ mình.
Mẹ tôi vẫn ôm tôi, vừa lay vừa nói:
- Con ơi, xôi cô Vân Anh cho kia kìa, cả cháo sườn mẹ mới mua ở nhà bà Soi về còn nóng hổi… Con ăn một tý kẻo ốm bây giờ, con ơi…
Tôi nghĩ: “Ăn bây giờ là hèn. Ăn bây giờ là chấp thuận ý kiến của mẹ. Mẹ buộc mình phải kính trọng lão Gia và hoàn toàn nhận lỗi…”
Mặc cho mẹ nài nỉ, tôi vẫn nằm im, quay mặt vào tường. Rồi một ý nghĩ như cơn gió lướt tới: Tôi tuyệt thực. Đúng rồi… ngày xưa, các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa đã chẳng nằm nghiêng, không cử động, không ăn uống mười lăm ngày liền và đã anh dũng chết đó sao?… Các nhà hoạt động chính trị đã chẳng tuyệt thực hàng tuần trong nhà tù Sơn La cho tới khi thực dân Pháp phải thực hiện yêu sách đó sao?… Tại sao mình lại không học tập được những con người dũng cảm đó?… Ý nghĩ đó khiến tôi như lớn hẳn lên, vững chãi và đầy uy lực của một người chiến thắng. Tôi quay mặt lại, mở mắt nhìn mẹ và nói dõng dạc:
- Mẹ không thể nào mua chuộc được con. Con tuyệt thực.
- Cái gì? - mẹ tôi trợn tròn hai mắt, dường như không tin ở tai mình nữa – Con nói gì?
Tôi dằn từng tiếng:
- Con nói rằng con tuyệt thực. Tuyệt thực để bảo vệ chân lý.
Mẹ tôi đứng dậy, ngơ ngác nhìn tôi như nhìn người từ âm phủ chui lên. Biết mẹ chưa hiểu, tôi nói tiếp:
- Từ nay con sẽ nằm nghiêng, không ăn uống, không cử động cho tới khi áo quần thối rữa. Con sẽ chết, giống như cácchiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa trong khám Chí Hoà ngày trước. Mẹ tôi lặng đi vài giây. Rồi sau khi hiểu ra mọi chuyện, mẹ bật khóc:
- Hu hu hu… Trời đất ơi… Khổ thân tôi… Tôi cũng chết đi cho rồi…
Mẹ khóc như đứa trẻ bị đòn, yếu đuối và thơ ngây. Tôi mủi lòng, định dỗ dành mẹ. Nhưng lúc đó tôi đã nằm nghiêng quay mặt vào tường như đã dự định nên tôi không thể quay ra.
“Phải cứng rắn, phải đấu tranh cho chân lý…” – Tôi tự hạ lện cho mình. Và cứ thế, tôi nằm yên lặng. Mẹ tôi hết khóc lóc dỗ dành lại nhờ Loan hạt mít, Yến sếu tới khuyên can tôi. Tôi đã chiến thắng được những phút yếu lòng. Tôi đã chiến thắng được mùi thơm của cháo sườn, cháo gà hạt tiêu, phở bò, xôi nén với chả…
Khoảng năm giờ chiều, vì mệt, tôi nằm thiu thiu ngủ. Chợt nghe tiếng đập cành cạch của tấm nhôm rách bên ngoài. Bố Thế đã dắt con ngựa già lọc cọc tới – tôi nghĩ bụng. Đúng như vậy, chưa đầy một phút sau đã có tiếng gọi:
- Cô Hạnh có nhà không?
Mẹ tôi dưới bếp cuống quýt chạy lên. Thấy bố Thế, mẹ tức tưởi khóc:
- Em mong anh suốt từ trưa. Cả ngày nay, nó chẳng chịu ăn uống gì. Nó bảo em là nó sẽ tuyệt thực để đấu tranh cho chân lý. Nó kiên quyết nằm úp mặt vào tường đến khi nào thối hết da thịt, chết như những chiến sĩ Nam Kỳ trong khám Chí Hoà. Mấy chị hàng xóm khuyên em nên mời sư sãi trên chùa về nhà cúng giải ma… Mà em thì sợ rằng…
Bố Thế ngắt lời:
- Cô cứ bình tĩnh. Đừng có cuống lên như thế…
Nghe tiếng động, tôi biết rằng bố đã bỏ cái xắc da to tướng xuống và kéo ghế ngồi. Mẹ tôi hấp tấp đi lại, chừng như để kiếm trà pha nước.
- Mời anh xơi nước. Trà ướp sen cô Vân Anh mới cho em.
Bố Thế uống trà, khà một tiếng theo thói quen của bố mà chúng tôi biết từ lâu. Rồi bố ề à cất tiếng:
- Cô ăn cơm chưa? Chạy ra phố mua cho tôi mấy chiếc bánh ngọt. Mặc tôi ở đây với con Bê.
- Vâng, em đi ngay bây giờ.
Mẹ tôi hối hả đi ngay tức khắc, tiếng xe đạp tanh tách xa dần. Tôi hé mắt nhìn, thấy đôi vai to ngang của bố Thế in lên bóng tường. Chao ôi, mới nghỉ học mấy ngày mà tôi nhớ bố quá thể. Nỗi nhớ người thầy thân thiết hoà trong nỗi nhớ lớp, nhớ trường. Bởi thế khi thầy vừa cất tiếng gọi: “Bê, dậy bố bảo…” tôi liền nhổm ngay dậy và oà khóc.
Thầy ôm tôi vào lòng và rút chiếc khăn tay sặc mùi thuốc lào lau nước mắt cho tôi:
- Sao mày không chịu ăn uống gì hả con?… Đúng là đồ ngốc.
Tôi nức lên to hơn, không nói được lời nào.
Bố Thế hỏi:
- Bố nghe con Loan nói mày nhất quyết tuyệt thực phải không?
Nói rồi bố cười hì hì, đúng như tiếng cười của một ông già hiền lành.
- Ngốc lắm – bàn tay ấm và nham nháp của bố xoa lên tóc tôi – ngày xưa bố cũng đã tuyệt thực khi ở trong nhà tù của kẻ địch chứ không ai tuyệt thực trong ngôi nhà êm ấm của mình. Mày có hiểu tuyệt thực là gì không? … Một biện pháp đấu tranh chống kẻ địch. Vậy mà con lại đem biện pháp đó áp dụng với người thương yêu mình nhất trên đời. Như vậy có đúng là điên không?…
Tôi vẫn úp mặt vào lòng bố Thế và không nhìn rõ bố đang cười. Nhưng tôi hình dung được trước mắt những chiếc răng thưa đều và ám đen khói thuốc của bố. Tôi cố cãi một câu chiếu lệ:
- Nhưng tại sao mẹ con cứ bắt con phải con phải kính trọng, học tập ông Gia.
- Phải kính trọng, học tập các thầy các cô giáo nói chung - bố Thế ngắt lời tôi – vì các thầy các cô là người dạy dỗ, truyền đạt cho mình những kiến thức về cuộc sống. Không có kiến thức, sao con người tốt đẹp và trưởng thành lên được?… Nhưng trong số những cá nhân lãnh trách nhiệm làm thầy, làm cô… cũng có người không đoan chính. Bố biết vậy… Nhà trường, các thầy cô có trách nhiệm giúp đỡ những giáo viên có khuyết điểm. Còn học sinh không được làm điều gì xúc phạm đến thầy cô giáo.
Tôi ngẩng lên, nhìn thầy. Ánh mắt hiền hậu của thầy lộ rõ vẻ buồn bực.
- Bố biết, tay Gia này…
Tôi ôm chặt bố Thế thân yêu của mình. Phải, bố đã hiểu tất cả, bố đã công bằng. Tôi chỉ chờ vào điều ấy thôi…
Bố vuốt tóc tôi, xoa vầng trán tôi và nói tiếp:
- Con xử sự với ông Gia như vậy là con có lỗi. Đáng lẽ con phải cho bố biết mọi sự. Con phải kiên nhẫn chờ bố ở dưới quê lên.
Bố nhìn tôi thở dài, mắt bố rất buồn. Tôi cũng rưng rưng trong dạ. Biết vậy, bố khẽ nói:
- Thôi, dẫu sao thì mọi chuyện cũng qua rồi. Giờ phải ăn đi chút gì đã. Mới bằng con ếch đã tưởng đấu được với bò. May mà không ốm nặng.
Đúng lúc ấy, mẹ tôi hớn hở dắt xe vào, đặt gói bánh ngọt lên bàn. :
- Anh xơi bánh với nước chè. Bánh mới còn mềm lắm.
Bố Thế đeo chiếc xắc da to tướng lên vai:
- Thôi để bữa khác. Giờ thầy trò tôi ra phố đã.
Rồi bố đèo tôi đi ăn phở. Ăn xong, thầy trò tới hàng nước uống chè tươi nóng với kẹo bột, chè lam. Bố nói toàn chuyện vui cho tới khi đưa tôi về nhà, bố mới dặn:
- Chiều mai cô Vinh gặp đấy.
Rồi bố về trường. Còn tôi nằm nghĩ tới buổi chiều mai. Đó là thời khắc quyết định số phận mỏng manh của tôi.
Vào buổi chiều ghê sợ đó, nắng gay gắt như thể giữa tháng sáu ta. Chiếc đồng hồ quả lắc cổ lỗ trong văn phòng kêu tích tắc, tích tắc một cách nặng nhọc và cáu kỉnh. Cái quả lắc hoen rỉ đung đưa đều đặn trước mắt tôi. Tôi giương mắt nhìn nó trong khi chờ đợi bà hiệu trưởng phán xét. Bố Thế ngồi bên tôi, vẻ trầm tĩnh nhưng buồn. Dường như bố đã thấy trước một kết thúc không mấy tốt đẹp đang chờ đợi tôi. Tôi cảm thấy điều đó và thêm lo lại. Tim nhảy trong lồng ngực như một con chim bị trói. Tôi phải bấu chặt mép bàn để giữ bình tĩnh. Bà hiệu trưởng ngồi im lặng lật từng tờ giấy trong tập hồ sơ dày cộm. Hồi lâu, bà rút ra bản kiểm thảo của tôi, nói:
- Đọc lại đi
Giọng bà lạnh lẽo khiến tôi tái tê cả người. Bố Thế ngồi im như tượng, nhìn qua ô cửa về phía cánh đồng xa tít tắp. Hình như bố đang nghĩ tới điều gì đó không liên quan gì tới bà hiệu trưởng, bản kiểm điểm và bầu không khí nghiêm trọng trong căn phòng này. Tôi chợt thấy bơ vơ như đứa trẻ bị lạc trong bãi tha ma đêm, hoảng hốt, run rẩy. Trước mặt tôi, những dòng chữ xanh đậm trên bản kiểm điểm nhảy nhót, chập chờn. Một giọt mực rơi giống hệt con nhặng đậu lên trang giấy. Ngay chữ ký dưới cùng cũng xa lạ như thể chữ ai đó, chứ không phải chữ ký của mình…
- Đọc kỹ chưa?
Bà hiệu trưởng cất tiếng hỏi đột ngột khiến tôi giật nẩy người. Ngón tay trỏ của bà đưa lên, ấn vào sống chiếc kính cận đang tụt xuống chóp mũi. Rồi bà nhìn xoáy vào mặt tôi. Mắt bà trơ trơ như hai hạt nhãn nước, không giận giữ, không xót thương, không căm ghét. Cả đến sự giễu cợt cũng không. Trước cặp mắt vô tri của bà, tôi thấy mình bị tan vụn ra như cục bột ngâm nước. Chưa bao giờ tôi bắt gặp một ánh mắt nhọn như kim, tàn nhẫn một cách bình thản và ngọt ngào như thế.
- Em nhớ rõ những gì đã viết chứ? – bà hỏi từ tốn.
- Thưa cô, vâng. – Tôi trả lời.
Bà hiệu trưởng hơi nhếch mép, môi trên đụng đậy. Hình như bà mỉm cười thì phải. Rồi gõ ngón tay xuống bàn, bà dõng dạc goi:
- Nguyễn Ngọc Bội, vào đây.
Cánh cửa sau lưng bà mở ra lẹ làng, không tiếng động như được làm phép. Một bàn tay trắng nõn vịn vào khuôn cửa. Rồi sau đó, một thiếu nữ bước ra:
- Thưa cô, em đây ạ.
Chị Bội trả lời. Đúng là chị Bội. Nhưng mặt chị trắng phếch, nhợt nhạt và đôi mắt đen sập xuống, như bị cắm vào từng bước đi ngắn, e dè như bước đi của ông già mù hát xẩm.
- Mời em ngồi… - bà hiệu trưởng kéo ghế - Hôm nay, nhà trường mời em tới để xác minh một sự việc. Trước tiên, tôi yêu cầu em phải nói thật, hoàn toàn sự thật – Bà dằn từng tiếng. – Em rõ chưa?
- Thưa cô, rõ ạ.
Chị Bội đáp, giọng run run và mặt càng nhợt ra như tờ giấy.
Bà hiệu trưởng gõ ngón tay lên bàn:
- Tốt lắm. Bây giờ, em nghe cho kỹ càng: Thầy Gia có tán tỉnh, bờm xơm với em không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có biểu hiện thiếu đứng đắn với em không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có tới rủ em đi xem phim Pha-ti-ma không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có vuốt tóc, ôm lưng em không?
- Thưa cô, không…
Cứ mỗi câu trả lời, đầu chị Bội lại cúi thêm xuống. Cuộc đối thoại xong, mặt chị gằm xuống sát mặt bàn. Mỗi câu trả lời của chị giống như những viên đại bác bắn vào đầu tôi, khiến tất cả nát vụn, tan tành. Tôi không nghĩ được gì nữa. Óc tôi như khối bùn nhão, lạnh tanh. Tôi chỉ cảm thấy mặt mình từ nóng phừng phừng chuyển sang giá ngắt. Bàn tay tôi tuột từ mép bàn xuống gối, run bần bật. Còn quả lắc đồng hồ thì đảo đi đảo lại như cái đầu trọc của lão già trên chùa Đông Na. Cuối cùng, không hiểu vì sao, tôi đã thu hết sức lực mà hét lên:
- Chị Bội nói điêu, chị Bội nói dối!..
