Về chưa tới nhà, vừa bước chân vô cổng, nghe tử trong dội ra tiếng má tôi chửi có dây có nhợ, không thua các bà các chị chuyên môn ngoài Bắc. Tôi nói bây giờ vẫn không mọt ai tin, nhưng ngày nay nhớ lại biết thương má tôi thì đã quá muộn, và trong máu huyết tôi biết đâu không có tiêm nhiễm vưởng víu của nỗi oan nghiệt cũ, tôi để má tôi mặc tình kể lể, nào đồ gì đồ gì đủ thứ, hỏi: “Sao bữa nay là ngày mấy, chớ mốt nầy là mùng bảy tháng mười ta là ngày giỗ ông nội mày, mà hồi sớm mới nầy vừa thoát ra khỏi nhà, mày đã te te mất dạng, tao vừa trực nhớ cho trẻ chạy theo kêu, thì nó nói mày đã đi xa lắc xa lơ, vậy chớ mày đi rượt ai đâu mà te rẹt như vậy hử?” Tôi không trả lời, đưa tay nhận thêm sáu đồng bạc dặn mua bột mua đường thêm mua mấy món đồ nấu. Tôi đi thẳng vào trong lục ba hột cơm nguội dằn bụng, chờ má tôi bớt giận đi ngủ, sẽ lén tom góp áo quần cần thiết, gói làm một gói chờ canh khuya sẽ đem trước xuống xuồng, kẻo sáng ôm ra, kẻ ăn người ở thấy, thì lộ hành tung, hư chè hư xôi việc lớn.
Lấy chồng là hạch gác cửa.
Trời đất ôi! Ở trong làng, con thầy cai tổng đến hỏi, cùng trang lứa, cùng học lớp nhứt một thầy, tôi chê “dài lưng tốn vải”, tuy nhà giàu thật, nhưng ăn nói không chọc tôi cười được, một mối khác, Năm Xuân, con bác Cả, đậu bằng thành chung thật, nhưng làm thơ ký cho trường máy Đỗ Hữu Vị, khoe rằng thực là “thơ ký chánh phủ”, tôi không tin, thêm ốm tong teo, e bị lao chăng, mất công đeo khăn tang sớm, mất đẹp! Nay về với anh hạch nầy. Tưởng rằng làm quản gia, một chức khác cho là trọng, ngờ đâu đó là gác cửa ban đêm, và hạch là phiên âm tiếng Ả-rập Hadj, bên xứ họ nghĩa là gì, tôi thật không biết, duy nghe hạch hạch, tưởng đâu là tiếng hắt hơi “hách xì”.
Lo đòi hột xoàn
Mà sướng thật? Bây giờ mới là chinh chông, không nhà không chỗ ở; Thầy cai đưa tôi về khách lầu Nam Việt, đầu đường Sạt-ne (Charner, nay là đường Nguyễn Huệ) tận bờ sông Sài Gòn nên mát mẻ lắm. Ở đặng hai tuần thì thầy cai tính về Trà Vinh, vì đã mãn phép. Thầy mời tôi về theo, bụng tôi cũng muốn như vậy lắm, nhưng Má Tư làm kỳ đà, cản rằng thầy có vợ lớn, có tiếng là dữ, về dưới như “nhục huyền hổ khẩu”. Trong làng vợ thầy cai Phó, không khác trên nầy là bà Nguyên soái, bà Phó soái chớ không chơi, và bộ hạ của chúng, tôi làm sao lại. Nghe vậy hồn vía tôi lên mây nên đòi ở lại, túng thế thầy phải dọn phố cho tôi hẹn đến lễ Chánh chung (chánh trung) cách-to ru-dết (14 juillet) sẽ lên thăm.
Lúc ở khách sạn với thầy cai, bụng tôi đang bấn loạn lo việc anh Hạch dầu sao cũng là mối tình đầu, tôi rầu rĩ cả ngày, bỏ hết mọi việc, việc âu yếm với thầy cai tôi cũng bơ phờ, mặc cho duyên mới mảng sầu tình xưa, tóc biếng chai gương biếng soi, nghĩ mình đoản hậu quá, nhưng giữa cơn cụp lạc, thầy cai khen nét tôi ủ dột bằng mười điếm trang. Trong trí nhớ hai cái hột kia còn gởi Má Tư mà tôi cũng không lo đòi. Thầy cai dỗ tôi cách nầy cách nọ đủ thứ, tôi được trớn lại càng nhõng nhẽo. Giá thử má tôi lên gặp tôi lúc nầy thì xấu hổ cho con biết mấy. Ai tập tành mà tám nghề bảy ngón như vầy? Nay thầy cai về dưới rồi, tôi rảnh tay rảnh chân, sực nhớ hai hột kim cương tôi qua đòi má thì hỡi ôi, má nói đã cầm rồi, chờ vài tháng có tiền sẽ chuộc. Cha chả? Nghe mà tức ói máu! Té ra nào là vàng chuỗi neo kiến gì của tôi, má đã lấy một bận rồi, cái tấm trinh của tôi má cũng bán đứng ăn rồi, nay đến lượt hai hột xoàn nầy, má cũng toan giựt nữa. Của người ta cho tôi bao nhiêu, một mình má ăn hết ráo trọi. Vừa vừa vậy chớ. Công má tôi mang nặng đẻ đau, công tía tôi dạy dỗ nên người, sanh ra tôi nuôi cho lớn khôn nên vai nên vế rồi để cho má một mình lợi dụng. Càng nghĩ càng thấm mật, tức tối vô cùng, nhưng thân phận đàn bà vô thân, nhè đưa cán cho má cầm, lưỡi dao bàn về mình nắm, biết làm sao đây.
Một bữa nọ tôi ngồi chơi trước phố đang rầu buồn, bỗng thấy đàng xa đi lại là thầy thông ở căn bên cạnh. Vừa thấy tôi, thầy đã dở nón cúi đầu chào lễ phép. Mà tôi đã có ý xem, từ hôm tôi dọn về đây cho đến nay, mỗi lần thầy gặp tôi là khúm núm ké né xem tôi như là một bà thần sống. Mà coi bộ người nầy thật là nết na đằm thắm, mặt mày thêm hiền hậu không láo nhao như mấy cậu trai lơ kia. Tôi nghĩ trong bụng để mình làm quen và hỏi thăm thầy nầy xem có thể chi kiện má ra toà đòi hai hột xoàn kia được chăng. Người nầy xem bộ đàng hoàng phúc hậu không ba que xỏ lá, ắt tin cậy được. Chờ cho thầy vừa đi ngang nhà, tôi cung kính mời: “Xin lỗi, em mời thầy vào nhà chơi cho em hỏi chút việc”.
Thầy lật đật bước vào, nỗi mừng hai đứa đứa nào hơn? Thầy tươi cười bắt chuyện: “Có việc chi cần dùng đến tôi, xin cô cứ nói, chớ ngại”. Tôi mới thuật nửa úp nửa mở rằng tôi có gởi hột xoàn cho một người, nay họ muốn giựt vậy mình có thể kiện đòi lại được hay không? Thầy hỏi tôi khi gởi có biên lai gì hay chăng. Tôi trả lời rằng không. Tôi thấy mặt thầy có vẻ buồn lo. Thầy hỏi tiếp: “Lúc gởi có ai ngó thấy hay không?”. Tôi lắc đầu. Thầy cũng lắc đầu theo và chắt lưỡi: “Chà! Vậy lấy chứng cớ đâu mà kiện!”. Rồi thầy hỏi dồn: “Mà người ấy có bà con thân thích chi với cô mà cô tin người ta như vậy?”. Tôi đáp cũng mới quen có ít tháng nảy mà thôi. Thầy ngó tôi và chậm rãi nói: “Thưa cô, chuyện nầy thiệt khó hiểu. Nói thiệt, nếu cô muốn cậy tôi thì tôi rất sẵn lòng vừa giúp cô dầu khó nhọc cách mấy tôi cũng không câu nệ, vì thấy cô coi bộ ít quen biết với ai ở đây. Song cô phải tin tôi, mà đọc lại cho rõ ràng mọi sự, thì hoạ may tôi có thế toan tính gỡ rối cho ra, nếu thưa kiện không xong, thì có thế khác. Chớ cô nói không cặn kẽ thì tôi biết mối đâu mà gỡ”. Thấy tôi do dự, thầy lại tiếp: “Có lẽ cô mới biết tôi lần thứ nhứt mà đem tâm sự giải bày thì cũng ngỡ ngàng cho cô đó chút. Cô cho tôi hỏi: Vậy chớ cái người cô gởi hột xoàn đó, cái thế họ còn ở đây lâu dài, hay họ là người trôi nổi bình bồng, nghĩa là cô có sợ nó bỏ đất Sài Gòn mà đi mất biệt hay không?”. Tôi cười liếc mắt tình tứ mà rằng: “Không, dạ thưa thầy không. Người ấy ở đây hoài hoài, hổng có đi đâu hết. Cái sự người ấy trốn, thiệt tôi không sợ”. Thầy mừng mà rằng: “Như vậy thiệt là may. Việc đâu còn có đó. Cô với tôi nay ở gần nhà, thủng thẳng đây sẽ biết thêm nhiều và quen lớn thêm nhiều. Ngày nào cô đủ sức tin tôi thì cô sẽ nói, cung chẳng muộn chi!”.