Bà hiệu trưởng quắc mắt lên, nhưng giọng lại rất mềm dẻo:
- Em ngồi xuống, không được vô lễ…
Nói xong, bà ta quay sang chị Bội:
- Em hãy trả lời trước tôi, thầy Thế và em Bê. Những điều em nói đúng hay sai?
Tôi nhìn trân trân vào cái má trắng bợt của chị Bội. Những sợi tóc mai rung rung:
- Thưa cô em nói đúng.
Chị Bội trả lời không nhìn ai.
Có cái gì đó vỡ oà trong tôi. Nỗi đau quặn lên, cồn cào gan ruột. Nó khiến tôi rã rời như biến thành những hạt cát. Tôi không thể gào thét được, thậm chí không thể gọi được tên một người thân thiết nào đó tới với mình. Những viên gạch men lát nền nhà quay chậm chậm dưới chân tôi. Rồi tốc độ quay mỗi lúc mỗi nhanh như cánh chong chóng trên đỉnh đồi. Chúng khiến tôi chóng mặt, đầu óc quay cuồng. Một tiếng còi xe lửa rít lên trong óc, và tôi rơi vào trong cái vòng quay tròn dưới chân tôi…
Tôi ốm năm ngày thì được biêt hội đồng nhà trường họp thi hành kỷ luật tôi. Mức kỷ luật bà hiệu trưởng để ra là mức kỷ luật cao nhất đối với một học sinh: Đuổi học, cảnh cáo và thông báo toàn thể các trường cấp ba trong tỉnh; hạnh kiểm 0 điểm. Lý do kỷ luật: Vu khống và có hành động trả thù giáo viên.
Tất cả bạn bè của tôi đã thay nhau theo dõi các cuộc họp. Tụi nó kể với tôi rằng cuộc đấu tranh giữa bố Thế và bà Vinh vô cùng gay go. Cuối cùng, bà Vinh lấy quyền thủ trưởng quyết định vì ý kiến ủng hộ hai bên ngang nhau, không hơn kém một phiếu. Tôi đã chuẩn bị tinh thần chịu đựng kỷ luật cao nhất là đuổi học. Nhưng tôi không ngờ bà hiệu trưởng còn kèm theo điều kiện thông báo toàn bộ các trường cấp ba trong tỉnh. Như vậy, bà vĩnh viễn buộc tôi thôi học vì không một trường nào dám nhận tôi nữa. Bà đã chặn tất cả các ngả đường phía trước đời tôi. Hẳn bà biết cậu ruột tôi có ý định đem tôi lên một trường huyện cho học tiếp. Bà dập tắt nốt ngọn lửa cuối cùng trong hy vọng của tôi.
Tôi gục đầu xuống hồi lâu, không ngẩng lên được. Sau đó, thay nỗi thất vọng và buồn tủi là lòng hờn oán. Tôi hỏi:
- Còn lão Gia thì sao?
Tụi ban hỏi lại:
- Thì sao là nghĩa gì?
Tôi đáp:
- Lão ta có bị kỷ luật, phê bình gì không?
- Làm gì có chuyện ấy. Lão ta còn được thể làm già, khăng khăng đòi đi nơi khác. Nhiều thầy cô ghét lão nhưng không dám nói. Riêng bố Thế với thầy Bách chỉ trích lão thì bị bà Vinh phê bình là nuông chiều học sinh, thành kiến với đồng nghiệp… Mấy hôm nay, mặt lão vênh lên trông đáng ghét lắm.
Tôi lặng im, tức thở như bị ngạt khói. Trước mặt tôi bỗng hiện lên con đường quen thuộc dẫn tới trường. Nắng rực rỡ. Những cây kim phượng hoa vàng và những cây phượng vĩ hoa đỏ chót nở dọc lối đi. Sân trường xanh mướt cỏ. Nơi ấy cơ man nào cỏ may, cỏ chỉ. Chúng tôi đã ngắt cọng cỏ, cắm vào đuôi những con chuồn ớt, chuồn ngô rồi thả chúng lên trời. Thế là hàng chục chiếc phi cơ óng ánh sắc màu lượn trên khung trời lơ, trong như lọc. Sát sân cỏ là hội trường với hai chùm đèn bóng trắng. Các đêm liên hoan đã diễn ra ở đó. Nào tiếng ghi-ta, tiếng phong cầm, tiếng vi ô lông, tiếng sáo… Nào váy áo lụa xanh, lụa hộng rực rỡ và những chiếc mũ dán giây tráng kim lấp lánh dưới ánh đèn… Chẳng lẽ không bao giờ tôi còn được thấy chúng nữa sao?… Cả cái bàn bóng một bên vênh, một bên có khe nứt, bóng đi xiên vẹo và luôn gây cho ta những cú thua oan. Cả cái phòng thí nghiệm có ông già mặc áo bờ lu trắng, mũi khoằm khoằm và luôn hăm dọa lũ học trò nhưng lại hiền như đất. Rồi những dãy chai lọ hình thù lạ lẫm, những chiếc bình cong cổ, những ống nghiệm làm phản ứng hoá học, chum a xít sun-phua-ríc có hình chiếc đầu lâu với hai ống xương bắt chéo bên trên, bộ xương người bằng thạch cao nhe hai hàm răng trắng nhởn trong bóng tối, lọ phoóc môn ngâm bào thai người… Rồi dãy hành lang lát gạch men vàng, những tấm kính cửa sáng bóng mà ngày ngày chúng tôi soi gương vào đó, chiếc bàn dài đầy vết mực và có các hình vẽ nguệch ngoạc, ngăn kéo dưới bàn là nơi chúng tôi bí mật giấu ô mai và ngô nướng ăn vụng trong giờ học, tấm bảng đen có ô nhỏ bên trên ghi sĩ số từng ngày… Thế giới thân yêu tràn ánh sáng và tiếng cười đó sẽ mãi mãi rời xa tôi sao? Tôi là người sinh ra để gắn bó với nó. Tôi yêu nó đến nỗi trong mỗi vụ nghỉ hè, dù bao nhiêu trò chơi vui thú lôi cuốn, tôi vẫn không quên được màu phấn trắng, mùi hăng hăng bụi bặm của phòng thí nghiệm và không khí hồi hộp trước mối tiết kiểm tra bài. Ngôi trường đó có bao nhiêu dấu vết của tôi. Này nhé, cái cọc lưới bóng bàn tôi đã xin Ban thể dục thể thao tỉnh. Đôi vợt mút là phẩn thưởng cây vợt trẻ của tôi. Chiếc bình cắm hoa lớn nhất thường dùng trong ngày lễ là phần thưởng diễn viên văn nghệ không chuyên của Ty văn hóa tỉnh. Còn bồn hoa trước văn phòng là do cả lớp tôi trồng mùa thu năm ngoái. Hôm trồng hoa, tôi đã bị cảm nắng một trận nên thân…
Những kỷ niệm tha thiết quá. Chúng khiến tôi đau đớn nhiều hơn. Nước mắt trào qua bờ mi, lăn xuống tận cằm. Tôi để mặc cho nước mắt rơi ướt đẫm vạt áo.
Hôm sau chủ nhật, tôi vừa thức dậy thì lũ bạn đã kéo tới đầy cửa. Chúng gào ầm ĩ:
- Bê ơi, dậy mà nghe tin mừng.
- Bê ơi, có chuyện quan trọng lắm…
Tôi đứng dậy mở cửa vì mẹ đi chợ từ sớm đã chốt then ngang thay khóa. Tụi bạn xô vào, xúm quanh giường. Rồi chúng tranh nhau kể cho tôi nghe. Tiết học thứ năm hôm qua, bà hiệu trưởng cho văn thư đánh máy quyết định kỷ luật của tôi gửi đi các nơi. Trong lúc bà đang đọc, Ly bước vào nhận rằng chính mình mới là người nhốt ông Gia vào nhà xí. Vũ Thị Bê chỉ khiêng giùm cậu ta chiếc bàn lim thôi. Nhưng chị ấy đã đứng ra nhận tội vì thương Ly gầy gò, ốm yếu và nếu bị đuổi học sẽ không đủ sức chịu những trận đòn của ông bố…
Tụi bạn kể xog, giương mắt nhìn tôi đầy vui vẻ và tò mò. Tôi im lặng. Tôi không ngờ chú bé loẻo khoẻo, thể xác ốm yếu, có bộ mặt ủ ê, sầu não đó lại tốt đến thế. Niềm thương mến tràn ngập tâm hồn khiến tôi rung cảm.
Loan hỏi:
- Đằng ấy mừng quá phải không?
Tôi gật đầu:
- Ừ.
Loan tức tối:
- Thế mà bà Vinh xử oan đằng ấy.
Tôi lắc đầu:
- Không oan đâu.
Tụi bạn trợn tròn mắt nhìn tôi:
- Sao lại thế?
Tôi bảo:
- Tớ mừng vì điều khác chứ không phải vì thoát được kỷ luật của bà Vinh.
Tối hôm đó, tôi đến nhà Ly.
Ông bố say rượu của nó đang ngồi ngất ngư trước một mâm bún lòng.
Trống quân, trống quýt, trống còi,
Tôi chẳng lấy nó, nó đòi lấy tôi…
Ông ta ngửa cổ lên trần nhà, cất giọng khê nồng nặc hát. Hát xong, ông hét thằng con út đang đứng gần cửa:
- Cu, con mẹ sề của mày đâu rồi?
Thằng bé lên năm nhưng mặt già câng trả lời:
- Bà bô sang nhà mụ đồng Son. Có thuê cu đi gọi thì đưa năm hào.
Ông bố móc túi, tìm đồng năm hào ném cho con:
- Này, con mẹ sề mày đi với ai hả?
Đứa con giơ từng ngón tay đen nhẻm, móng tay đầy ghét lên đếm:
- Bà Năm Nghĩa này, bà Tư này, bà Nhàn này… Cả chú Lợi công văn nữa này… Nhiều lắm…
Ông bố gầm lên, đôi mắt lồi như hai quả nhót chín:
- Tiên sư nhà nó, rượu nhạt như nước ốc, mắm tôm chấm lòng thì không chanh, không ớt… Nó bỏ đi đàn đúm với cái thằng đĩ đực ấy. Ông thì ông cho cả nút ăn dao…
Ông ta giơ chén rượu lên cao, đập cộp một cái thật mạnh. Chiếc chén thủy tinh vỡ vụn trên tấm phản gỗ lim. Mảnh thủy tinh đâm vào tay người đàn ông nát rượu. Ông ta giơ bàn tay ròng ròng máu lên và kêu:
- Ly, Ly đâu? Cha tiên sư mày, chết ở đâu rồi?
Tôi nép vào cánh cửa, sợ hãi nhìn những giọt máu đỏ tươi từ bàn tay người đàn ông rớt trên mặt gỗ. Trước đây tôi vẫn nghe dân thị trấn đồn cặp vợ chồng này vô cùng hung bạo, đánh đập nhau luôn luôn và hành hạ thằng bé mồ côi mẹ không tiếc tay. Tuy thế, tôi cũng chưa thể hình dung rằng trên đời có một người cha gớm ghiếc đến như vậy.
Người đàn ông say rượu vẫn gào:
- Cha con đẻ mẹ mày! Ly, Ly… y… y…
Lúc bấy giờ, chú bé hớt hải chạy lên:
- Bố gọi con ạ.
Ông bố quát:
- Không gọi mày thì gọi con chó à?
Nói xong, ông ta co chân đạp thốc vào bụng đứa con, văng ra một câu chửi tục. Ly thót bụng lại như con tôm, lùi ra sau rất nhanh nên cú đạp tàn bạo kia rớt xuống cặp đùi gầy gò của nó. Hẳn là Ly đã quen tránh đòn chứ như tôi mà bị đạp vậy thì chỉ đứng thưỡn ra hứng trọn cú đòn và sau đó lên bệnh viện ngay.
Trong nhà, ông bố gào:
- Kiếm giẻ băng tay cho tao.
Đứa con trai lẳng lặng vào buồng. Lát sau, Ly mang ra mảnh giẻ cũ với nhúm thuốc lào. Nó cầm bàn tay ông bố lau hết máu, rịt thuốc rồi lấy giẻ băng kín lại. Ông bố đưa bàn tay đã băng cẩn thận lên nhìn, vẻ mặt dịu đi. Ly thu dọn những mảnh thủy tinh vỡ, lấy giẻ ướt lau vết máu trên phản rồi ra sân. Lúc đó, cậu ta mới thấy tôi. Nó nhìn trước nhìn sau rồi chạy ra:
- Đằng ấy đến từ bao giờ?
Tôi không trả lời, hỏi lại:
- Ông ấy đá đằng ấy có đau không?
Ly ấp úng:
- Không… tớ tránh được.
Tôi cau mày:
- Tội nghiệp!... Bố đằng ấy ác quá...
Ly im lặng. Lát sau, nó dịu dàng nói:
- Ông bố tớ ấy mà… ông ấy cũng chẳng sung sướng gì đây. Ông ấy khổ lắm nên mới đâm ra nghiện rượu…
Tôi nói:
- Nhưng ông ấy không thương đằng ấy.
Ly cúi đầu nói khẽ:
- Có chứ. Bố tớ cũng thương tớ…
Rồi sau một lát im lặng, nó lảng sang chuyện khác:
- Đằng ấy tới bảo gì tớ thế?
Tôi ngẩn người, bỗng dưng quên hết những lời lẽ mà dọc đường tôi đã nghĩ ra để nói với Ly. Sau cùng, tôi buông một câu hỏi cộc lốc:
- Sao đằng ấy lên hội đồng nhà trường nhận kỷ luật cho tớ?
Ly từ tốn đáp:
- Thế tốt hơn.
Rồi nó cười:
- Mà sao đằng ấy biết? Nhanh thế! Loan hạt mít thông báo à?
Tôi không trả lời, hỏi lại:
- Ai bảo đằng ấy làm việc đó?
- Không ai cả.
- Thế tại sao?
- Tớ học kém quá. Học thêm nữa cũng chẳng ích gì. Đằng ấy học giỏi mà lại phải thôi thì tiếc quá. Bố Thế nhiều lần bảo rằng lớn lên đằng ấy thừa sức du học nước ngoài.
- Đằng ấy không sợ ông bố với bà dì ghẻ đánh hay sao?
- Chắc… cũng có đánh. Nhưng chẳng sao, tớ quen đi rồi…
Ly lại cười. Gương mặt nhỏ sáng long lanh. Tôi mủi lòng nói:
- Ly, đằng ấy nghĩ tớ cam tâm để đằng ấy bị đòn oan hay sao?
Nói xong, tôi nhìn Ly. Nó cũng ngước nhìn tôi. Ánh mắt chúng tôi soi vào nhau. Và tôi biết rằng, chỉ một giây nữa, hai đứa sẽ cùng òa lên khóc. Vì thế tôi vội vã quay đi, cắm đầu chạy một mạch về nhà.
Sáng thứ hai, tôi đến nói với bà hiệu trưởng rằng bà cứ việc công bố thi hành kỷ luật tôi như cũ. Rằng việc Ly đứng lên nhận lỗi chỉ là do thiện ý của cậu ta và hoàn toàn không xác thực. Tôi nói một cách bình tĩnh, không mảy may run sợ, hồi hộp. Khi đã biết hoàn toàn sự tàn nhẫn và độc ác của bà, tôi không e sợ quyền lực của bà nữa. Chúng tôi, những đứa trẻ chưa tới tuổi trưởng thành, chúng tôi dũng cảm trước sự thật, chúng tôi thương yêu nhau và biết hy sinh vì nhau. Chúng tôi cao hơn bà. Tôi nhận cuốn học bạ mà bên dưới những dòng chữ dài dằng dặc biểu dương mọi ưu điểm, dưới những cột số điểm nằm đỏ chói, có dòng chữ đuổi học to tướng và điểm hạnh kiểm 0. Tôi nhận cuốn học bạ đó từ tay bà, lặng lẽ, dửng dưng. Tôi đã vượt qua giới hạn của nỗi đau khổ rồi. 

Thứ Hai, tháng 4 22

HÀNH TRÌNH NGÀY THƠ ẤU (truyện dài ) Chương 6

                                                TAI ƯƠNG KHÔNG BÁO TRƯỚC

Ngay tối hôm tôi từ bệnh viện trở về, Loan hạt mít sang bảo:
- Mẹ tớ bằng lòng cho lão cai Cân bán nhà rồi.
Mặt nó buồn thiu. Tôi không còn cách nào khác hơn là rủ bạn đi chơi cho khuây khỏa. Chúng tôi mua hạt bí và ô mai cam thảo, vừa đi vừa ăn ô mai, cắn hạt bí, chẳng đứa nào nói một câu. Ngang nhà chị Bội, chúng tôi lại bắt gặp hai bóng người đứng nép dưới vòm lá tồi om của cây bàng.
- Thưa thầy…
- Anh đã bảo rồi… Bội cứ gọi anh là anh Gia.
- Thưa thầy, em…
- Sao em nhát thế? Con gái thời nay phải mạnh dạn lên chứ!... Ôi, mái tóc em đẹp thật. Hệt như mái tóc nàng Pha-ti-ma…
- Dạ, thưa thầy…
- Tay em cũng đẹp… nhưng sao đầu ngón trỏ lại nháp thế này?
- Em vẫn phải thêu hàng cho mẹ nên kim đâm vào tay.
- Ô, hỏng mất ngón trỏ, phí quá… Nhưng chẳng sao. Tay em điểm bốn, tóc em điểm năm, con người em năm cộng, đôi mắt em năm trừ, còn môi…
Ông bố chị Bội ló đầu ra khỏi cửa, hắt toẹt chén nước thừa chút nữa thì vào cô gái rượu. Ông Gia im bặt. Chúng tôi bấm nhau lui lại. Nhưng rủi ro thay, chính vào lúc đó, ông giáo thể dục đã nhìn thấy chúng tôi. Trong giây phút, mắt ông đờ ra vì kinh ngạc. Rồi nó tối sầm lại tức giận. Hai đưa tôi đứng sững như trời trồng, sợ thót tim. Lúc sau hoàn hồn, chúng tôi cất tiếng chào lí nhí rồi chuồn mất. Cặp mắt lươn của ông Gia chọc thẳng vào mắt chúng tôi như gầm rít: “Hai con mất dạy rình dập ta… Chúng mày sẽ biêt tay…”
Sự hăm dọa toát ra từ ánh mắt hằn học của ông ta quá rõ ràng. Từ phút đó, nỗi kinh sợ bóp chặt lồng ngực tôi, khiến mỗi hơi thở cũng mệt nhọc, khó khăn hơn trước.
Gần tới nhà, Loan run run kéo áo tôi:
- Chết rồi… Làm sao bây giờ?...
Tôi cố gắng làm bộ cứng cỏi:
- Mình có tội gì đâu mà sợ!
Loan lắc đầu:
- Chả có tội gì cũng chết. Lão ấy thù tụi mình…
- Cóc sợ! Đằng ấy im đi…
Loan không dám nói nữa. Nhưng mặt nó chảy thượt như cục bột ướt.
Đêm hôm đó, tôi mơ thấy mình bị trói chặt vào một mỏm đá dưới đáy biển. Những sợi dây thít chặt chân tay tôi đau rát. Nước xung quanh trong suốt, lạnh buốt xương. Một con cá ngão há mồm rộng ngoác lởm chởm hai hàm răng nhọn bơi lừ lừ tới trước mặt tôi. Tôi nhìn rõ cái cổ họng đen ngòm, ghê rợn như miệng hang núi của nó nằm sâu trong hai hàm răng lấp lánh. Và con vật khủng khiếp đó cứ im lặng tiến về phía tôi, mỗi lúc một gần…
Sáng hôm sau, tôi dậy muộn. Cơn mơ dữ khiến người tôi mỏi nhừ. Không kịp ăn sáng, tôi hối hả chạy tới trường cho kịp giờ học. Tiết đầu tiên đúng là giờ thể dục, môn học trước đây vài tháng là niềm vui thú, còn hôm nay là nỗi kinh hoàng.
Yến sếu ghé vào tai tôi thì thầm:
- Chuẩn bị tinh thần đi. Hôm nay mặt ông Gia hằm hằm trông kinh lắm. Lúc nãy ông hét lớp trưởng: “Kiểm tra chạy. Cự ly một trăm mét và hai trăm mét.”
Tôi lặng im. Theo đúng chương trình, hôm nay là giờ tập nhảy ngựa. Một hồi còi róng riết rít lên. Ông giáo thể dục đi tới. Chúng tôi tập hợp thành hai hàng dọc trước mặt ông ta.
- Vòng tròn khởi động.
Ông Gia ra lệnh. Bây giờ, ông không lý thuyết dài dòng như buổi đầu mà chỉ phát ra những mệnh lệnh cụt ngủn, thô bạo. Chúng tôi chạy vòng tròn dưới sự chỉ dẫn của cán sự thể dục lớp. Ông giáo chắp tay sau mông, đứng nhìn. Cặp mắt gườm gườm của ông không hứa hẹn điều gì tốt lành hết. Chị Bội cúi gằm mặt xuống. Còn Loan hạt mít tái xanh không còn hạt máu. Tôi vừa chạy vừa đếm từ một tới một trăm để tự trấn an tinh thần.
- Ra đường lớn, chuẩn bị chạy!
Ông Gia đột ngột hét to. Rồi ông quay lưng đi trước chúng tôi, vừa đi vừa rút trong túi quần chiếc đồng hồ quả quýt. Đôi vai và cặp mông đầy ú thịt của ông rung rinh.
Trên con đường cát đỏ mịn màng, đã có những vạch vôi kẻ sẵn. Cán sự thể dục xách những cặp bàn đạp ra đặt trước vạch xuất phát. Trực nhật đem quyển danh bạ lớp cho ông giáo. Và ông mở sổ ra lệnh:
- Bắt đầu.
Ngón tay to và dài của ông đặt lên cột số thứ tự:
- Vũ Thị Bê.
Theo vần chữ cái, bao giờ tôi cũng là học sinh đầu tiên được gọi tên trong các cuộc thi hoặc kiểm tra. Điều đó với tôi là việc bình thường. Nhưng lúc này, tim tôi bống đập vang dội trong lồng ngực như cái trống con. Tôi bước lên vạch vôi xuất phát, người nóng rần rật. Nguyễn Xuân Bảo, Phạm Thứ Bình, Khang Quốc Bình, Trần Thế Bính…
Ông Gia đọc tiếp. Cả năm đưa tôi giẫm chân lên bàn đạp trước cặp mắt ngơ ngác của mọi người. Trước đây không bao giờ nam nữ kiểm tra điền kinh chung. Mức quy định cho nữ sinh bao giờ cũng nhẹ hơn. Nhưng không ai dám hé răng hỏi.
- Chuẩn bị! Bắt đầu…
Ông Gia hô to. Lá cờ hiệu phất lên. Năm chúng tôi lật bật lao về phía trước.
- Sai quy cách, chạy lại
Ông giáo nói một cách lạnh lùng.
Chúng tôi quỳ gối, đặt chân lên bàn đạp, ngẩng đầu hướng về phía trước theo đúng bài giảng.
- Chạy… lại sai quy cách rồi. Lần thứ ba, làm lại đi…
Cả năm đứa thở hồng hộc quay lại vạch xuất phát lần nữa. Không ai bảo ai, chúng tôi liếc nhìn nhau kiểm tra các tư thế và động tác. Tất cả đều hoàn hảo. Ông Gia gãi ngón tay trỏ lên mặt kính đồng hồ:
- Tôi bám giây đấy. Chuẩn bị chạy… Chạy!
Lá cờ hiệu vẫy lần thứ ba. Lần này, chúng tôi cố gắng cho tới đích. Bí thư chi đoàn có đồng hồ đeo tay. Anh bấm giây và kêu to:
- Hoan hô! Tất cả vượt tiêu chuẩn một giây rưỡi… Thoát nợ rồi…
Tôi lau mồ hôi, thở hào hển. Nhưng ngay lúc đó, tiếng ông giáo thể dục vang lên ở đầu đường:
- Vũ Thị Bê, sai quy cách chạy lại.
Tôi sững người. Cả lớp ngơ ngác nhìn tôi, im phăng phắc. Người tôi nhẹ bẫng. Lúc lâu, tôi mới thốt lên được:
- Thưa thầy, em sai?
- Bàn chân sau đặt chưa đủ độ dốc bàn đạp, chạy lại.
Ông Gia đáp, lạnh tanh. Mọi người đứng xung quanh cúi mặt xuống. Rõ ràng đó là một nhận xét có tính moi móc, một lối trù lộ liễu. Tôi không còn sợ hãi nữa. Máu trào lên hai mang tai khiến mặt tôi nóng phừng phừng. Tôi cắn răng quỳ trước vạch xuất phát, cố sức thực hiện mọi động tác một cách hoàn hảo.
- Bắt đầu, chạy…
Lá cờ hiệu vẫy phía trước. Tôi lao người khỏi vạch vôi.
- Dừng lại… Tư thế chuẩn bị vẫn chưa được… Lần nữa…
Ông Gia gằn từng tiếng.
Tôi không nhìn vào bộ mặt to nung núc của ông giáo nữa. Toàn thân căng thẳng tựa sợi dây đàn. Trước mắt tôi, mọi vật như nhòa hết. Từ lá cờ hiệu đỏ, cặp mắt rưng rưng của chị Bội tới những ngấn nước mắt óng ánh trên má Loan. Tất cả trôi trong sương mù.
Hết giờ thể dục, tôi về lớp, gục xuống bàn và lên cơn sốt.
Không hiểu vì sao, bố Thế biết chuyện ngay. Bố đèo tôi về nhà:
- Chịu khó uống thuốc cho khỏi mà đi học con ạ. Sắp thi rồi.
Bố dặn tôi, vẻ buồn bã.
Tôi trùm chăn lên đầu vì bỗng dưng rét run như giữa mùa đông. Rồi tôi chìm vào giấc ngủ mê mệt. Nhưng lúc đang chập chờn, tôi còn nghe rất rõ tiếng cành cạch vang xa dần. Đó là tiếng mảnh nhôm gác-đờ-bu ở xe bố Thế bị rách làm đôi, đập vào nhau. Tiếng động đó quá quen thuộc. Có lần tôi nói:
- Bố ơi, xe của bố là bà lão gãy răng.
Bố Thế cười hiền lành, đáp:
- Thì bố cũng là ông lão gãy răng chứ trẻ trung gì?
Đúng là răng của bố sứt một chiếc thật.
Tôi nghỉ mất năm hôm. Thứ ba tuần sau tôi mới đi học được. Tụi bạn reo hò mừng rỡ. Không đứa nào nhắc tới chuyện giờ kiểm tra chạy cho tôi quên đi. Nhưng lúc ra chơi, Yến sếu bỗng kéo tôi ra hành lang thì thào:
- Hôm qua, tớ thấy ông Gia đèo chị Bội lên công viên.
Tôi nhìn chị Bội. Chị hỏi han tôi với vẻ ngượng ngùng. Tôi bảo Yến:
- Im ngay, nếu lộ chuyện, đằng ấy sẽ khốn khổ như tớ thôi.