Chẳng biết sao nghe lời thầy nói một cách hiền từ thành thiệt quá, làm cho tôi hết e lệ hổ ngươi, lúc ấy tôi coi thầy thư là người anh ruột hay là một người thân thích đã quen biết từ chín mười năm rồi vậy, nên tôi bèn thuật lại đâu đuôi gốc ngọn, các sự việc ra sao, không sót một điều, một mảy may. Tôi lại ráng đem hết cái tài văn hoa ăn nói của cái xứ Kim sơn, Xoài hột ra mà dùng, không câu người nầy bang bằng sắc nàng Thuyền, mà phải câu bằng đầu môi chót lưỡi của nàng Điêu trong Tam quốc chí. Duy khi nghe tôi dùng chữ “diếm” thay vì nói “dám”, thầy cười mà hỏi tôi có phải người gốc gác Sầm giang Rạch ông Hổ chăng. Tôi hỏi tại sao thầy biết. Thầy cười nói tiếp: “Thưa cô, vì cô không dám phạm huý chữ “dám” trùng âm với “giám, thái giám” đụng chạm đến cái tiêu tật hay ấn tật của ngài Tả quan Lê. Tôi cũng là người Chợ Giữa, vì sinh nhai trôi nổi lên đây, như đã nói, càng biết càng thân ấy mà!”. Thầy cười lỏn lẻn nói: “Chuyện nghe đã rõ, thôi cô cứ yên tâm, để tôi về tôi lo kế”.
Cách ba bữa sau, thấy trở lại, dặn tôi: “Con mẹ Tư Hớn đó không phải vừa. Nếu chẳng làm cho nó trúng kế thì dẫu trời đánh nó cung không nhả hai cái hột xoàn kia ra đâu.”. Chừng, thầy kê sát tai tôi nói nhỏ rằng phải làm như vầy, như vầy, và căn dặn tôi đây tới đó phải giấu nhẹm, người khác biết được thì hư chè hư xôi hết.
Lúc ở khách sạn với thầy cai, bụng tôi đang bấn loạn lo việc anh Hạch dầu sao cũng là mối tình đầu, tôi rầu rĩ cả ngày, bỏ hết mọi việc, việc âu yếm với thầy cai tôi cũng bơ phờ, mặc cho duyên mới mảng sầu tình xưa, tóc biếng chai gương biếng soi, nghĩ mình đoản hậu quá, nhưng giữa cơn cụp lạc, thầy cai khen nét tôi ủ dột bằng mười điếm trang. Trong trí nhớ hai cái hột kia còn gởi Má Tư mà tôi cũng không lo đòi. Thầy cai dỗ tôi cách nầy cách nọ đủ thứ, tôi được trớn lại càng nhõng nhẽo. Giá thử má tôi lên gặp tôi lúc nầy thì xấu hổ cho con biết mấy. Ai tập tành mà tám nghề bảy ngón như vầy? Nay thầy cai về dưới rồi, tôi rảnh tay rảnh chân, sực nhớ hai hột kim cương tôi qua đòi má thì hỡi ôi, má nói đã cầm rồi, chờ vài tháng có tiền sẽ chuộc. Cha chả? Nghe mà tức ói máu! Té ra nào là vàng chuỗi neo kiến gì của tôi, má đã lấy một bận rồi, cái tấm trinh của tôi má cũng bán đứng ăn rồi, nay đến lượt hai hột xoàn nầy, má cũng toan giựt nữa. Của người ta cho tôi bao nhiêu, một mình má ăn hết ráo trọi. Vừa vừa vậy chớ. Công má tôi mang nặng đẻ đau, công tía tôi dạy dỗ nên người, sanh ra tôi nuôi cho lớn khôn nên vai nên vế rồi để cho má một mình lợi dụng. Càng nghĩ càng thấm mật, tức tối vô cùng, nhưng thân phận đàn bà vô thân, nhè đưa cán cho má cầm, lưỡi dao bàn về mình nắm, biết làm sao đây.
Một bữa nọ tôi ngồi chơi trước phố đang rầu buồn, bỗng thấy đàng xa đi lại là thầy thông ở căn bên cạnh. Vừa thấy tôi, thầy đã dở nón cúi đầu chào lễ phép. Mà tôi đã có ý xem, từ hôm tôi dọn về đây cho đến nay, mỗi lần thầy gặp tôi là khúm núm ké né xem tôi như là một bà thần sống. Mà coi bộ người nầy thật là nết na đằm thắm, mặt mày thêm hiền hậu không láo nhao như mấy cậu trai lơ kia. Tôi nghĩ trong bụng để mình làm quen và hỏi thăm thầy nầy xem có thể chi kiện má ra toà đòi hai hột xoàn kia được chăng. Người nầy xem bộ đàng hoàng phúc hậu không ba que xỏ lá, ắt tin cậy được. Chờ cho thầy vừa đi ngang nhà, tôi cung kính mời: “Xin lỗi, em mời thầy vào nhà chơi cho em hỏi chút việc”.
Thầy lật đật bước vào, nỗi mừng hai đứa đứa nào hơn? Thầy tươi cười bắt chuyện: “Có việc chi cần dùng đến tôi, xin cô cứ nói, chớ ngại”. Tôi mới thuật nửa úp nửa mở rằng tôi có gởi hột xoàn cho một người, nay họ muốn giựt vậy mình có thể kiện đòi lại được hay không? Thầy hỏi tôi khi gởi có biên lai gì hay chăng. Tôi trả lời rằng không. Tôi thấy mặt thầy có vẻ buồn lo. Thầy hỏi tiếp: “Lúc gởi có ai ngó thấy hay không?”. Tôi lắc đầu. Thầy cũng lắc đầu theo và chắt lưỡi: “Chà! Vậy lấy chứng cớ đâu mà kiện!”. Rồi thầy hỏi dồn: “Mà người ấy có bà con thân thích chi với cô mà cô tin người ta như vậy?”. Tôi đáp cũng mới quen có ít tháng nảy mà thôi. Thầy ngó tôi và chậm rãi nói: “Thưa cô, chuyện nầy thiệt khó hiểu. Nói thiệt, nếu cô muốn cậy tôi thì tôi rất sẵn lòng vừa giúp cô dầu khó nhọc cách mấy tôi cũng không câu nệ, vì thấy cô coi bộ ít quen biết với ai ở đây. Song cô phải tin tôi, mà đọc lại cho rõ ràng mọi sự, thì hoạ may tôi có thế toan tính gỡ rối cho ra, nếu thưa kiện không xong, thì có thế khác. Chớ cô nói không cặn kẽ thì tôi biết mối đâu mà gỡ”. Thấy tôi do dự, thầy lại tiếp: “Có lẽ cô mới biết tôi lần thứ nhứt mà đem tâm sự giải bày thì cũng ngỡ ngàng cho cô đó chút. Cô cho tôi hỏi: Vậy chớ cái người cô gởi hột xoàn đó, cái thế họ còn ở đây lâu dài, hay họ là người trôi nổi bình bồng, nghĩa là cô có sợ nó bỏ đất Sài Gòn mà đi mất biệt hay không?”. Tôi cười liếc mắt tình tứ mà rằng: “Không, dạ thưa thầy không. Người ấy ở đây hoài hoài, hổng có đi đâu hết. Cái sự người ấy trốn, thiệt tôi không sợ”. Thầy mừng mà rằng: “Như vậy thiệt là may. Việc đâu còn có đó. Cô với tôi nay ở gần nhà, thủng thẳng đây sẽ biết thêm nhiều và quen lớn thêm nhiều. Ngày nào cô đủ sức tin tôi thì cô sẽ nói, cung chẳng muộn chi!”.