Yến sếu sợ, im tắp lự.
Ly cũng đã đi học lại. Nó đem cho tôi một gói bánh đậu Hải Dương to tướng. Dì ruột của Ly vừa ghé thăm nó chiều qua. Những ngày học nối tiếp trôi qua. Tôi mải miết chép và làm những bài tập trong các ngày nghỉ ốm nên bận rộn quên đi mọi sự. Tối thứ bảy, buổi học cuối trong tuần, chúng tôi bỗng có giờ nghỉ. Bố Thế nhận được điện từ quê báo tin mẹ ốm đã về từ trưa qua. Tụi bạn rủ nhau xuống sân đá bóng. Riêng tôi, tôi mới ốm dậy nên không tham gia. Tôi thơ thẩn trèo lên nóc bể đựng nước chơi. Tôi chưa nói với các bạn rằng trường tôi có một bể xi măng lớn. Bể đào chìm trong lòng đất, chỉ nhô phần thân trên chừng một thước tây. Thành và nắp bể rất dày, xi măng láng bóng. Mùa mưa, hai ống máng dài chạy dọc mái trường hứng nước tuôn vào bể xối xả. Khi bể cạn, chúng tôi thường thò đầu vào trong hét lên và nghe tiếng dội lại âm u ghê rợn như tiếng con quỷ ngồi trong lòng đất. Dạo ấy bể lưng lưng nước nên ông bảo vệ đóng chặt hai chiếc nắp lại. Chúng tôi tha hồ chạy nhảy trên bể, ngồi truy bài hoặc chơi ô. Từ bể có con đường nhỏ dẫn tới nhà vệ sinh. Hai bên đường, vườn bạch đàn liễu tươi tốt rủ lá xuống. Khi leo lên nóc bể, tôi chợt thấy một bóng người mặc quần áo trắng đi giữa lối mòn qua vườn bạch đàn ấy. Ngay tức khắc, mặt tôi nóng bừng lên. Hình ảnh con đường kẻ vạch vôi, cặp bàn đạp bằng sắt và lá cờ hiệu phất phất hiện lên ngay trước mắt. Một ý nghĩ như tia chớp vụt qua. Rồi ý nghĩ đó xâm chiếm tôi không kịp đắn đo gì. Tôi nhìn quanh. Không một bóng người. Cả lớp dồn xuống sân bóng hết. Chỉ một mình tôi đứng trên nóc bể và nhìn thấy ông Gia vào nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh của trường gồm bốn ngăn buồng nhỏ xây gạch, nóc đổ bê tông kiên cố. Phía trước có bức tường che cao vượt đầu người lấp cả dãy cánh cửa phía trong. Các cánh cửa đều bằng gỗ lim dày, che kín từ bực thềm tới mái không hà tiện hở đầu hở đuôi như các nơi khác. Bởi thế người ngồi bên trong không thể nào nhìn thấy người đứng bên ngoài. Tôi tính toán lại lần nữa, rồi tới đống bàn ghế hỏng chờ sửa chữa của trường, chất gần bể nước dưới một mái tôn che tạm. Tôi vác chiếc ghế băng cụt chân, dày và nặng. Đi theo lối mòn giữa vườn bạch đàn, tôi đem xuống nhà vệ sinh, chống lên cánh cửa đang đóng kín mít, còn đâu kia gối lên bức tường che phía trước. Có lẽ hai người đàn ông lực lưỡng hè nhau cũng không du đổ bức tường kiên cố đó.
Tôi lên lớp lấy cặp. Tụi bạn đang xem đá bóng dưới sân gọi ơi ới:
- Bê ơi, làm gì về sớm thế? Xuống đây xem một tăng.
Tôi đáp:
- Mệt lắm. Tớ về đây… Các đằng ấy có về tới đợi.
Một vài đứa lác đác bỏ cuộc về theo tôi. Rồi cả lớp bỏ về hết. Sân trường vắng tanh.
Chiều thứ bảy là buổi chiều duy nhất trong tuần tôi được đi chơi tự do. Ăn xong, tôi chuồn sang nhà Loan ngay. Cô bạn báo tin:
- Ngày mai mẹ tớ cưới rồi.
Tôi thương Loan quá. Gọi một người tốt là bố thì không sao. Nhưng gọi cai Cân là bố thì khổ thật. Tôi bảo bạn:
- Ra đảo chơi.
Loan lặng lẽ gật đầu. Với nó, đi đâu bây giờ cũng vui hơn ngồi nhà nhìn cai Cân nhe răng vàng ra cười cợt.
Chúng tôi ra sông. Chiếc thuyền tôn của bà An Lạc đã buộc sẵn ở cây cọc. Trên thuyền vương vãi và sợi rong xanh và mấy cánh bèo dập nát. Bà đã đi lấy rau lợn rồi và chúng tôi có thể yên trí rong chơi. Loan ngồi đàng hoàng rồi, tôi thong thả đẩy thuyền ra rồi nhảy lên, chèo. Nắng chiều nhè nhẹ phủ lên dòng nước làn ánh sáng tươi tắn, lộng lẫy. Bầu trời vàng rực nhưng êm dịu vì những cơn gió đẫm nước bay từ đầm sen bát ngát bên kia sông tràn tới, mang theo mùi thơm trong suốt thanh cao. Những cây cỏ trứng ếch rập rờn bên roi cát..
- Trời đẹp quá
Tôi thốt lên kêu, lòng nhẹ lâng lâng.
Loan thở dài:
- Mình chán lắm, ngày mai phải về ở nhà cai Cân rồi.
Tôi chợt nghĩ, đúng thế thật. Ngày mai cai Cân cưới cô Lưu. Cô sẽ giao nhà cho chủ mới và theo lão về ở căn nhà có sáu buống. Hẳn mẹ con cô sẽ phải ở căn nhà ngang phía dưới mà lão vừa thuê thợ quét vôi, sửa sang lại. Mấy đứa con trai ghê gớm của lão không đời nào chịu nhường ngôi nhà trên cho người khác. Dân thị trấn đã bàn tán ba bốn tuần lễ nay. Họ chờ đợi cai Cân đối xử với mẹ con cô Lưu ra sao, một khi lão đã nắm hết vàng lẫn tiền bán nhà trong tay.
Tôi bảo:
- Buồn làm quái gì? Nếu lão giở mặt thì sang nhà tớ ở.
Chúng tôi lên đảo Hoa Vàng, kiểm tra lại kho tàng. Mọi thứ nguyên vẹn, riêng khoai nghệ lác đác nảy mầm. Sợ để lâu khoai xốp nên chúng tôi dỡ xuống thuyền đem về nhà. Trước khi chèo thuyền về, tôi rủ Loan sang nhà thằng bé chụp cá chơi nhưng cô bạn từ chối. Chúng tôi trở lại thị trấn vào lúc sao Hôm vừa mọc nơi chân trời phía tây, long lanh như hạt nước lớn. Những hàng phượng vĩ hứng ráng chiều hóa thành màu vàng rơm, trông xa như phủ lớp bụi kim nhũ. Lũ trẻ nhỏ ùa ra hè phố, chạy nhảy la hét. Và mấy ông già lững thững dạo chơi giữa bọn chúng, vẻ thung dung.
Tôi hôm đó, Loan ăn cơm với tôi rồi ngủ lại luôn.
Sáng hôm sau, chủ nhật, mẹ tôi bảo hai đứa:
- Dẫu sao hôm nay cũng là ngày vui của mẹ, cháu nên về. Còn Bê, con mang đồ mừng sang cho cô Lưu và nói rằng mẹ xin phép ở nhà vì có việc bận.
Mẹ đưa cho tôi một mảnh lụa hoa dâu trắng, gói trong giấy mỏng. Hai đứa tôi vâng lời ra đi. Tôi chẳng cần mô tả lại cái đám cưới trớ trêu đó cho các bạn phiền lòng. Đám cưới gì mà cô dâu ra phòng ngoài tiếp khách thì cười, vào trong buồng trong lại khóc nức nở như mẹ chết. Chỉ cai Cân là liên tục nhe hàm răng vàng ra cười hí hí, hơ hơ một cách khả ố, vô duyên. Khi tôi và Loan tới, cô Lưu vội vã gọi chúng tôi vào buồng. Tay cầm món quà tặng của mẹ tôi, tay ôm con gái vào lòng, cô khóc tức tưởi như đứa trẻ bị đòn oan, nước mắt rơi xuống đầu Loan lã chã. Loan cũng sụt sịt khóc theo. Và tôi, cầm lòng không nổi, khóc theo nốt. Mấy bà phù dâu vào gọi cô Lưu rối rít. Cô lau nước mắt, ra ngoài. Tôi và Loan chuồn về nhà, ăn cơm. Ngày cưới của cô đối với chúng tôi là như vậy.
Sáng hôm sau, thứ hai, tôi với Loan cắp sách tới trường. Dọc đường, tôi nhớ lại việc làm của mình ngày thứ bảy, vừa lo vừa hả hê trong dạ. Tới lớp , tôi nghe ngóng xem có ai bàn tán về việc ông Gia bị nhốt trong khu nhà vệ sinh không.
Nửa giờ sau, tin ông Gia bị nhốt trong nhà tiêu hôm thứ bảy lan khắp trường. Đám học sinh nhỏ thì thầm, mắt to mắt bé. Những anh chị khối chín, khối mười thì cười ha hả, vui vẻ đùa cợt không giấu giếm:
- Hề quá nhỉ… Thằng nhóc nào nghĩ ra cái trò ấy cũng hay. Ngồi trong nhà xí tha hồ cho thầy Gia suy tư nhé.
- Ừ, thừa thời gian nghĩ cách tán tỉnh các em nữ sinh khau kháu.
- Lớp nào lão cũng chõm một cô. Học sinh thắc mắc, bép xép là lão trù cho khốn khổ. Các cậu biết chuyện thằng Xít 9B không?
- Có nghe loáng thoáng. Cậu kể lại đầu đuôi cho rõ.
- Thằng này vốn nghịch ngợm nhưng lại rất lễ độ với các thầy cô. Tuy nhiên, lão Gia này thì chẳng đáng là thầy. Tuần trước tập nhảy ngựa, lão vờ vĩnh kiếm cớ ôm lưng con Bích. Bích mắt ngọc thạch ấy mà. Thằng Xít bưng miệng không được, cười phá lên. Lão bẽ mặt, cáu lắm. Giờ sau, lão kiếm cớ bắt thằng bé nhảy ngựa suốt nửa tiết học dưới trời nắng chang chang… Ha, ha, cái trò này chắc cậu Xít nghĩ ra để trả hận đây… Ha ha ha… Đáng lắm…
Lời bàn tán, người đi lại rộn rịp, ầm ĩ ngoài hành lang. Tôi rút lui vào lớp, ngồi xuống ghế. Yến sếu tới bên cạnh:
- Bê, mày có biết thằng Xít không?
- Biết.
- Thằng ấy trông thế mà ghê thật. Liệu cậu cả có bị đuổi học không nhỉ?
Tôi quay mặt, đáp dửng dưng:
- Biết đâu đấy…
Tuy nói vậy, đầu tôi nóng bừng lên: câu chuyện đã xoay sang hướng khác. Trước đây, tôi hồi hộp chờ phút người ta tìm được thủ phạm, và chuẩn bị tư thế giơ lưng ra chịu đòn. Giờ, bỗng nhiên một kẻ khác phải hứng chịu thay tôi. Một cậu học sinh vô tội. Nỗi lo sợ bay mất, thay vào đó là nỗi hổ thẹn và buồn bã. Tôi cảm thấy nhục nhã như mình là một tên móc túi mà đang tâm nhìn người khác bị còng tay dẫn vào trại giam. Trống trường điểm thùng thùng. Tiết học thứ năm kết thúc. Từ các lớp, học trò đổ ra ào ào. Tôi đi lẫn vào dòng người đông đúc, mặt cúi gằm, trán vã mồ hôi. Qua văn phòng, tôi liếc mắt nhìn. Ở gian chính, bốn bề mở cửa toang, một cậu học trò mặc quần xanh, áo trắng, ngồi đối diện với bà hiệu trưởng. Ở giữa là chiếc bàn có quả cầu nhựa màu xanh. Cậu học trò nói vài câu rồi đưa tay áo lau nước mắt. Mặt bà hiệu trưởng lạnh như nước đá, không hề máy động. Đôi mắt bà mở rộng sau cặp kính. Còn gương mặt cậu kia thì tái nhợt đi…
“Đó là Xít. Đó là người chịu tội một cách oan uổng thay mình…” – tôi nghĩ, cố gắng bước cho nhanh qua cửa văn phòng. Loan hạt mít lạch bạch chạy sau:
- Bê ơi, đợi tớ với! Làm gì mà đằng ấy như ma đuổi vậy?…
Tôi không trả lời, bước vùn vụt.