Chẳng biết sao nghe lời thầy nói một cách hiền từ thành thiệt quá, làm cho tôi hết e lệ hổ ngươi, lúc ấy tôi coi thầy thư là người anh ruột hay là một người thân thích đã quen biết từ chín mười năm rồi vậy, nên tôi bèn thuật lại đâu đuôi gốc ngọn, các sự việc ra sao, không sót một điều, một mảy may. Tôi lại ráng đem hết cái tài văn hoa ăn nói của cái xứ Kim sơn, Xoài hột ra mà dùng, không câu người nầy bang bằng sắc nàng Thuyền, mà phải câu bằng đầu môi chót lưỡi của nàng Điêu trong Tam quốc chí. Duy khi nghe tôi dùng chữ “diếm” thay vì nói “dám”, thầy cười mà hỏi tôi có phải người gốc gác Sầm giang Rạch ông Hổ chăng. Tôi hỏi tại sao thầy biết. Thầy cười nói tiếp: “Thưa cô, vì cô không dám phạm huý chữ “dám” trùng âm với “giám, thái giám” đụng chạm đến cái tiêu tật hay ấn tật của ngài Tả quan Lê. Tôi cũng là người Chợ Giữa, vì sinh nhai trôi nổi lên đây, như đã nói, càng biết càng thân ấy mà!”. Thầy cười lỏn lẻn nói: “Chuyện nghe đã rõ, thôi cô cứ yên tâm, để tôi về tôi lo kế”.
Cách ba bữa sau, thấy trở lại, dặn tôi: “Con mẹ Tư Hớn đó không phải vừa. Nếu chẳng làm cho nó trúng kế thì dẫu trời đánh nó cung không nhả hai cái hột xoàn kia ra đâu.”. Chừng, thầy kê sát tai tôi nói nhỏ rằng phải làm như vầy, như vầy, và căn dặn tôi đây tới đó phải giấu nhẹm, người khác biết được thì hư chè hư xôi hết.
Má Tư trúng kế
Hai ngày kế đó, thầy dắt lại tôi một ông già trông đạo mạo ra phết, và nói: “Ông lão nầy sẽ giả làm ông thân của cô. Vậy khi cô thấy mặt ông tại nhà con mẹ Tư Hớn đó, cô phải làm bộ như cô gặp ông già ruột của cô vậy, nên cô sợ mà chạy trốn vào trong. Còn ổng, ổng làm bộ giận dữ, mắng cô ít tiếng, thì công việc sẽ xong”. Tôi nghe theo lời thầy dặn, nên nói với Má Tư, tôi ở một mình buồn, muốn về ở chung với má cho vui. Má nghe tôi nói thì mừng lắm, biểu tôi bán bớt những gì không cần dùng, rồi dọn về.
Tôi kêu lối xóm bán đồ, mà kỳ thật mấy người nầy vâng lời thầy thông dặn trước nên họ giả đò mua rồi chở đi hết, chờ xong việc sẽ trả lại cho tôi. Xong xuôi, tôi xách hoa ly áo quần, về nhà Má Tư.
Ở chưa đặng bốn năm ngày chi đó, kế thấy thầy thông nọ đi với ông già, xăm xúi bước vô nhà Má Tư mà hỏi lớn: “Phải nhà bà Tư Hớn đây không?”. Chưa ai kịp nói gì, kế ông già ngó trực thấy tôi thì a lại hét rằng: “Con chó chết!”. Tôi la hoảng: “Uý! Trời? Tía tôi!” Vừa la tôi vừa chạy vô buồng để trốn, nhưng ông già nầy còn khoẻ quá áp chạy theo toan đánh. Má Tư đứng cản nơi cửa buồng, ổng vụt la lớn tỏ ra giận dữ: “Còn con mẹ nầy nữa! Bộ muốn chết hay sao? Diếm cản cửa tao? Tao có giấy Biện lý cho tao đi bắt con tao, chớ phải không sao? Nè! Giấy Biện lý đây nè, thấy không?”.
Đưa ra thấy một miếng giấy có con dấu đóng đỏ lòm, rồi ông điểm mặt Má Tư mà rằng: “Tội mấy đụ dỗ con gái tao chưa đúng tuổi thành nhơn, bắt về rước khách, ở tù không sợ; mà mấy còn cả gan diếm cản trở tao à? Nè thầy Sáu Hãy để đó, chạy lại bót ông Cò, kêu lính lại đây tức thì, coi con mẹ nầy còn diếm cứng đầu cứng cổ hay không?”. Thầy Sáu vội vã đứng dậy... nhưng Má Tư sợ đã khiếp vía, nên cầm tay xin thầy khoan đi, để cho má đọc rõ đầu đuôi, oan má lắm!”. Thầy Sáu nạt: “Oan ức gì? Tang tích đã rõ ràng, dụ dỗ gái tơ hành nghề mãi dâm, tội đại hình chạy trời không khỏi?”. Má xuống nước, năn nỉ khẩn cầu, xin tía tôi với thầy nọ ngồi nghe má đọc công chuyện tôi, không phải má dỗ dành, vì tại thấy tôi bơ vơ nên làm phước nuôi tôi vậy thôi.
Tía tôi không tin, biểu má kêu tôi ra giáp mặt cho ổng hỏi. Đó rồi, tôi bước ra, ổng bắt tôi thuật lại rõ ràng tự sự, từ hồi ở nhà bước ra, vân vân. Tôi giả bộ run sợ, đọc lại hết mà không quên chuyện má mượn vàng chuỗi, lại với chuyện tôi gởi má hai hột xoàn mà má chưa trả.
Nghe tôi thuật ra đến đó, má thất kinh: lật đật nói hớt rằng: “Vàng chuỗi với hột xoàn còn đủ đây, tôi có cầm bán gì đâu! Chẳng qua tôi sợ nó khờ, đeo trong mình, chúng gạt lấy hết, nên tôi lập thế cất giùm cho nó, chớ có mất mát món nào đâu!”. Nói rồi vô mở tủ lấy đủ vàng và hột xoàn ra để trước mặt tía tôi và nói rằng: “Đó! Ông coi. Có phải tôi lo lắng yêu thương nó tư chút hay không”. Tía tôi thấy vậy, làm bộ kéo tôi ra đàng trước mà tra gạn tôi song nói nho nhỏ, tuồng như hỏi riêng không cho má biết. Lúc nầy, còn một mình thầy Sáu trong nhà. Má mới lại òn ỉ, lòi cho thầy năm chục đồng bạc uống trà, xin thầy can gián giùm. Thầy chộp năm chục đồng bạc bỏ túi, rồi giả bộ bước ra to nhỏ gì đó với tía tôi. Tía tôi dùng dằng hồi lâu, mới bước vào hốt đống đồ của má đem ra để trên bàn, đưa hết cho tôi mà rằng: “Nè! Đồ đạc của mầy, thì mấy lấy đi. Rồi vô lấy áo quần cho mau, đi theo tao lập tức còn chần chờ thì chết với tao bây giờ!”. Rồi day lại nói với má Tư: “Thím phải biết, con tôi nó hư cũng vì thím. Làm cho tôi tốn hao tìm kiếm nó mấy tháng nay. Vậy thím phải tính sao, chớ việc này khó nín”. Má Tư chẳng biết làm sao, phải đem ra hai trăm đồng, nài nỉ xin bồi thường sở tổn cho tía và xin tía tôi đừng thưa kiện lòng dòng tội nghiệp. Vì trót thương tôi mà má mang hoạ, chớ má nào có dụ dỗ chi tôi. Má thề thôi bán mạng, chửng tía tôi mới nguôi cơn giận, bỏ túi hai trăm bạc và dắt tôi ra cửa. Xong việc tôi dọn nhà lại y như cũ, chừng ấy Má Tư hay đặng mới biết trúng kế, má oán tôi khắc cốt và nghiến răng nghe trèo trẹo. Nhớ lại thầy Sáu nghĩ công khó của thầy, tôi lấy hai trăm bạc của ông già đem về, tôi đền ơn thầy nhưng thầy một hai không chịu lấy. “Tôi lấy năm chục đồng của Má Tư lo cũng đủ. Nhưng tôi đã cho hết ông già kia, thế là vẹn toàn rồi. Còn phần riêng của thầy, miễn đặng giúp ích cho tôi là đủ mừng lòng. Lối xóm với nhau, chút công ty tiểu, nào đáng kể chi”. Tôi ép thế nào, thầy cũng không chịu lấy phải đành cất đó, oan gia hay duyên nghiệp gì đây?