Chiều, cố gắng lắm tôi mới học thuộc bài. Những dòng chữ nhảy nhót lung tung, không chịu sắp thành hàng lối trong trí nhớ. Học xong, tôi lơ láo nhìn những người qua đường. Một con nhện to kềnh giăng lưới trên cửa sổ, tôi cũng không buồn đuổi. Hình ảnh cậu học trò xa lạ với gương mặt nhợt nhạt đầm nước mắt cứ hiện lên. Hẳn chiều nay cậu phải ngồi viết bản kiểm thảo. Không tham dự, không làm, không biết… nhưng chắc chắn bà hiệu trưởng buộc cậu phải nhận lỗi. Cả trường chúng tôi không ai quên được vụ kỷ luật Đào Ca năm ngoái…
Đào Ca là học sinh 8D, con một người đàn bà gầy còm, bán kim chỉ và đồ vặt ngoài chợ. Ông bố Ca làm thợ mộc, nhưng quanh năm rượu chè nên không bao giờ đưa cho vợ được một đồng nuôi con. Nhà sáu miệng ăn, ngoài giờ học Ca phải bán thêm kẹo kéo. Mặt mũi cậu ta lúc nào cũng ủ ê, cau có. Bỗng nhiên, trường bị mất năm cân đường chuẩn bị cho hội thi văn nghệ. Không hiểu người nào đó xướng lên rằng thủ phạm chỉ có Đào Ca, vì hoàn cảnh khó khăn, vì chính bản thân cậu thường phải tìm mua đường trắng ở cửa hàng về nấu kẹo. Ý kiến đó lọt vào tai bà hiệu trưởng. Bà vốn nổi tiếng về sự sắt đá. Bà tin là sự thật. Bà quyết bắt Ca phải nhận lỗi. Cậu phải viết đi viết lại một trăm hai mươi hai bản kiểm điểm, từ chỗ không biết gì đến chỗ hoàn toàn nhận tội và miêu tả cụ thể, ngày giờ, cách thức lấy trộm năm cân đường. Hơn ba tuần ngồi viết kiểm thảo, Đào Ca đờ đẫn như kẻ mắc chứng tâm thần. Sau khi nhận tội, cậu ta được hưởng kỷ luật khoan hồng của bà là cảnh cáo ghi lý lịch và lưu ban. Nhưng Đào Ca không đủ sức theo học nữa. Cậu nghỉ luôn và trở nên ngờ nghệch như mắc chứng tâm thần thật sự. Đào Ca nghỉ học được một tháng, công an tới trường báo đã phát hiện ra kẻ trộm. Đó là gã con trai lớn của ông bảo vệ trường, hai mươi tám tuổi, làm nghề đẽo đá đóng cối xay và bia mộ. Gã làm thợ thì tồi nhưng xoáy vặt thì rất giỏi. Nhờ những vụ trộm liên tục, công an mới tóm được gã một cách đột ngột, tường tận, không thể chổi cãi…
Mọi người thương xót Đào Ca . Duy chỉ có bà hiệu trưởng tỏ ra không xao động. Mặt bà lúc nào cũng uy nghiêm, lạnh lùng. Một gương mặt như chạm bằng đá rắn. Lúc đó tôi nghĩ rằng những người đàn bà ham quyền lực còn khắc nghiệt hơn cả đàn ông. Tôi rờn rợn khi gặp bà. Điều đó sau này trong cuộc đời tôi thấy hoàn toàn đúng.
Trở lại sự việc của mình, nỗi day dứt giày vò tâm trí tôi. Bà hiệu trưởng nhất quyết bắt Xít nhận lỗi, dù phải viết tới năm trăm bản kiểm thảo. Trước đây bà đã chẳng bắt Đào Ca từ không đến có đó là gì?… Xít sẽ không thể nào chống đỡ. Sẽ không ai an ủi, dìu dắt được cậu trong cơn tai biến này. Sẽ không ai cứu cho cậu thoát khỏi vòng oan nghiệt..
- Mình phải làm việc ấy. Mình phải đứng lên nhận hình phạt.
Tôi tự bảo mình. Nhưng cặp mắt bà hiệu trưởng hiện lên sau lớp kính trắng, lạnh lùng và nghiệt ngã. Đừng hy vọng một sự khoan dung nào ở bà. Bà sinh ra đời là để trừng phạt và chỉ thế thôi. Những học sinh khối mười đã nhiều lần bàn tán về bà như vậy. Nhận tội, tôi sẽ bị đuổi học tức khắc. Trời ơi, con cô giáo Hạnh mà bị đuổi học sao? Mẹ tôi sẽ nói năng với bạn bè đồng nghiệp thế nào?…
Còn Xít bị đuổi học, mẹ cậu ta sẽ khó mà sống nổi. Bà ấy gầy như que củi, suốt ngày ngồi đan sau chiếc tủ kính đựng len, những sợi gân xanh nổi như cọng rau muống trên làn da trắng bệch vì thiếu máu. Bà goá chồng từ năm ba mươi lăm tuổi, ở vậy nuôi Xít và mắc bệnh đau tim đã sáu bảy năm nay. Tôi nỡ nào để một người mẹ yếu đuối như vậy đau khổ?
Nhưng Xít chỉ là một học sinh bình thường. Còn mình được cả trường biết đến tên tuổi. Nào là học sinh xuất sắc, diễn viên kịch trứ danh, vận động viên thể dục mềm dẻo số một…
Bao nhiêu vinh quang. Tất cả sẽ rơi rụng hết một khi tôi đứng trước văn phòng, nghe bà hiệu trưởng tuyên án…
Đầu óc quay cuồng, tôi mở tung cửa chạy ra hè phố.
Lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nắng đã nhạt. Một đoàn xe ngựa chạy qua đường. Những chiếc chuông rung reng reng. Từng con ngựa bụi bặm, mỏi mệt lắc bờm diễu qua mắt tụi nhóc, nửa như phớt lờ, nửa như trêu chọc. Lũ trẻ reo hò, đuổi theo chúng tới tận ngã ba đường. Trên hè phố trơ lại hai đứa bé. Một thằng to béo, má đỏ, trông nhanh nhẹn. Thằng kia thấp nhỏ, yếu đuối hơn. Hai đứa bị đám trẻ lớn gạt lại nên đành đứng trông theo đoàn xe ngựa. Mặt chúng tần ngần một cách tội nghiệp, lát sau thằng bé to béo rủ bạn chơi bi. Chúng cởi hai chiếc cặp da có quai đeo, đặt vào gốc cây cơm nguội, rút phấn trong túi quần vẽ lồ rồi bắt đầu bắn bi. Lát sau, thằng lớn ăn gian, đút viên thuỷ tinh mới có múi khế xanh đỏ vàng của bạn vào túi. Rồi nó xách cặp chạy về nhà. Thằng bé bị mất oan viên bi không dám chạy theo đòi. Nó đứng lặng yên nhìn theo kẻ cướp giật kia, nước mắt ứa qua bờ mi, lăn hối hả trên gò má. Cặp mắt thằng nhỏ xanh trong, tròng đen màu nâu có những rạch sáng. Những giọt nước mắt của nó cũng trong suốt như thủy tinh. Tôi đến gần dỗ:
- Nín đi em, nín đi…
Thằng bé ngước cặp mắt trong veo nhìn tôi. Và ngay lúc đó, nỗi hổ thẹn khiến miệng tôi đắng nghẹn lại. Tôi có khác gì thằng bé lừa đảo kia. Tôi cũng gạt tội lỗi cho kẻ khác mà kiếm phần hơn cho mình. Tôi không dám hỏi thằng bé nữa, bỏ vào nhà.
Loan hạt mít cũng vừa sang:
- Đằng ấy ốm à? Sao xanh tái như tàu lá thế?
Tôi gượng gạo đáp:
- Ừ, chóng mặt…
- Thôi, đúng rồi. Đằng ấy bị cảm gió. Năm nay trời độc lắm, người già con trẻ ốm la liệt ra.
Loan bắt tôi nằm xuống giường để nó xoa dầu đánh gió. Tôi mặc cho nó làm vì chính tôi cũng thấy bải hoải như ốm thật. Vừa làm, Loan vừa nói lem lém:
- Tớ vừa gặp ông Gia xong.
- Ở đâu?
- Hiệu phở. Mặt ông ấy to ơi là to. Tớ sợ không dám mua phở phải vác bát vào chợ mua cháo lòng cho mẹ tớ.
- Sợ gì?
- Sợ chứ. Nghe Yến sếu bảo ông ấy tuyên bố trước hội đồng giáo viên là không tìm được đứa nào nhốt ông ấy vào nhà xí và đuổi học thì ông ấy sẽ nghỉ dạy.
- Nghỉ thì đã có người khác. Thiếu gì giáo viên thể dục.
- Nhưng ông ấy lại là em chồng bà hiệu trưởng. Anh rể Yến sếu làm trên Ty giáo dục nói rằng ông Gia bị kỷ luật ở trường cũ phải đổi đi Lào Cai nhưng bà Vinh xin về đây. Bà ấy mạnh cánh lắm. Hiệu trưởng nào cũng phải sợ
Tôi lặng im. Dẫu sao, tôi cũng đã quyết định rồi. Và dù tai ương có khủng khiếp đến đâu tôi cũng không thay đổi ý nghĩ.
Sớm hôm sau, tôi tới trường. Bố Thế ở dưới quê vừa lên. Bố đem cho chúng tôi một gói quýt và khoai lang luộc. Cả lớp xúm xít vây quanh:
- Bố ơi, bà khoẻ chưa hả bố?
- Khoẻ rồi. Tưởng cụ chết. Nhờ châm cứu với mấy chén thuốc bắc, cụ lại hồi.
- Cô con khoẻ không ạ?
- Cây táo vườn sau còn quả không bố?
- Luống khoai dong riềng dỡ hết chưa mà bố không đem lên đây luộc?…
Bố Thế tươi cười trả lời lần lượt những câu hỏi. Rồi bố ngạc nhiên nhìn tôi:
- Con Bê làm sao thế? Mọi ngày mồm mép như tép nhảy cơ mà?
Loan nhanh nhẹn đáp:
- Thưa bố, Bê ốm từ chiều qua.
Bố Thế đặt bàn tay thô nháp lên trán tôi:
- Ô, trán hơi nóng mất rồi. Mày đã uống thuốc gì chưa?
Bố nhìn vào mắt tôi, hỏi. Bao giờ bố cũng chỉ có môt kiểu nhìn như vậy: trung thực và tin cậy.
Tôi nghĩ bụng: Với một con người như bố, chỉ có quỷ sứ mới có thể dối trá được. Cảm giác kinh hãi thoáng lướt qua như cơn gió lạnh khiến tôi bất giác rùng mình. Rồi tôi thu hết can đảm ngẩng lên nhìn vào mắt bố và nói:
- Bố đi về phòng đi… Con có chuyện này…
Có lẽ thầy chủ nhiệm của tôi cũng đoán được đôi phần điều hệ trọng sau câu nói của tôi. Bố Thế không cười nữa, dắt tay tôi đi dọc hành lang trở về phòng. Đám bạn trong lớp ngơ ngác nhìn theo.
Khi bố Thế vừa mở cánh cửa, dẫn tôi tới ghế ngồi thì tôi bỗng bật lên khóc. Những cơn nấc dữ dội như những làn sóng bị dồn nén từ lâu trong mạch nước theo nhau trào ra, ào ạt xối xả khiến tôi mụ mẫm cả người. Tôi khóc như đứa trẻ con bị đòn oan, ngây ngất không chú ý tới mọi vật xung quanh mình. Cổ họng khản đặc. Mắt sưng húp lên. Hai ống tay áo và khoảnh bàn tay tôi tì lên ướt đầm đìa. Chưa bao giờ tôi khóc như hôm ấy. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên giường bố Thế, chiếc chăn hoa mỏng đắp tới tận cằm. Giường bên kia, thầy Bách ngáy khò khò. Bố Thế ngồi chấm bài ở bàn. Góc bàn, một chiếc lồng bàn nhỏ đậy phần cơm. Thấy tôi ngồi dậy, bố quay lại bảo:
- Dậy xúc miệng rồi ăn cơm kẻo đói lả bây giờ.
Tôi trả lởi:
- Thưa bố vâng.
Nhưng tôi hoàn toàn không thấy đói. Giờ này, chắc mẹ tôi đã đi dạy học rồi. Hôm nào tôi về muộn, mẹ cũng để phần cơm tôi như thế này.
Bố Thế pha một cốc nước chè nóng với đường cho tôi uống rồi gạt chồng bài kiểm tra sang bên, ngồi đối diện với tôi.
- Lúc ngủ, mày nói mê loạn xạ… Bố phải dấp khăn ướt trùm lên trán mới thôi. Nào, sự việc ra sao, kể cho bố biết.
Tôi bắt đầu kể hết mọi chuyện: Từ chuyện tôi và Loan thấy ông Gia tán tỉnh chị Bội tới giờ kiểm tra chạy tôi bị trù. Cuối cùng là sự việc sáng thứ bảy tuần trước, khi lòng căm tức đã xui khiến tôi có hành động dại dột.
Tôi kể xong, bố đứng dậy.
- Giờ bố con ta xuống văn phòng minh oan cho cậu Xít. Rồi mọi chuyện sẽ tính sau.
Chúng tôi xuống văn phòng. Quả nhiên, Xít đang ngồi ảo não trước tờ giấy trắng. Trông cậu ta thiểu não. Đường gân xanh nổi phập phồng bên thái dương. Sau tấm bàn, bà hiệu trưởng đang ghi chép gì đó lên cuốn sổ tay bọc da lớn bằng cuốn sách vỡ lòng. Không khí lặng lẽ đến mức nghe rõ tiếng mọt đục kèo trong chân bàn. Hai thầy trò bước vào. Bà hiệu trưởng không ngẩng lên, cất tiếng hỏi:
- Có việc gì thế anh?
- Tôi muốn nói với chị chút việc riêng.
Bà hiệu trưởng ngước mắt nhìn. Đôi mắt lạnh và sắc của bà khiến tôi run rẩy. Bố Thế biết tôi sợ, quay lại nói:
- Con ra ngoài sân chơi. Lát nữa bố gọi.
Tôi chào bà hiệu trưởng, chạy ra ngoài. Chừng năm phút sau, Xít ra theo. Cậu ta rón rén lại gần gốc cây phượng, nơi tôi đang ngồi:
- Này, bạn đã nhốt lão Gia đấy à?
Cậu ta cất tiếng hỏi, vừa rụt rè vừa hồ nghi.

Tôi gật đầu, không đáp.
Xít đi vòng quanh, vẫn bằng dáng điệu rón rén e sợ, rồi sau khi thở một hơi dài, quả quyết, cậu ta gọi tôi:
- Bạn này.
Tôi ngước mắt lên:
- Gì cơ?