Tôi kêu lối xóm bán đồ, mà kỳ thật mấy người nầy vâng lời thầy thông dặn trước nên họ giả đò mua rồi chở đi hết, chờ xong việc sẽ trả lại cho tôi. Xong xuôi, tôi xách hoa ly áo quần, về nhà Má Tư.
Ở chưa đặng bốn năm ngày chi đó, kế thấy thầy thông nọ đi với ông già, xăm xúi bước vô nhà Má Tư mà hỏi lớn: “Phải nhà bà Tư Hớn đây không?”. Chưa ai kịp nói gì, kế ông già ngó trực thấy tôi thì a lại hét rằng: “Con chó chết!”. Tôi la hoảng: “Uý! Trời? Tía tôi!” Vừa la tôi vừa chạy vô buồng để trốn, nhưng ông già nầy còn khoẻ quá áp chạy theo toan đánh. Má Tư đứng cản nơi cửa buồng, ổng vụt la lớn tỏ ra giận dữ: “Còn con mẹ nầy nữa! Bộ muốn chết hay sao? Diếm cản cửa tao? Tao có giấy Biện lý cho tao đi bắt con tao, chớ phải không sao? Nè! Giấy Biện lý đây nè, thấy không?”.
Đưa ra thấy một miếng giấy có con dấu đóng đỏ lòm, rồi ông điểm mặt Má Tư mà rằng: “Tội mấy đụ dỗ con gái tao chưa đúng tuổi thành nhơn, bắt về rước khách, ở tù không sợ; mà mấy còn cả gan diếm cản trở tao à? Nè thầy Sáu Hãy để đó, chạy lại bót ông Cò, kêu lính lại đây tức thì, coi con mẹ nầy còn diếm cứng đầu cứng cổ hay không?”. Thầy Sáu vội vã đứng dậy... nhưng Má Tư sợ đã khiếp vía, nên cầm tay xin thầy khoan đi, để cho má đọc rõ đầu đuôi, oan má lắm!”. Thầy Sáu nạt: “Oan ức gì? Tang tích đã rõ ràng, dụ dỗ gái tơ hành nghề mãi dâm, tội đại hình chạy trời không khỏi?”. Má xuống nước, năn nỉ khẩn cầu, xin tía tôi với thầy nọ ngồi nghe má đọc công chuyện tôi, không phải má dỗ dành, vì tại thấy tôi bơ vơ nên làm phước nuôi tôi vậy thôi.
Tía tôi không tin, biểu má kêu tôi ra giáp mặt cho ổng hỏi. Đó rồi, tôi bước ra, ổng bắt tôi thuật lại rõ ràng tự sự, từ hồi ở nhà bước ra, vân vân. Tôi giả bộ run sợ, đọc lại hết mà không quên chuyện má mượn vàng chuỗi, lại với chuyện tôi gởi má hai hột xoàn mà má chưa trả.
Nghe tôi thuật ra đến đó, má thất kinh: lật đật nói hớt rằng: “Vàng chuỗi với hột xoàn còn đủ đây, tôi có cầm bán gì đâu! Chẳng qua tôi sợ nó khờ, đeo trong mình, chúng gạt lấy hết, nên tôi lập thế cất giùm cho nó, chớ có mất mát món nào đâu!”. Nói rồi vô mở tủ lấy đủ vàng và hột xoàn ra để trước mặt tía tôi và nói rằng: “Đó! Ông coi. Có phải tôi lo lắng yêu thương nó tư chút hay không”. Tía tôi thấy vậy, làm bộ kéo tôi ra đàng trước mà tra gạn tôi song nói nho nhỏ, tuồng như hỏi riêng không cho má biết. Lúc nầy, còn một mình thầy Sáu trong nhà. Má mới lại òn ỉ, lòi cho thầy năm chục đồng bạc uống trà, xin thầy can gián giùm. Thầy chộp năm chục đồng bạc bỏ túi, rồi giả bộ bước ra to nhỏ gì đó với tía tôi. Tía tôi dùng dằng hồi lâu, mới bước vào hốt đống đồ của má đem ra để trên bàn, đưa hết cho tôi mà rằng: “Nè! Đồ đạc của mầy, thì mấy lấy đi. Rồi vô lấy áo quần cho mau, đi theo tao lập tức còn chần chờ thì chết với tao bây giờ!”. Rồi day lại nói với má Tư: “Thím phải biết, con tôi nó hư cũng vì thím. Làm cho tôi tốn hao tìm kiếm nó mấy tháng nay. Vậy thím phải tính sao, chớ việc này khó nín”. Má Tư chẳng biết làm sao, phải đem ra hai trăm đồng, nài nỉ xin bồi thường sở tổn cho tía và xin tía tôi đừng thưa kiện lòng dòng tội nghiệp. Vì trót thương tôi mà má mang hoạ, chớ má nào có dụ dỗ chi tôi. Má thề thôi bán mạng, chửng tía tôi mới nguôi cơn giận, bỏ túi hai trăm bạc và dắt tôi ra cửa. Xong việc tôi dọn nhà lại y như cũ, chừng ấy Má Tư hay đặng mới biết trúng kế, má oán tôi khắc cốt và nghiến răng nghe trèo trẹo. Nhớ lại thầy Sáu nghĩ công khó của thầy, tôi lấy hai trăm bạc của ông già đem về, tôi đền ơn thầy nhưng thầy một hai không chịu lấy. “Tôi lấy năm chục đồng của Má Tư lo cũng đủ. Nhưng tôi đã cho hết ông già kia, thế là vẹn toàn rồi. Còn phần riêng của thầy, miễn đặng giúp ích cho tôi là đủ mừng lòng. Lối xóm với nhau, chút công ty tiểu, nào đáng kể chi”. Tôi ép thế nào, thầy cũng không chịu lấy phải đành cất đó, oan gia hay duyên nghiệp gì đây?
Bị đánh ghen
Cách đâu mấy ngày thì thầy cai lên. Nghe nói kỳ nầy, thầy ở lối một tuần nhựt mà thôi, chớ không ở lâu đặng vì tới mùa thúc thuế. Lại biểu tôi sửa soạn để theo về dưới ở cho gần, chớ một kiểng hai quê như vầy đã tốn hao thêm rất là bất tiện. Nhưng ngày trước Má Tư có nói vợ thầy dữ lắm, có lẽ ấy là lời Má nói để mình ở lại Sài Gòn cho Má khai thác. Chớ thiếu chi người vợ một vợ hai, nếu mình ở nhỏ nhoi chiều lòn, thì ai đâu nỡ làm hung, - chèo xuôi mát mái đó mà! Lại nữa từ ngày Má Tư trúng kế đến giờ Má oán mình thâm xương, ở đây có ngày không khỏi bị tay Má trả thù, chi bằng để cái đất Sài Gòn nầy cho Má ở mới xong. Vì nghĩ vậy nên tôi bằng lòng ưng theo thầy cai xuống Trà Vinh.
Mãi còn đang sắp đặt trong nhà, bữa kia lối năm giờ chiều, còn sớm bửng, tôi đang ngồi nơi bộ ván trò chuyện với thầy cai, thình lình có lũ đàn bà năm đứa, ào vô kéo tôi vừa đánh đập vừa chửa nhiều lời thô tục tôi không dám viết lại đây. Thêm có mặt mụ chúa đàn đi sau, bước vào xỉ mặt thầy cai, kêu bằng thằng, và vả mắng thậm tệ không còn thể diện gì hết. Cơ khổ! Như vậy mà thầy cai cứ ngồi chịu trận, không nẻ tránh cũng không một lời tranh biện, tôi mới thấy lần thứ nhứt một thằng cha uý phụ không ai hơn.
Trong lúc ấy năm con quỉ sống nó kéo đầu, xé áo, giựt gãy lọi cây kiềng vàng chạm, và đánh tôi thất quốc tha bang. May thay, đang cơn nguy cấp, bỗng đâu thầy Sáu chạy qua, xách roi mây quất bổ mấy con đó bất kể đầu cổ, hét lớn biểu phải buông tôi ra, bằng chẳng vậy, thầy sẽ kêu lính phú-lít (police) đến còng đầu bắt cả phồn, vì chúng bây có phép nào xâm nhập gia cư người lương thiện mà hành hạ người ta như vầy. Thấy thầy bộ quyết liệt quá, mấy con chằng tinh mới chịu buông tôi ra, thầy xách roi rượt chúng ra tới đường, chúng nó tuy chạy mà còn chửi rán. Thầy Sáu biểu tôi nơi ngả sau bước qua nhà thầy ngồi đỡ, còn đám nầy để đó cho thầy. Tôi đi rồi, thầy day lại cay đắng với thầy cai, bảo đã sợ bà như vậy thì đừng có vợ một vợ hai, lại còn khéo dụ dỗ người ta đem về xứ cho bị hại. May mà tôi chưa đi. chứ phải tôi xuống dưới rồi thì ba mạng của tôi cũng chẳng còn. Hú hồn? Ấy cũng nhờ có thầy Sáu hết lòng che chở, cho nên vợ thầy cai không dám đập phá đồ đạc nhà tôi, vì thầy Sáu hăm kêu lính bắt. Nói chí đáng, mụ nầy tuy dữ, nhưng cũng gốc ở vườn mới lên, nên không dám ỷ thị cho lắm. Con mẽ bắt thầy cai lập tức lấy áo quần đi theo mụ ta vô Chợ lớn rồi sáng ngày về dưới mất dạng.
Mãi còn đang sắp đặt trong nhà, bữa kia lối năm giờ chiều, còn sớm bửng, tôi đang ngồi nơi bộ ván trò chuyện với thầy cai, thình lình có lũ đàn bà năm đứa, ào vô kéo tôi vừa đánh đập vừa chửa nhiều lời thô tục tôi không dám viết lại đây. Thêm có mặt mụ chúa đàn đi sau, bước vào xỉ mặt thầy cai, kêu bằng thằng, và vả mắng thậm tệ không còn thể diện gì hết. Cơ khổ! Như vậy mà thầy cai cứ ngồi chịu trận, không nẻ tránh cũng không một lời tranh biện, tôi mới thấy lần thứ nhứt một thằng cha uý phụ không ai hơn.
Trong lúc ấy năm con quỉ sống nó kéo đầu, xé áo, giựt gãy lọi cây kiềng vàng chạm, và đánh tôi thất quốc tha bang. May thay, đang cơn nguy cấp, bỗng đâu thầy Sáu chạy qua, xách roi mây quất bổ mấy con đó bất kể đầu cổ, hét lớn biểu phải buông tôi ra, bằng chẳng vậy, thầy sẽ kêu lính phú-lít (police) đến còng đầu bắt cả phồn, vì chúng bây có phép nào xâm nhập gia cư người lương thiện mà hành hạ người ta như vầy. Thấy thầy bộ quyết liệt quá, mấy con chằng tinh mới chịu buông tôi ra, thầy xách roi rượt chúng ra tới đường, chúng nó tuy chạy mà còn chửi rán. Thầy Sáu biểu tôi nơi ngả sau bước qua nhà thầy ngồi đỡ, còn đám nầy để đó cho thầy. Tôi đi rồi, thầy day lại cay đắng với thầy cai, bảo đã sợ bà như vậy thì đừng có vợ một vợ hai, lại còn khéo dụ dỗ người ta đem về xứ cho bị hại. May mà tôi chưa đi. chứ phải tôi xuống dưới rồi thì ba mạng của tôi cũng chẳng còn. Hú hồn? Ấy cũng nhờ có thầy Sáu hết lòng che chở, cho nên vợ thầy cai không dám đập phá đồ đạc nhà tôi, vì thầy Sáu hăm kêu lính bắt. Nói chí đáng, mụ nầy tuy dữ, nhưng cũng gốc ở vườn mới lên, nên không dám ỷ thị cho lắm. Con mẽ bắt thầy cai lập tức lấy áo quần đi theo mụ ta vô Chợ lớn rồi sáng ngày về dưới mất dạng.
Có chồng khác
Xong cuộc rồi, thầy Sáu mới nói tôi rằng: “Cô có biết làm sao vợ thầy hay mà lên làm hùm hổ như vậy không? Ấu là mưu độc của má Tư Hớn. Thầy biết chắc như vậy, vì lúc hai đàng ấu đả, có Má Tư đứng ngoài xa thị thiềng nhưng không lọt qua mắt thầy.
Còn năm con chết bằm vào ăn xía đánh tôi là năm con ở lậu em út của Má, chớ không ai xa lạ. Đây chắc là Má dò biết thày cai lên với tôi lại sẵn biết thầy có tánh thờ bà sợ vợ nên Má tuốt xuống Trà Vinh trục vợ thầy cai lên đánh tôi bỏ ghét, và trả thù luôn thể. Thầy Sáu tiếp:
- Chẳng phải tôi dám xúi cô chia uyên rẽ thuý, thôi lấy thầy cai, song cô suy nghĩ lại coi, cô chọn người như vậy mà trao thân gởi phận, thì sao yên? Phận cô thì mảnh mai bồ liễu, thêm tứ cố vô thân. Chuyến nầy con mẹ cai giữ chặt thì trông mong gì thẩy thoát được mà lên trên nầy, vả lại chàng va bị bắt tại trận, phen nầy ắt thề bán mạng không tới lui với cô nữa, thì không bỏ mà cũng như bỏ, thêm nữa ở đây con yêu già kia còn, không biết nó sẽ bày mưu thiết kế gì nữa để hại cô. Đã biết cái sự binh vực cô, thì tôi đây sẵn lòng luôn luôn, dầu cho sẽ bị hại khốn khổ cách mấy, tôi cũng chẳng từ nan, ngặt một điều, tôi với cô bất quá là người hàng xóm, anh em với nhau mà thôi, nhưng ở đởi có nhiều khi gặp cơn hoạn nạn, anh em cũng phải cua tay không phép gì cứu đặng. Vậy cô nên suy nghĩ kỹ mà sớm liệu chọn đôi bạn khác thì mới tiện cho.
Thầy nói cũng có lý, mà hiện nay tôi biết ai đâu mà chọn lựa bây giờ? Lại nữa ơn thầy hổm rày che chở, tôi biết lấy chi mà trả? Xem chửng coi bộ thầy ta thương tôi lắm, song thầy lấy lòng quân tử ngay thẳng, chẳng muốn thừa cái sự tôi mang ơn mà ép tôi vầy duyên nhưng tôi coi bộ không có cái chi làm cho thầy có phước và vui lòng bằng được lấy tôi làm vợ.
Suy xét kỹ càng rồi, tôi mới vừa cười vừa nói với thầy như vầy:
- Thầy nói nghe rất phải, nhưng tôi có thấy ai thương tôi thiệt tình đâu mà hòng trao tơ kết tóc. Ngay bây giờ tôi thấy có một mình thầy hết lòng giúp đỡ tôi. Vậy nếu thầy không chê, tôi xin gá nghĩa cùng thầy, trước đền ơn che chở, sau có chỗ dựa nương.
Tôi nói chưa dứt lời, thầy mừng thôi quýnh quýn, chạy a lại hôn tôi và ôm tôi vào lòng, mà nước mắt chảy đầy má không hay.