Xít rón rén ngồi xuống cạnh tôi:
- Bạn là con gái mà ghê thật đấy. Bạn không sợ bà Vinh đuổi học hay sao?
- Có sợ.
- Thế sao bạn lại dám nhận tội?
- Tôi không nhận thì anh bị đuổi học thay tôi. Mà anh bị đuổi học, mẹ anh sẽ buồn phiền mà chết.
Xít im bặt. Rồi lát sau, cậu ta khe khẽ nói:
- Cám ơn bạn nhé.
Tôi đáp:
- Chẳng cần đâu.
Cậu trai tần ngần:
- Có cách nào thoát được không nhỉ?
Tôi lắc đầu:
- Chẳng cần. Tôi làm, tôi chịu.
Xít cau mày:
- Bạn biết tính bà hiệu trưởng chứ? Mà lão Gia lại là em ruột của chồng bà ta.
Tôi gật đầu:
- Biết rồi.
Xít hạ giọng thì thầm:
- Bạn có biết từ hôm qua tới giờ bà Vinh tra khảo tôi những gì không? Cứ thế này kéo dài một tuần chắc tôi ốm chết…
Tôi nói:
- Tôi thì chẳng sợ tra khảo. Tôi nhận rồi mà.
Xít ái ngại nhìn tôi, thở dài sườn sượt:
- Thế cũng chẳng sung sướng gì hơn. Bạn sẽ bị buộc thôi học ngay trong vòng một tuần.
- Đành vậy thôi.
Tôi đáp và quay đi. Tôi không muốn Xít nhìn thấy cặp mắt sưng mọng của mình. Chưa bao giờ tôi khóc trước mặt bạn trai. Xít cũng đoán được ý tôi. Cậu ta băn khoăn đi đi lại lại một hồi rồi chụp mũ lên đầu, chào tôi ra về.
Nửa giờ sau, bố Thế gọi tôi:
- Con hãy nói cho cô Vinh nghe mọi chuyện.
Bố ngồi bên tôi. Tay bố nắm cánh tay tôi khiến tôi vững dạ. Tôi đủ minh mẫn để thuật lại đầy đủ những sự viêc dẫn tói hành động cuối cùng của mình. Bà hiệu trưởng vừa nghe vừa gõ nhịp chiếc bút lên bàn. Tôi nói xong, bà hất bàn tay lên:
- Cho cô ra ngoài.
Tôi đi ra. Bố Thế còn ngồi lại nói chuyện với bà cho tới khi trời tối. Sương buông xuống, phủ trên đồi bạch đàn. Cánh đống xung quanh mờ mờ như bị xông khói. Bố Thế lấy xe đạp đưa tôi về nhà. Bố dặn tôi đừng nói cho mẹ tôi biết chuyện.
Tôi hôm đó, ngồi trước ánh đèn, tôi bỗng thấy chua xót tràn ngập tâm hồn. Tôi là một học sinh gương mẫu, tôi muốn mãi mãi là trò giỏi, là vận động viên xuất sắc, là diễn viên không chuyên nghiệp nổi danh của tỉnh, tên tôi mãi mãi ghi trên tấm bảng danh dự của trường… Lạy trời, ông giáo thể dục này từ đâu tới phá vỡ cuộc sống tươi sáng ngọt ngào của tôi? Vì sao cuộc đời lại có những con người khả ố thế và vì sao lòng căm tức lại xui khiến tôi có những hành động liều lĩnh như vậy?… Không một nàng tiên nào giáng thế để trả lời những câu hỏi cho tôi. 

Thứ Sáu, tháng 4 19

HÀNH TRÌNH NGÀY THƠ ẤU (truyện dài ) Chương 5

                                                        SỰ KIỆN THÁNG TƯ

Sang tháng tư rồi. Hàng phượng vĩ trên sân trường loé lên vài ngôi sao đỏ. Đầu tuần tôi bỗng trượt chân ngã. Trán sưng một cục to bằng quả ổi và đầu gối bị trầy rớm máu. Điều đó cũng chưa tệ hại bằng chiếc quần âu ka ki xanh mẹ tôi vừa may cho bị rách ngay trước gối. Lỗ thủng to bằng đồng xu, thịt hở ra trắng phếu. Đi tới trường ngay thì không được, mà quay về nhà thì sẽ trễ giờ. Nghĩ một lát, tôi mở cặp xé mẩu giấy nháp, lấy bút tô cho màu giấy xanh đen lại, tôi xin bà Tô béo sợi bún dán vào quần.
- Con bé kia, dạo này còn ra sông chơi không hả?
Bà bún riêu gẩy vào tay tôi mấy sợi bún, miệng quát to.
- Thưa bà, dạo này cháu không dám đi nữa ạ.
- Liệu hồn, con nam nhận xuống nước thì không ai cứu nổi đâu con ạ. Bố mày ở tít tắp mù khơi, mà mẹ mày chỉ có một mụn con gái hiếm hoi… Nghịch vừa chứ…
Bà quát oang oang rồi dứt thêm cho tôi mấy sợi bún nữa. Tôi cảm ơn bà, chạy ra một góc dán mẩu giấy vào lỗ thủng nơi đầu gối. Xong xuôi, tôi yên tâm rảo bước tới trường.
Giờ đầu là giờ hoá. Tôi đọc kỹ lý thuyết, làm bài tập trên bảng, lĩnh gọn một điểm năm của bố Thế rồi trở về chỗ. Bất đồ, mẩu giấy dán rơi xuống. Lạy trời, khi nằm trơ trên nền đá hoa, trông nó mới buồn cười làm sao. Tôi ngượng ngùng cúi lom khom che lỗ thủng nơi đầu gối. Cả lớp cười ồ lên. Bố Thế ngơ ngác nhìn lũ học sinh. Khi vỡ lẽ, bố cũng bật cười. Tiếng cười hiền lành như tiếng cười của một ông lão nông dân, vẫn đem chổi lúa hoặc rổ rá vào thị trấn bán. Hết giờ học, bố Thế gọi tôi:
- Bê!
- Dạ.
- Đi đâu thế?
- Con ra chơi ạ.
- Hừm… Ăn mặcthế mà ra sân chơi hả?... Học bao nhiêu giờ nữ công rồi mà còn lấy giấy dán vào quần rách?... Con gái đoảng. Phải phạt cho mày một trận thôi.
Bao giờ bố Thế cũng xưng bố và gọi chúng tôi bằng mày hoặc cô, cậu. Khi nào bố xưng tôi và gọi các em theo đúng phép thường là lúc đó bố đang cực kỳ giận dữ trước những khuyết điểm của lũ chúng tôi.
Thấy tôi nghếch mắt nhìn. Bố Thế vẫy tay:
- Xuống đây với bố.
Chúng tôi đi tới khu nhà tập thể của giáo viên trong trường. Bố Thế xin một mảnh vải vá bằng vải xanh, một cây kim và sợi chỉ dài. Đoạn bố dẫn tôi trở lại căn buồng nhỏ sát phòng thí nghiệm, nơi bố cùng ở với thầy Bách dạy toán.
- Đóng cửa vào, vá quần cho nghiêm chỉnh – bố nói.
- Nhưng… sắp đến giờ sinh rồi ạ… - tôi rụt rè đáp.
- Giờ nào cũng bỏ. Chép bài, tự học sau. Lớn rồi, không được phép cẩu thả trong sinh hoạt. Một lần này phải nhớ đến già nghe chưa?
Nói xong, thầy vớ hộp thuốc lào trên bàn, bỏ vào túi, đi ra. Tôi đóng chặt của, cởi quần dài, trùm chăn ngồi vá. Đó là lần đầu tiên tôi thấy bố Thế tỏ ra nghiêm khắc với mình.
Chiều hôm đó, lớp tôi cùng cả khối đào mương giúp một hợp tác xã kết nghĩa với trường. Trời oi ả khó chịu. Chừng nửa buổi, mưa ập xuống tưới xối xả lên đầu tóc, mặt mũi mọi người. Lũ con trai reo hò, nhảy cẫng lên dưới dòng nước trắng xóa. Lũ nhóc như tôi cũng vậy. Đứa nào đứa nấy thi nhau há miệng, thè lưỡi nếm nước mưa, chạy đuổi, té nước vào nhau và la hét ầm ĩ. Chỉ có các chị lớn tuổi là khổ sở. Các chị đứng túm tụm vào nhau, cố sức lấy nón che lớp áo quần lướt thướt dính chặt vào người. Chị Bội lớn nhất đám. Người chị nở nang, khỏe mạnh. Lớp áo phin ướt dính vào da khiến chị giống như một bức tranh khỏa thân thời Phục hưng mà thầy dạy vẽ cho chúng tôi xem trong giờ ngoại khóa. Chị ngượng ngùng vì đám học sinh khối trên đứng đen đặc xung quanh. Trong số đó hẳn có nhiều anh chàng đang theo đuổi, tán tỉnh chị. Lẽ thứ hai là ông giáo thể dục mới cũng ở đây. Đứng trong đám giáo viên bộ môn nhưng cặp mắt hẹp và dài của ông ta dán vào tấm thân ướt đầm của cô nữ sinh một cách miệt mài. Tụi con trai trong lớp nhận ra điều đó trước tiên. Chúng nhấp nháy nhau, thì thào:
- Kìa, xem ông Gia “tia” chị Bội… Khiếp quá, đứt mất đuôi mắt rồi.
- Tụi mày chú ý nhé… Sắp rồi, sắp rồi… Đấy, tao nói có sai đâu. Ông ấy giả vờ hỏi chuyện bố Thế nhưng mắt cứ nhìn chòng chọc vào bà Bội nhà ta…
Tôi nhìn bố Thế. Đúng là bố đang nói gì đó với ông Gia thật, nhưng quay mặt đi nơi khác. Bố già biết hết mọi chuyện… Bố già biết hết – tôi thầm nghĩ
Mưa vừa tạnh, trời lại nắng ngay. Chúng tôi lao vào xắn đất. Đang làm, Ly bỗng lảo đảo, ngã quỵ xuống. Chúng tôi xúm lại đỡ lấy nó. Tất cả đều luống cuống chưa biết xử trí ra sao thì bố Thế tới. Bố áp má vào trán Ly nghe ngóng rồi lẩm bẩm:
- Thằng bé sốt cao quá. Có lẽ nó bị ốm trước khi đi làm.
Ngước nhìn chúng tôi, bố hỏi”
- Không đứa nào biết nó ốm hay sao?
Chúng tôi nhìn nhau, đáp lí nhí:
- Thưa bố không ạ.
- Gọi ngay y tá công trường tới đây.
Bố ra lệnh. Trưởng lớp ba chân bốn cẳng chạy ngay. Nhưng y tá công trường nào thấy… Chị ta đã tót lên huyện từ lúc hai giờ. Đám người chạy về lã chã mồ hôi, lắc đầu ngao ngán. Trong lúc đó, bố Thế đã xoa dầu cao lên hai thái dương, sống mũi, cổ họng và ngực cho người bệnh. Ly nằm trên tay bố, mắt nhắm nghiền, mặt đỏ như trái cà chua chín. Bố Thế nhìn không dứt hai mí mắt tím xanh, run giật từng hồi của cậu ta. Nghe nói y tá lên huyện rồi, bố lẳn lặng xốc Ly lên lưng cõng chạy về phía đường nhựa. ruộng lổn nhổn đất, bờ cao bờ thấp mấp mô, bước chân bố Thế đôi lúc loạng choạng như muốn ngã. Dù sao bố cũng đã bước tới tuổi già.
- Bố để tụi con khiêng cho… Bố không cõng được mãi đâu…
Lũ chúng tôi lếch thếch chạy theo, nài nỉ.
- Võng đâu mà khiêng?... – bố quay lại nói – Chúng mày quay lại làm kẻo lớp vắng nhiều quá. Hai đứa đi theo bố.
Chẳng ai phân công nhưng tôi cùng lớp trưởng ra đi, còn mọi người trở lại công trường. Lớp trưởng nhiều tuổi nhất, chững chạc nhất, lo toan việc lớn. Tôi bé nhưng láu lỉnh, nhanh nhẹn, sẽ đóng vai đầu sai. Vả lại xưa nay bố Thế vẫn có ý chiều tôi hơn mọi người tí chút, nên tôi đi theo bố cũng là lẽ thường tình.
Tới đường, may sao chúng tôi gặp một chiếc com-măng-ca của bộ đội. Thấy đứa bé ốm trên lưng một người đàn ông, các anh tự động dừng xe lại, đón chúng tôi lên bệnh viện.
Ở phòng cấp cứu của viện, người ta tiêm cho Ly ba ống thuốc liền, rồi cho nó thở bằng ống cao su dẫn tới một bình kim khí sáng choang, đồ sộ. Sau đó, họ đưa nó sang buồng khác, có sáu chiếc giường sắt nhỏ sơn trắng. Ly vẫn nóng như chiếc bánh mì trong lò, mắt nhắm nghiền, những đường gân xanh phập phồng trên cổ. Bố Thế bảo chúng tôi:
- Thằng bé bị thương hàn.Trong hai đứa mày, phải có một ở lại đêm nay với nó.
Lớp trưởng đáp:
- Thưa bố, con ạ.
Nhưng sau đó anh im lặng ngay, gương mặt hiện rõ vẻ bối rối. Tôi biết nhà anh nghèo, và đêm đêm anh thường đóng gạch xỉ để lấy thêm tiền giúp mẹ. Tôi nói:
- Anh về đi, em sẽ ngủ lại đây. Qua phố, báo cho mẹ em một tiếng nhé.
Lớp trưởng không trả lời, đứng tư lự. Bố Thế gật đầu, vuốt tóc tôi:
- Con Bê giỏi lắm.