Từ đó vợ chồng tôi ở với nhau hết sức thuận hoà vui vẻ. Thầy Sáu đối xử theo cách Tây, nên dịu ngọt với tôi lắm. Đi chơi chỗ nào, hai đứa nắm tay nhau không rời. Nhờ vậy tôi mới biết mấy cuộc vui nhã thú ở Sài Gòn nầy, chớ từ lên trên nầy hết cô chủ sự thì lọt vào tay Má Tư, tôi chỉ biết ăn chơi đàn đúm, vày vò xác thịt cũng chỉ vì ba đồng tiền hôi hám. Nhờ thầy Sáu tôi mới làm quen được với các tay văn vật phong lưu, mà toàn là các tay viết báo hay chủ bút đang thời, như: các ông Nguyên Tử Thức, chủ bút tờ Nam Trung tuần báo, Lê Sum tự là Trường Mậu, bỉnh bút Công luận báo, Lão Ngạc Nguyễn viên Kiều, cựu hội đồng địa hạt ở Trà Vinh, Dủ Thúc Lương Khắc Ninh, cựu hội quản hạt, chủ bút tờ Nông cổ Mín đàm, dịch giả Tam Quốc Chí, từ 1904, trước Phan Kế Bính những bốn năm (bản Phan Kế Bính Hà nội xuất bản năm 1909), thêm làm chủ bầu gánh hát bội ở Cầu Muối (chỗ rạp Rex đường Hồ Văn Ngà cũ) (nhờ xem hát và đọc truyện Tàu mà tôi biết quẹt quẹt ba chữ quốc ngữ và viết lách chút đỉnh như hôm nay). Thầy Sáu lại dắt tôi đến khách sạn nào Nam Đồng Hương, Lục tỉnh khách lầu, Đỗ văn Bính Hôtel Confortable ở đường Carabelli của thầy Bảy Phương vừa yến ẩm nhậu nhẹt, vừa nghe ca lúc hát cải lương còn chập chúm “ca ra bộ” bản Tứ đại (Bùi Kiệm ngộ Nguyệt Nga), bản Bình bán (Bùi Kiệm thi rớt). Tôi cũng quen gần đủ mặt các kỳ cựu như Nguyễn Chánh Sắt (Tân Châu) bố vợ ông Trọng Bổn, Trần Thái Nguyên, làm bút toán cho nhà sách Nguyễn văn Của, tuổi nay trên chín chục mà còn mạnh khoẻ và hiện ngụ gần nhà ông, ở Gia Định, đường Bạch Đằng, từng xuất bản bộ truyện “Càn Long hạ Giang nam” từ 1900; ông Hội đồng kiêm Phó tổng Nguyễn Thành Phương, cha chị Nguyệt Hồng, tức ông ngoại tướng Nguyễn Khánh râu Charlot, chụp giựt một lúc rồi chạy qua bên nầy nhưng tôi không gặp; báo Đông Pháp thời báo, tôi biết ông Diệp văn Kỳ, báo Nữ giới chung, khi tôi biết thì bà Sương Nguyệt Anh (con gái ông Đồ Chiểu), đã nhường bút cho ông Thiệu Huy (Nguyễn Thành Út), tính lý lắt, viết bài xã luận thì không ra gì, nhưng làm thơ có hạng lắm. Quên nói, thầy Sáu làm nơi phòng luật sư Jacquemart (chết xin đốt xác, lấy tro chôn sông Sài Gòn, vì ông nói sự nghiệp ở đây và xin chôn ở đây để nhớ đất đai thuỷ thổ): Cái nghề làm việc thầy kiện, mà lương bổng có là bao, không đủ cho tôi mua son phấn, nhưng tôi trọng là tình nồng nghĩa mặn, cách đối đãi cư xử của anh Sáu tôi, nay nhớ tới còn sa nước mắt. Vợ chồng thương nhau hết tình, lúc ươn yếu lòng lo lắng cho nhau, đến quên ăn quên ngủ. Thầy Sáu dắt tôi về lạy cha mẹ thầy ở Rạch ông Hổ, thì ổng bả cũng bằng lòng. Tôi cũng đưa thầy về Rạch Gầm lạy tía má tôi, mở tiệc vật bò vật heo đãi đằng bà con làng xóm, rồi hai đứa tôi làm hôn thơ tử tế.
Thiệt thầy Sáu vẽ mặt vẽ mày cho tôi và làm rỡ ràng cho tía má tôi quá đỗi. Nay nhắc lại khôn cầm giọt luỵ, và thầy Sáu ôi, biết ngày nào đôi ta lại gặp nhau?
Lúc đó tôi lấy làm có phước quá chừng, tưởng đâu kiếp đoạ đày của mình đến đây là mãn hạn. Nào ngờ đâu số Đạm Tiên chưa hết. Qua năm sau, tía tôi mất vì rầu buồn mấy năm khía thất mùa, ruộng tuy không bao nhiêu nhưng đủ nuôi gia đình bỗng về tay người khác, tía thất tình mà chết. Vợ chồng tôi khi ấy, đem má tôi về ở chung chưa đầy bốn tháng má tôi đụng giặc trời mà chết theo tía tôi. Vừa chôn má chưa kịp mở cửa mả, chồng tôi bị truyền nhiễm ỉa mửa tưng bừng. Thôi. Một ngày đó, tôi chạy khắp phương, nào rước thầy, nào vái ông làng ông Địa, nhưng tôi còn tức buổi ấy nghề y dược chưa giỏi, hay là để an ủi, tôi cho người ta vẫn có số mạng, và kiếp phong trần khó tránh. Qua bữa sau, anh Sáu tôi khuất. Trời ôi! Lúc đó tôi không còn muốn sống trong giây phút nào, ngặt số chưa phải chết, thì chết cũng không rồi!
Tống táng xong xuôi, tôi mới về dưới nhà ông già bà già chồng tôi mà ở. Tội nghiệp! Thấy hai ông bà thiếu trước hụt sau, tôi cầm lòng không đậu bèn bán phứt hai cái hột xoàn, lấy tiền sửa nhà cửa lại chắc chắn, lại mua được một miếng đất đem cốt chồng tôi về nằm đó, chừa chỗ nữa hai ông bà về nằm chung với con, làm mồ mả xong thì trong mình còn được ít trăm. Tôi tính cho tiền lúa rồi lấy lời đó mà xài, ngờ đâu vận kiến thời quai, cho đâu mất đó, mấy năm ấy thất mùa, mấy ông tá điền ở “nhà đá” (là đá một cái mạnh, nhà sập tuốt họ hỏi bạc lúa rồi trốn mất, khiến vốn tôi thâm thủng hao mòn còn hơn nước đá để trong mùa nóng. Vừa đúng một năm, làm tuần cho chồng rồi trong túi chỉ còn độ trăm ngoài. Không đợi xả tang, trong lưng còn có hai mươi tám đồng bạc, nhắm ở nữa không tiện, phần yếu đuối, phần khung vốn, tính làm ruộng làm nương gì cũng không đủ sức, tôi bèn lạy cha mẹ chồng xin để lại phân nửa, còn bao nhiêu tôi lên xe một mất một còn với Sài Gòn cho biết mặt.
Còn năm con chết bằm vào ăn xía đánh tôi là năm con ở lậu em út của Má, chớ không ai xa lạ. Đây chắc là Má dò biết thày cai lên với tôi lại sẵn biết thầy có tánh thờ bà sợ vợ nên Má tuốt xuống Trà Vinh trục vợ thầy cai lên đánh tôi bỏ ghét, và trả thù luôn thể. Thầy Sáu tiếp:
- Chẳng phải tôi dám xúi cô chia uyên rẽ thuý, thôi lấy thầy cai, song cô suy nghĩ lại coi, cô chọn người như vậy mà trao thân gởi phận, thì sao yên? Phận cô thì mảnh mai bồ liễu, thêm tứ cố vô thân. Chuyến nầy con mẹ cai giữ chặt thì trông mong gì thẩy thoát được mà lên trên nầy, vả lại chàng va bị bắt tại trận, phen nầy ắt thề bán mạng không tới lui với cô nữa, thì không bỏ mà cũng như bỏ, thêm nữa ở đây con yêu già kia còn, không biết nó sẽ bày mưu thiết kế gì nữa để hại cô. Đã biết cái sự binh vực cô, thì tôi đây sẵn lòng luôn luôn, dầu cho sẽ bị hại khốn khổ cách mấy, tôi cũng chẳng từ nan, ngặt một điều, tôi với cô bất quá là người hàng xóm, anh em với nhau mà thôi, nhưng ở đởi có nhiều khi gặp cơn hoạn nạn, anh em cũng phải cua tay không phép gì cứu đặng. Vậy cô nên suy nghĩ kỹ mà sớm liệu chọn đôi bạn khác thì mới tiện cho.
Thầy nói cũng có lý, mà hiện nay tôi biết ai đâu mà chọn lựa bây giờ? Lại nữa ơn thầy hổm rày che chở, tôi biết lấy chi mà trả? Xem chửng coi bộ thầy ta thương tôi lắm, song thầy lấy lòng quân tử ngay thẳng, chẳng muốn thừa cái sự tôi mang ơn mà ép tôi vầy duyên nhưng tôi coi bộ không có cái chi làm cho thầy có phước và vui lòng bằng được lấy tôi làm vợ.
Suy xét kỹ càng rồi, tôi mới vừa cười vừa nói với thầy như vầy:
- Thầy nói nghe rất phải, nhưng tôi có thấy ai thương tôi thiệt tình đâu mà hòng trao tơ kết tóc. Ngay bây giờ tôi thấy có một mình thầy hết lòng giúp đỡ tôi. Vậy nếu thầy không chê, tôi xin gá nghĩa cùng thầy, trước đền ơn che chở, sau có chỗ dựa nương.