Bố móc túi, rút ra chiếc ví da to phồng những giấy tờ, vét tất cả ngăn lớn, ngăn nhỏ mới được bốn đồng:
- Chiều nay ăn bánh chưng với phở thay cơm nhé. Mai bố sẽ liệu sau…
Đưa tiền cho tôi xong, bố và lớp trưởng ra về. Tôi đứng giữa sân bệnh viện, nhìn hút theo chiếc áo xi ta bạc màu và dáng lù khù quen thuộc của người thầy cho tới khi khuất hẳn. Rồi tôi quay vào phòng, ngồi cạnh Ly. Ly ngủ. Tôi nhìn quanh phòng. Năm giường khác đều có người. Nhưng họ đều ở trạng thái hôn mê hoặc tê liệt mọi hoạt động tinh thần khiến tôi rờn rợn. Mặt người nào người nấy nhợt nhạt như nặn bằng sáp, mắt nhắm nghiền hoặc mở thao láo nhưng bất động như mắt cá chết. Tôi tưởng những ánh mắt vô hồn của họ như dính vào mặt tôi. Ánh mắt trắng đục của họ như những sợi dây vô hình trói chặt tôi vào nỗi sợ hãi. Bên ngoài căn phòng là một rặng cây tối om. Rồi xa hơn nữa là trái đồi đất đỏ. Trên trái đồi đó, những ngôi mộ nằm rải rác với những nắm chân hương và tàn tro, những chiếc bát cắm hương nghiêng ngả và những vòng hoa đen lại. Dưới chân đồicó một căn nhà nhỏ, quét vôi trắng toát. Đó là nhà xác của bệnh viện. Trong ánh chiều, tôi nhìn rõ hai người hộ lý mặc bờ lu trắng đang khiên một chiếc băng ca phủ vải đi vào. Dưới làn vải, thò ra đôi chân vàng khè…
Càng ngồi lâu, càng nhìn những cảnh vật xung quanh, nỗi sợ hãi trong tôi càng tăng lên. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Mắt tôi căng ra nhìn. Lúc nào tôi cũng chờ đợi một cái xác gầy đét trên giường bỗng vùng dậy, túm chặt lấy tôi. Giá không vì Ly đang nằm đó, không vì nghĩ tới bố Thế và lời hứa danh dự của mình, tôi đã bỏ chạy. May sao chừng hai mươi phút là cô y tá trực tới. Cô mũm mĩm, hồng hào khiến tôi cảm thấy như được sưởi lửa và nỗi sợ hãi cùng không khí lạnh lẽo trong phòng tan biến đi. Cô nhìn tôi:
- Sao cháu tái xanh đi thế, đói à?
Tôi khẽ gật đầu không nói.
Cô lại bảo:
- Cô trông cho. Đi ăn kẻo tối sập xuống bây giờ.
Tôi cám ơn cô, đi nhanh như chạy khỏi phòng. Bầu trời và không gian bên ngoài như một thế giới thần tiên sau nửa giờ ngồi trong căn phòng nồng nặc mùi thuốc sát trùng và mùi người ốm. tôi ra ngay cửa bệnh viện. Ở đây có một dãy quán cơm bình dân, phở, bún, bánh cuốn và các thứ bánh gói lá lẫn hoa quả. Cơm phở ở đây nổi tiếng bẩn và đắt. tôi ăn hai chiếc bánh chưng. Hồi đó, năm hào một chiếc bánh chưng to bằng miệng bát cơm, nhân đậu xanh thịt nạc thịt mỡ hẳn hoi. Tôi ăn hai chiếc bánh xong đã no căng bụng. Mua thêm hai chiếc kẹo bột lớn nữa mới hết đồng mốt. Còn hai đồng chín, tôi giữ lại, vào bếp ăn bệnh viện uống nước nhờ. Nghĩ tới cảnh vào lại phòng bệnh nặng tôi sởn gai ốc… Nhưng dẫu sao, cũng không thể để Ly nằm đó một mình. Tôi thu hết can đảm, không nghĩ tới những cặp mắt trắng như mắt cá chế nhìn mình nữa, bước vào. Trong phòng, cô y tá trực béo tốt, hồng hào vẫn ngồi đan. Thấy cô, tôi sung sướng hơn cả khi thấy mẹ tôi về chợ. Tôi buông màn, rúc vào nằm cạnh Ly ngủ đi lúc nào không biết.
Sớm hôm sau, người đánh thức tôi không phải là cô y tá má đỏ mà là một người đàn ông đeo kính gọng đồi mồi.
- Này, con búp bê nhà ai rơi vào phòng bệnh thế?
Ông hỏi. Bàn tay trắng nõn như tay thiếu nữ vuốt má tôi. Tôi ngồi dậy, ngơ ngác nhìn gương mặt nửa hiền, nửa nghiêm của ông.
- Cháu lạc từ tủ kính nào đến đây vậy?
Người đàn ông đeo kính trắng nhắc lại? Tôi giụi mắt cho tỉnh ngủ rồi trả lời ông rằng tôi là bạn cùng lớp với cậu bé đang nằm mê mệt trên giường. Tôi đã nhận ở đây trông cậu ta trước thầy chủ nhiệm. Vì thế tôi phải thực hiện đúng điều đó…
- Ô ô ô…
Người lạ - tôi đoán là ông bác sĩ kéo dài tiếng ô ngạc nhiên rồi vỗ vai tôi:
- Cô bé kỳ diệu… Khá lắm… Bằng tuổi cháu, giá có thuê vàng, chú cũng không dám ngủ qua đêm ở một phòng bệnh như thế này. Khá, khá thật…
Tôi nóng bừng mặt lên. Tôi không thích người ta khen ngợi tôi như thế, nhất là trước đám đông. Những người bệnh trong phòng giương mắt nhìn trừng trừng vào mặt tôi. Còn hai cô y tá đi theo ông bác sĩ thì cứ tủm tỉm cười. Tuy nhiên, vẻ mặt ông ấy thật đôn hậu nên tôi không nỡ ác cảm. Ngược lại, tôi thích đôi mắt đen long lanh của ông sau cặp kính dày, những ngón tay hồng hồng sạch sẽ, và chiếc cổ áo sơ mi kẻ ô nhô lên trên cổ áo bờ lu. Vì thế, sau khi khám bệnh và cho đơn thuốc, ông gọi tôi tới phòng ông chơi, tôi liền đi ngay.
Phòng ông ở cũng sạch sẽ như ông vây. Tường quét vôi màu cẩm thạch non, trưo những bức tranh phong cảnh và dây vạn niênthanh lá lốm đốm trắng.
- Cháu ăn kẹo nhé. Khi nào trực đêm, chú phải có hộp kẹo trên bàn… Nào, ăn đi cô bé, đừng làm khách như người lớn thế, chẳng đúng điệu tí nào đâu…
Ông bác sĩ dốc những viên kẹo đủ màu sắc lên một chiếc đĩa sứ trắng trên bàn. Kẹo thật ngon. Bên trong lớp vỏ đường, ruột kẹo trong suốt, dai và thơm như múi quất vậy. Ông bác sĩ ngồi đối diện với tôi, cũng nhón kẹo ăn ngon lành như tôi và uống nước chè từng ngụm nhỏ. Mắt ông rất sáng và tràn ngập niềm trìu mến. Chúng tôi nói chuyện thật dễ chịu. Câu chuyện đang vui, tôi chợt nhớ đến Ly và ân hận đã để nó một mình. Biết đâu, khi tôi ngồi đây nó đã chẳng tỉnh cơn mê, thức dậy. Tôi bỏ rơi viên kẹo trên tay xuống đĩa.
- Cháu về đây.
Ông bác sĩ ngước nhìn tôi ngạc nhiên:
- Sao vậy?
- Cháu xin phép chú… có thể bạn cháu thức dậy rồi.
Tôi giải thích và không kịp chờ ông đáp lại, chạy luôn. Ông bác sĩ đứng dậy đi theo tôi. Tới chỗ ngoặt, tôi còn thấy bàn tay trắng nõn của ông giơ lên:
- Chào cô bé…
Tiếng ông vang tới tận cuối hành lang, ấm và êm dịu. Sau này, tôi không bao giờ còn gặp lại ông. Nhưng tôi vẫn nhớ ông với một ấn tượng hoàn hảo. Và tôi cứ tin rằng, tất cả những bác sĩ thật sự trên đời đều có gương mặt đẹp, tâm hồn dịu dàng, đôi mắt đen long lanh sau kính và hai bàn tay thiếu nữ…
Tôi vừa bước vào phòng bệnh đã thấy Ly mở mắt thao láo nhìn mình. Nó đã tỉnh. Chưa kịp hỏi han cậu bé thì một người đàn ông béo sồ sề như người đàn bà chửa, đầu hói, tóc lưa thưa bước vào. Một tay ông ta cầm cuốn vở kẻ ô, tay kia cầm bút chì gõ gõ vào tấm bảng treo đầu giường Ly nằm:
- Giường số 6, bệnh nhân mới ăn gì?
Giọng ông ta cấm cửu. Tôi và Ly nhìn nhau:
- Ăn gì?
Ông ta nhắc lại, nghe khó chịu hơn. Ly thì thầm:
- Cháu… ăn cháo ạ…
- Ăn mấy ngày?
- Dạ…
Quả tình chúng tôi cũng không hiểu phải báo ăn mấy ngày ở đây. Ông to béo nhăn mặt gõ cây bút chì cành cạch mạnh hơn nữa:
- Ăn mấy ngày thì phải báo mau để tôi ghi sổ.
Tôi đáp liều:
- Ba ngày ạ…
- Ba tám hai mươi tư. Mỗi ngày tám hào, ba ngày hai đồng tư, nộp tiền mau.
Người đàn ông vừa nói vừa hí hoáy ghi những con số vào cuốn sổ. Mặt Ly bỗng tái mét lại. Nó có đồng xu nào trong túi đâu… Tôi vội vã mở kim băng, lấy tiền giao cho người quản lý. Ông ta đút ngay vào trong may ô rồi đi ra. Lúc ấy tôi mới ngồi lo. Gia tài còn vẻn vẹn năm hào. Cả tôi và Ly đều đói. Thằng bé nhịn ăn, nhịn uống cả ngày qua, mà cháo viện thì tới mười một giờ trưa mới có. Suy đi tính lại, tôi ra cửa bệnh viện mua cho Ly một túm chuối ba hào, mua cho mình một hào sắn luộc. Còn lại một hào, tôi giao cho Ly giữ.
- Ăn chuối rồi ngủ đi nhé. Tớ ra đằng này một chốc. Muốn tè, cúi xuống lấy bô. Đừng ra gió mà ngã chết…
Ly gật đầu ngoan ngoãn.
Tôi ăn sắn xong, hăm hở lên đường. Tôi đã nghĩ được kế rồi. Bệnh viện này nằm trên ngọn đồi, xung quanh là đồng lúa. Từ đây về thị trấn mười bảy cây số, về trường mười lăm cây số, nhưng tới chùa Đông Na chỉ hơn ba cây. Chùa Đông Na là nơi chúng tôi thường rủ nhau ra chơi ngày chủ nhật. Ở đó có một khu vườn um tùm, không biết cơ man nào là ổi.Ngoài ra còn hai cây khế ngọt, hơn một chục gốc na và hai chục cây đu đủ. Bà vãi chùa ngoài bốn mươi tuổi, mặt tròn trặn, phúc hậu. Lần nào chúng tôi đến chơi, bà cũng thổi cơm cho chúng tôi ăn, hái quả chín cho chúng tôi đem về làm quà. Cơm của bà dẻo như bún, thơm phức. Chỉ ăn với tương, với dưa cũng thật là ngon. Mà miệng bà cười thì tươi ơi là tươi:
- Các cháu lên chơi vui quá. Mọi ngày quanh đi quanh lại chỉ có một mình. Ra quét sân chùa, vào nhặt hoa lan rụng, buồn như chấu cắn…
Bà nói với chúng tôi như vậy, kèm theo một lời mời: “Hai tuần nữa lại lên đây chơi với bà các cháu nhé…”
Về phần chúng tôi, mỗi lần lên chùa, chúng tôi đem theo những món quà lặt vặt: những cây nến thắp, vài bao hương sạ, một cuộn chỉ với bao kim khâu, những bộ khuy áo dài lẫn mấy chiếc cúc bấm, một lít dầu thắp đèn, một gói bánh… Bà vãi nhận những món quà đó với môt nụ cười chân thật, khiến lũ tôi vui sướng lâng lâng. Và chúng tôi ríu rít quanh vạt áo nâu của bà, gần gũi với tất cả những gì có trên trái đồi ấy: ngôi chùa nhỏ cũ kỹ, những bức tường loang lổ rêu, cái cánh cổng gỗ kêu cọt kẹt, khu vườn loang loáng ánh nắng chen bóng lá và những con chim nhảy nhót trên cành cao, thinh thoảng lại vắt đuôi ỉa toẹt xuống, nhiều khi đúng vào đầu chúng tôi…
Hăm hở lên đường, tôi vui sướng khi nghĩ tới ngôi chùa thân yêu sắp tới: “Mình sẽ ăn cơm chay với bà vãi. Rồi mình hái đem về cho Ly vài trái đu đủ chín. Nếu trong chum gạo có na rấm nữa thì tuyệt…”
Tôi đến chùa, vừa lúc trời nắng gắt.Mồ hôi thấm vào lưng áo, nhớp nháp. Hai cánh cổng chùa mở toang nhưng không thấy bóng người. Tôi vào sân, cất tiếng gọi:
- Bà ơi, bà vãi ơi…
Tiếng gọi đập vào tường, ngân nga. Không có tiếng ai trả lời, ngoài lũ chim kêu lích nhích trên cành. Tôi vào nhà, sục khắp vườn cũng chẳng thẩy bà vãi đâu. Trước cửa dãy nhà ngang, có hai nong bột phơi trắng xóa, một chum tương mới ngả đậy vải màn và một túm tỏi treo trên dây song căng sát hàng hiên. Đã hơn ba tháng chúng tôi không lên chùa, kể từ ngày xảy ra vụ mất tích Dũng còm, rồi chuyến phiêu lưu kỳ dị trên đảo Hoa Vàng mà dân thị trấn xôn xao bàn tán mãi… Tôi cất tiếng gọi thêm vài lần nữa. Sau cùng không còn hy vọng, tôi tìm hòn gạch viết lên sân chùa:
Cháu đến chơi người bà đi vắng. Cháu hái mấy quả đu đủ chín cho đứa bạn ốm. Khi nào rỗi cháu sẽ lên thăm bà.