Tôi nói chưa dứt lời, thầy mừng thôi quýnh quýn, chạy a lại hôn tôi và ôm tôi vào lòng, mà nước mắt chảy đầy má không hay.
Từ đó vợ chồng tôi ở với nhau hết sức thuận hoà vui vẻ. Thầy Sáu đối xử theo cách Tây, nên dịu ngọt với tôi lắm. Đi chơi chỗ nào, hai đứa nắm tay nhau không rời. Nhờ vậy tôi mới biết mấy cuộc vui nhã thú ở Sài Gòn nầy, chớ từ lên trên nầy hết cô chủ sự thì lọt vào tay Má Tư, tôi chỉ biết ăn chơi đàn đúm, vày vò xác thịt cũng chỉ vì ba đồng tiền hôi hám. Nhờ thầy Sáu tôi mới làm quen được với các tay văn vật phong lưu, mà toàn là các tay viết báo hay chủ bút đang thời, như: các ông Nguyên Tử Thức, chủ bút tờ Nam Trung tuần báo, Lê Sum tự là Trường Mậu, bỉnh bút Công luận báo, Lão Ngạc Nguyễn viên Kiều, cựu hội đồng địa hạt ở Trà Vinh, Dủ Thúc Lương Khắc Ninh, cựu hội quản hạt, chủ bút tờ Nông cổ Mín đàm, dịch giả Tam Quốc Chí, từ 1904, trước Phan Kế Bính những bốn năm (bản Phan Kế Bính Hà nội xuất bản năm 1909), thêm làm chủ bầu gánh hát bội ở Cầu Muối (chỗ rạp Rex đường Hồ Văn Ngà cũ) (nhờ xem hát và đọc truyện Tàu mà tôi biết quẹt quẹt ba chữ quốc ngữ và viết lách chút đỉnh như hôm nay). Thầy Sáu lại dắt tôi đến khách sạn nào Nam Đồng Hương, Lục tỉnh khách lầu, Đỗ văn Bính Hôtel Confortable ở đường Carabelli của thầy Bảy Phương vừa yến ẩm nhậu nhẹt, vừa nghe ca lúc hát cải lương còn chập chúm “ca ra bộ” bản Tứ đại (Bùi Kiệm ngộ Nguyệt Nga), bản Bình bán (Bùi Kiệm thi rớt). Tôi cũng quen gần đủ mặt các kỳ cựu như Nguyễn Chánh Sắt (Tân Châu) bố vợ ông Trọng Bổn, Trần Thái Nguyên, làm bút toán cho nhà sách Nguyễn văn Của, tuổi nay trên chín chục mà còn mạnh khoẻ và hiện ngụ gần nhà ông, ở Gia Định, đường Bạch Đằng, từng xuất bản bộ truyện “Càn Long hạ Giang nam” từ 1900; ông Hội đồng kiêm Phó tổng Nguyễn Thành Phương, cha chị Nguyệt Hồng, tức ông ngoại tướng Nguyễn Khánh râu Charlot, chụp giựt một lúc rồi chạy qua bên nầy nhưng tôi không gặp; báo Đông Pháp thời báo, tôi biết ông Diệp văn Kỳ, báo Nữ giới chung, khi tôi biết thì bà Sương Nguyệt Anh (con gái ông Đồ Chiểu), đã nhường bút cho ông Thiệu Huy (Nguyễn Thành Út), tính lý lắt, viết bài xã luận thì không ra gì, nhưng làm thơ có hạng lắm. Quên nói, thầy Sáu làm nơi phòng luật sư Jacquemart (chết xin đốt xác, lấy tro chôn sông Sài Gòn, vì ông nói sự nghiệp ở đây và xin chôn ở đây để nhớ đất đai thuỷ thổ): Cái nghề làm việc thầy kiện, mà lương bổng có là bao, không đủ cho tôi mua son phấn, nhưng tôi trọng là tình nồng nghĩa mặn, cách đối đãi cư xử của anh Sáu tôi, nay nhớ tới còn sa nước mắt. Vợ chồng thương nhau hết tình, lúc ươn yếu lòng lo lắng cho nhau, đến quên ăn quên ngủ. Thầy Sáu dắt tôi về lạy cha mẹ thầy ở Rạch ông Hổ, thì ổng bả cũng bằng lòng. Tôi cũng đưa thầy về Rạch Gầm lạy tía má tôi, mở tiệc vật bò vật heo đãi đằng bà con làng xóm, rồi hai đứa tôi làm hôn thơ tử tế.
Thiệt thầy Sáu vẽ mặt vẽ mày cho tôi và làm rỡ ràng cho tía má tôi quá đỗi. Nay nhắc lại khôn cầm giọt luỵ, và thầy Sáu ôi, biết ngày nào đôi ta lại gặp nhau?
Lúc đó tôi lấy làm có phước quá chừng, tưởng đâu kiếp đoạ đày của mình đến đây là mãn hạn. Nào ngờ đâu số Đạm Tiên chưa hết. Qua năm sau, tía tôi mất vì rầu buồn mấy năm khía thất mùa, ruộng tuy không bao nhiêu nhưng đủ nuôi gia đình bỗng về tay người khác, tía thất tình mà chết. Vợ chồng tôi khi ấy, đem má tôi về ở chung chưa đầy bốn tháng má tôi đụng giặc trời mà chết theo tía tôi. Vừa chôn má chưa kịp mở cửa mả, chồng tôi bị truyền nhiễm ỉa mửa tưng bừng. Thôi. Một ngày đó, tôi chạy khắp phương, nào rước thầy, nào vái ông làng ông Địa, nhưng tôi còn tức buổi ấy nghề y dược chưa giỏi, hay là để an ủi, tôi cho người ta vẫn có số mạng, và kiếp phong trần khó tránh. Qua bữa sau, anh Sáu tôi khuất. Trời ôi! Lúc đó tôi không còn muốn sống trong giây phút nào, ngặt số chưa phải chết, thì chết cũng không rồi!
Tống táng xong xuôi, tôi mới về dưới nhà ông già bà già chồng tôi mà ở. Tội nghiệp! Thấy hai ông bà thiếu trước hụt sau, tôi cầm lòng không đậu bèn bán phứt hai cái hột xoàn, lấy tiền sửa nhà cửa lại chắc chắn, lại mua được một miếng đất đem cốt chồng tôi về nằm đó, chừa chỗ nữa hai ông bà về nằm chung với con, làm mồ mả xong thì trong mình còn được ít trăm. Tôi tính cho tiền lúa rồi lấy lời đó mà xài, ngờ đâu vận kiến thời quai, cho đâu mất đó, mấy năm ấy thất mùa, mấy ông tá điền ở “nhà đá” (là đá một cái mạnh, nhà sập tuốt họ hỏi bạc lúa rồi trốn mất, khiến vốn tôi thâm thủng hao mòn còn hơn nước đá để trong mùa nóng. Vừa đúng một năm, làm tuần cho chồng rồi trong túi chỉ còn độ trăm ngoài. Không đợi xả tang, trong lưng còn có hai mươi tám đồng bạc, nhắm ở nữa không tiện, phần yếu đuối, phần khung vốn, tính làm ruộng làm nương gì cũng không đủ sức, tôi bèn lạy cha mẹ chồng xin để lại phân nửa, còn bao nhiêu tôi lên xe một mất một còn với Sài Gòn cho biết mặt.
Lấy chồng là thằng điếm, nó dạy cách lột da thằng Chệc
Cũng chưa tởn. Người ta nói chơi dao có ngày đứt tay. Tôi tay đứt đã một lần, ngủ bót, lục-xì đã trải, nay lại làm nghề xấu hổ nầy đã đặng năm tháng.