Ký tên: Cháu Bê
Bà vãi chùa biết đọc quốc ngữ. Bà sẽ hoàn toàn yên tâm rằng không phải trẻ chăn trâu hái trộm đu đủ trong vườn chùa. Tôi ngắm nghía, chọn mấy quả đu đủ chín nhẩt rồi trèo lên hái. Đu đủ ở chùa đã già, thân nhỏ quắt nhưng cao lêu đêu. Phải bạo gan lắm mới trèo nổi. Nếu run tay,ngã xuống gạch thì ít cũng vỡ đầu hay què cẳng. Lâu không trèo, thoạt tiên cũng run. Nhưng khi đã lên đến lưng chừng, tôi vững dạ trở lại và hái được trái đu đủ tít ngọn cây một cách nhẹ nhàng. Xong xuôi, tôi thong thả tụt xuống. Chân tôi vừa chạm đất, có tiếng quát the thé bên tai:
- A, mày chết với ông…mày chết với ông…
Hai cổ tay tôi bị thít chặt trong gọng kìm. Trước mặt tôi là một ông già mắt đục ngầu, đầu cạo nhẵn, trán thấp và quai hàm bạnh ra dữ tợn. Tôi hoảng sợ lắp bắp:
- Ông ơi, cháu…
- Mày chạy đằng trời, ông bắt được quả tang nhé… Vào đây…
Không chờ tôi nói hết câu, ông ta lôi tuột tôi vào gian buồng đầu dãy nhà ngang, ẩy tôi ngã chổng kềnh rồi đóng sập cửa, cài cái then gỗ lim to tướng bên ngoài vào.
- Ông ơi cho cháu nói hết đã… Cháu quen thân với bà vãi chùa, thỉnh thoảng lại lên đây chơi hái quả. Ông không tin ra sân gạch xem sao, ông ơi…
Tôi cố gắng phân trần. Mặc, lão già đã đặt quả đu đủ sang một bên ngồi đảo bột. Tôi kêu to, thảm thiết:
- Ông ơi, hãy xem dòng chữ cháu viết trên sân… ông ơi…
Nước mắt trào ra, lăn trên mặt tôi, ấm nóng. Tôi vừa liếm những giọt nước mắt mằn mặn vừa cố sức van nài. Nhưng lão già kỳ quái vẫn bình thản ngồi đảo bột, như câm điếc. Tiếng khóc của tôi vang lên giữa các bức tường, rồi lắng dần trong không gian tĩnh mịch. Giờ này mẹ tôi đang dạy học, bố Thế chắc cũng lên lớp, và lũ bạn thân thiết ngồi trong căn phòng đầy ánh nắng nghe bài giảng… Không ai biết tôi bị cầm tù ở đây. Không ai nghe tiếng tôi khóc.
Bỗng có ai đó cào chân tôi. Tôi vùng dậy. Một con chuột to xù chạy xuôi chạy ngược bên người tôi lục lạo. Sau rốt, nó dừng lại gặm lớp da dày dưới chân gót chân tôi một cách ngon lành. Tôi tung chân đá. Con chuột bay bổng lên, kêu chít một tiếng rồi rơi bộp xuống đất, biến ngay. Tôi định thần nhìn kỹ những viên gạch nhớp nháp, mốc meo lát nhà. Khóc mệt quá, tôi đã gục xuống đó ngủ đi lúc nào không rõ. Gian buồng bốc lên mùi chua của men rượu hỏng lẫn mùi ẩm ướt của những đám rêu bám dọc chân tường. Đã từ lâu không ai ở đây. Bà vãi chùa xếp một chồng thúng mủng và đổ đống khoai sọ nơi góc nhà. Mỗi năm một lần, vào ngày lễ chính, người đi lễ từ các nơi xa tới đây thì căn phòng này mới được quét dọn, kê bục, trải chiếu cho họ nằm. Còn lại, nó chỉ là kho chứa đồ lặt vặt. Nhưng cái then gỗ lim bên ngoài thì chắc chắn tới mức không thể nào nghĩ tới chuyện vượt ngục được. Tôi ngồi khoanh tay đặt lên gối, nhìn ra ngoài. Qua ô cửa bé bằng cái tráp đựng trầu, tôi thấy một cành ổi trắng ngà đung đưa trong ánh nắng. Chiều rồi. Chắc đã hơn ba giờ. Bụng tôi đói cồn cào réo lên ùng ục. Tưởng như có bàn tay vô hình nào đó vặn thắt từng khúc ruột, khiến tôi đau quặn lên từng hồi. Nghĩ tới cái đói, lập tức cái đói như bị nhân trăm lần, hành hạ tôi thậm tệ. Mồ hôi tôi vã ra ướt lạnh sau lưng, rồi mắt tôi hoa lên như có muôn ngàn con đom đóm đang nhảy múa. Cái đầu bống nhiên như hóa đá, đè nặng trĩu lên cần cổ. Tôi trào nước mắt, bóp chặt bụng trong lúc đầu óc vẩn vơ mơ tưởng tới những bữa cơm ngon lành ở nhà… Trời ơi, sao những bữa cơm thường nhật đó lại hiện về trong trí nhớ của tôi rõ ràng đến thế? Nào cá rô nướng, dầm nước mắm tiêu, nào canh cua khoai sọ rau rút, nào thịt kho cùi dừa, nào cá quả om sốt cà chua… Lại còn đậu phụ luộc chấm mắm tôm, bánh đa vừng đường ăn lẫn chè kê, đậu đãi…
Ước gì có chiếc đũa thần của một bà tiên phúc hậu ở đây! Chỉ cần gõ nhẹ vào tường, những mòn ăn ngon lành đó sẽ hiện về… Nhưng mơ màng mãi, cũng không có bà tiênnào xuất hiện. Đói quá, rôi đành ao ước một bát bún riêu của bà Tô béo hoặc vài củ khoai luộc. Bụng tôi không réo lên ùng ục nữa mà óc ách như nước suối chảy, rồi nó sôi âm ỉ như nồi cơm sắp cạn. Và sau cùng, nó xẹp xuống một cách thảm hại, không còn dám kêu gào, đấu tranh nữa.
Trời đã tắt nắng. Lão già đi lại lọc cọc ngoài sân. Lúc sau. Mùi cơm chín thơm nức bay tới. A, ra lão thổi cơm. Mùi lúa mới làm tôi hình dung lại những bữa cơm ngon lành với bà vãi chùa. Cứ nhắm mắt cũng thấy được vị đậu dầm tương, nõn khoai xào dầu lạc. Cơn đói vừa dứt lại dấy lên cồn cào. Nhưng giờ tôi đã chịu được. Tôi lắng nghe tiếng lão già ăn cơm bên ngoài. Lão nhai thật to, chóp chép, choạp chạo như lợn tợp cám. Tôi không còn thấy sợ mà chỉ coi thường lão. Mặc dầu đang đói, nhưng giá lão có đem cơm vào, rôi cũng sẽ quay mặt đi… Tôi nghĩ đinh ninh như vậy.
Đêm hôm đó, khi ánh đèn dầu bênngoài tắt phụt và bóng tối mênh mông trùm lên trái đồi Đông Na cũng như căn phòng hôi hám giam tôi, những ý nghĩ ghê rơn chợt ập tới:
- Lão già ác độc có bộ óc ngu độn kia sẽ bỏ quên mình trong gian buồng này. Bà vãi chùa Đông Na không về đây nữa. Và mình sẽ chết một cách thảm thương…
- Điều đó có thật không?
- Có chứ… Rất nhiều khả năng là nó sẽ xảy ra…
Tôi sẽ lả dần trong căn phòng này, áo quần, thịt da đen xám lại. Từng đàn chuột to xù sẽ từ hốc tường bò lên. Thoạt đầu, chúng gặm mười ngón chân tôi. Kế đó, đến mười ngón tay. Sau cùng là bộ lòng và hai lá phổi… Vũ Thị Bê, con gái độc nhất của cô giáo Hạnh, trò yêu nhất của bố Thế, diễn viên xuất sắc trong các buổi biểu diễn văn nghệ và vận động viên số một về thể dục tự do lẫn cầu thăng bằng sẽ biến thành bộ xương trắng giống hoàn toàn bộ xương trong phòng thí nghiệm. Rồi tới kỳ nghỉ phép, bố tôi đeo ba lô bước vào nhà:
- Con Bê của bố đâu? Bố đem cho con chiếc túi thổ cẩm với cái vuốt hổ đây này… Cả mật on và đào Sa Pa nữa…
Lúc đó, mẹ tôi từ trong buồng bước ra, khóc nức nở và nói:
- Còn đâu nữa anh! Con gái mình bị chuột gặm chết rồi. Bộ xương nó treo trong phòng thí nghiệm ấy…
Nghĩ tới đó, tôi khóc òa lên. Nức nở hồi lâu, tôi ngủ thiếp đi. Tới nửa đêm, chuột bò lên găm sột soạt. Tôi quờ tay, đập lia lịa, rồi lại ngủ. Được ít phút, đám chuột già táo tợn lại kêu chít chít xông tới… Cứ thế cho đến khi trời sáng bạch. Mắt díp lại, đầu óc nặng trĩu, tôi ngồi dựa vào tường gà gật ngủ thêm. Chợt thấy tiếng then gỗ lạch cạch ở buồng bên. Rồi nghe giọng bà vãi chùa ngọt ngào vang tới:
- Mau tay lên hộ nào… Thúng đồ lễ nặng quá.
Tôi tỉnh ngủ hoàn toàn, giỏng tai lên nghe ngóng. Bà vãi chùa vui vẻ nói tiếp:
- Ông nhẹ tay cho tôi kẻo gãy hết chuối… Khiếp, đường xa ơi là xa…Ở nhà ông có nhớ cho hai con sáo ăn không đấy?
Lão già đáp lại bằng một giọng cục cằn:
- Nhớ.
Bà vãi tiếp:
- Oản lộc đây, ông ăn buổi sớm cho tốt lành. Qua đêm, vỏ hơi khô nhưng xôi còn dẻo lắm.
Sau đó, có tiếng quạt nón lạch phạch. Rồi lão già nhai oản chóp chép. Hồi lâu, lão thủng thẳng nói:
- Ở nhà, tôi bắt được một con bé ăn cắp đu đủ.
Bà vãi chùa bình thản hỏi:
- Đu đủ đã chín rộ kia à?... Trẻ chăn trâu có thèm, chia cho chúng ít lộc. Vườn tược nhà chùa mà chặt chẽ sao được.
Lão già thủng thẳng nói:
- Tôi giam vào rồi.
Bà vãi hốt hoảng:
- Ông bảo sao cơ?
Lão già nói:
- Tôi giam nó lại.
Bà vãi kêu:
- Chết thật. Có quả đu đủ, sao ông nỡ giam con người ta? Nó ở đâu rồi?
Lão già ho một tiếng:
- Đấy…
Tiếng chân bà vãi bước hối hả trên hàng hiên. Cái then gỗ kêu lách cách bên ngoài cánh cửa. Tôi rùng mình, người nóng rần rật và nước mắt tự dưng trào ra đầm đìa hai má:
- Mô phật! … - bà vãi kêu to rồi chạy vào. Cháu Bê đấy à? Khổ thân quá, ông ấy giam cháu từ bao giờ?...
Nỗi uất ức và căm giận dâng lên khiến tôi nghẹn họng. Tôi quay mặt vào tường. Bà vãi chùa quay lại mắng lão già đứng sau lưng:
- Đứa bé thế này mà ông nỡ giam vào buồng tối. Ông là người hay quỷ thế? Ông không sợ bị ném vạc dầu hay sao?
Lão già đứng thần ra.
Bà vãi chùa ôm vai tôi, khóc:
- Bà xin lỗi cháu nhé, bà xin cháu…
Vì bà khổ tâm thực sự nên tôi mủi lòng. Tôi quay ra.
- Khốn khổ cho bà, bà xin cháu…
Bà vãi nói, rút chiếc khăn nhuộm nâu trong túi lau nước mắt. Tôi nhìn bà, lòng trào lên nỗi xót xa: Vì sao một người đàn bà đôn hậu nhường này lại phải chung sống với một lão già ngu độn, độc ác nhường ấy? Ở đời thật lắm chuyện trớ trêu. Tâm hồn thơ dại của tôi xao động và sửng sốt mãi vì điều đó.
Và vãi chùa khẩn khoản, dỗ dành mãi, tôi mới ăn chút oản và chuối cho bà yên tâm. Chờ tôi ăn xong, bà xếp nào oản, nào chuối, nào oản ngọt bọc giấy kính xanh đỏ vào chiếc thúng con rồi cắp nách, đi theo tôi tới tận của bệnh viện mới quay về.
Mẹ tôi và bố Thế đón tôi ở phòng thường trực. Hai người nhớn nhác vì sự vắng mặt của tôi đêm qua. Tôi kể lại câu chuyện đáng buồn ở chùa Đông Na rồi đem oản, đem chuối vào cho Ly. Nó ăn hết ngay hai cỗ oản, mặt tươi tỉnh ra nhiều. Tôi hứa sẽ trở lại thăm nó rồi theo mẹ về thị trấn. Nhưng tôi đã không thực hiện được lời hứa với Ly vì tai ương đã bất chợt gieo xuống cuộc đời học sinh tươi sáng của tôi, giống như một cành cây gãy bỗng dưng rơi xuống đầu kẻ qua đường xấu số.