Bữa kia có cậu nọ ăn mặc cũng bảnh tỏn, đến đôi ba lần xử sự khá ngọt, mau được lòng tin cô chủ và xin phép cô chủ, dắt tôi vô trong Chợ lớn, coi hát Quảng Đông, tuy không hiểu tiếng nhưng họ múa men bộ tịch xem không khác hát bội nhà ta. Hát vãn đi ăn chào Tiều, đến sáng mới đưa tôi về nhà cô chủ. Chuyến về, dọc đường hắn hỏi tôi giọng anh chị: “Mấy muốn tao xé giấy cho nầy không?”. Phải nói lúc nầy tôi đã cùng đường hay đang chới với như kẻ không biết lội ở dưới nước, lòng ngày ngày chỉ muốn mau mau thoát khỏi chốn nhơ nhuốc sa lầy nầy, dẫu ai đui điếc ngọng líu tôi cũng không chê và chẳng từ, khiến nên tôi vừa nghe hỏi, đã liền ưng chịu. Hắn giao kết hễ về với hắn rồi, thì nhứt nhứt phải nghe theo lời hết. Tôi hứa chắc mọi lẽ, nên hắn vội lo làm thủ tục xé giấy.
Xong rồi, tôi từ giã cô chủ, ngỏ lời cám ơn mấy tháng đùm bọc, và theo hắn vô Chợ lớn. Hắn mướn một căn phố có lầu, ở gần cột đèn Năm ngọn, chỗ thị tứ khá. Không biết tiền lưng hắn có bao nhiêu, nhưng hắn mua và dọn có đủ ghế bàn - tượng cẩn ốc xà cử gọi “tể tướng ỷ”, tủ kiếng hột vịt (tủ áo có gương soi lớn hình bầu dục), giường Hồng kông bằng thau vàng lườm, bàn mặt đá vân thạch trắng vân khói đèn vằn vện như chấm san thuỷ kiểu siêu hình, nhứt là có một tủ sắt hiệu Fichet rất to, không biết đựng gì ở trong. Xong rồi, nó biểu tôi ở đó lên mặt làm bà chủ, và cứ kêu nó là thằng Tư, tức như thằng ở, và, đừng xem nó là chồng. Trời ôi! Hết trong tay con mẹ chủ sự, về Má Tư Hớn lấy Hạch kế, lọt vòng tay thầy cai tổng, vừa ấm thân với anh Sáu kế chia tay, rớt vào nhà số làm ở có giấy, rồi được xé giấy gởi thân cho hắn mà hắn giao kết không cho gọi là chồng, ông cao xanh ôi, lòng ông ác vừa vừa, thân đàn bà yếu đuối ông vày vò thử thách quá chịu sao kham. Trong bụng vẫn lấy làm lạ, nhưng đã giao kết rồi, hắn biểu thì mình phải nghe theo, cãi sao nên. Hắn có hứa xong việc nầy thì hắn sẽ cho tôi một số tiền làm vốn rồi hai đứa chia tay, đường ai nấy đi, chớ hắn không buộc ràng đeo đuổi nữa: tự do mà! Song phải tận tâm giúp nó cho thành công, bằng không vậy chớ trách nó ra tay độc ác. Cho hay như con chim bị đạn, tôi bị hoạn nạn đủ thứ, nên dễ hoảng hồn, nghe hắn hâm doạ đã chết điếng trong thâm tâm, song nghe nó hứa phóng sanh bụng lại thấy nhen chút hi vọng thoát lồng sổ cũi. Nhứt là khi nhìn mặt hắn thấy sát khí đằng đằng, trừ phi biểu cầm dao giết người ắt tôi không dám chớ hắn biểu gì dễ dễ tôi đều chịu hết.
Đó rồi hắn đi mướn đồ, nào vòng vàng chuỗi hột đủ bộ vận, căn dặn tôi phải bắc kế cho thiệt sang trọng, rồi lối năm giờ chiều, mướn xe song mã, ngồi lên cho chạy vào chợ Bình Tây và cho xe chạy dài dọc theo mé sông, chỗ có ghe chài lúa đậu đông nghẹt ấy đảo một vòng như vậy rồi về, chỉ làm có bấy nhiêu việc là xong, kỳ dư về phần hắn lo liệu và tôi không cần hỏi cùng tìm hiểu làm chi, vô ích. Lúc xe đi ngang đám ghe đậu đông ken, tôi liếc mắt thì thấy quả hắn đang ngồi ngoài mũi nói chuyện chi với một thằng Tiều châu ở trần trụi trụi. Thấy xe tôi chạy ngang qua thì thấy nó lấy tay chỉ chỏ và nói cái gì với chú chác nọ mà vì cách xa quá tôi không nghe được tiếng nào. Đến tối hắn về, nói với tôi rằng:
- Công việc êm ái cả. Tao nhử thằng Tiều châu đó, nó thấy mầy, nó mê như chết. Cá đã ăn câu, chỉ còn một chút xíu nữa là trúng mối to. Rán nghe! Tao nói với thằng chệc ấy rằng mầy là vợ ông chúa tàu Vạn Phước Nguyên, giàu nhứt nhì ở Chợ lớn, chỉ thua Chú Hoả Hứa Bổn Hoà ở Sài Gòn mà thôi. Nay ổng đã về bên Tàu, để hết của cải gia tài trên bá vạn cho mầy làm chủ. Thằng Tiều nầy quê ở Bạc Liêu, mua bán lúa vừa phát mấy năm nay và giàu lắm. Nó là thằng hảo ngọt, lại tham của nữa. Nội cái nhan sắc của mầy cũng đủ cho nó chết cha, huống chi nó nghe mầy giầu có nữa thì nó tán gia bại sản như chơi. Vậy ngày mai nầy tao dắt nó lại đây. Tao nói mầy coi tao như em út trong nhà, và như vậy mầy phải làm cho ra mặt. Tao giả bộ xin mầy hai mươi lăm đồng bạc, mầy cho, mà phải la lối một hồi, phải có giọng mụ chị cho hay. Còn đối với nó, thì mầy hỏi lơ là vậy thôi, rồi sai tao đi lấy nước lấy thuốc đãi nó, chớ mầy đừng có nhẹ thể rót nước dâng thuốc chi đa? Mấy cứ ngồi yên trên bộ ván nầy mà sai cắt, cứ bỏ nó ngồi dưới ghế nầy với tao. Mấy phải làm điệu cho hung mới đặng.
Sắp đặt xong xuôi, sáng ra nó đi mất. Lối chín giờ ngoài, nó dắt thằng Tiều châu lại. Cái thằng cha gì, coi bộ khốn khó quá vậy mà nói nó có nhiều bạc nỗi gì! Bận áo quần xung xình như đồ chín, may bằng lụa nhúng dầu bên Tàu đem qua, mưa không thấm ướt và khỏi giặt vì nước có thấm đâu mà giặt. Đi đôi giày Tàu cũ mèm, đạp gót cho thành giày hàm ếch, kéo sát đất nghe xẹp xẹp. Đặc biệt nhứt là miệng xỉa một cục thuốc Gò to bằng ngón chơn cái, làm cho môi phồng lên như cục bướu. Hai người vô tới nhà, tôi vừa hất hàm như chào, miệng hỏi to: “Ủa! Tư! Chớ mấy hôm nay đi đâu mất, không thấy mặt mày? Nay mới trôi về đây hả?”. Thằng tình trời đánh làm bộ xá tôi và nói: “Thưa chị, hổm rày em thua quá, nên đi bậy bạ kiếm chác tính gỡ, mà nó vẫn còn xui hoài?”. Tôi vụt mắng nó” “Đồ hết! Chồng ngồng cái đầu mà không nên thân. Biểu mầy tu tỉnh đặng tao giúp vốn, cưới vợ lo làm ăn, mà mầy không biết lo gì hết! Ủa? Còn người nào đi với mầy đó?”. Khi ấy hắn lễ phép thưa: “Dạ thưa chị, đây là ông Bang ở Bạc Liêu mới lên. Ông thấy em ổng thương, muốn đem em về dưới làm tài phú coi sổ sách giùm cho ổng.”. Tôi làm bộ tin và gởi gấm vài lời, nhưng tôi chỉ nói lơ là, tuồng như chú chàng không đáng mặt cho tôi nói chuyện. Kể từ hôm ấy, mỗi ngày tôi đều thấy chú Tiều nầy đảo qua đảo lại trước nhà mà không dám bước vô.
Khi nào tôi đang đứng trước cửa mà thấy lão đi ngang thì tôi cũng chào sơ một tiếng rồi bước vô nhà, chớ không mời thỉnh chi ráo, như vậy đặng một tuần. Bữa kia thằng trời đánh nó nói với tôi:
- Thằng chệc nó mê mầy như chết? Nó muốn cưới mầy hai ngàn đồng bạc mà tao nói với nó: “Tánh chị tôi không cần tiền, vì của cải của chỉ có đến chín mười muôn, xài không hết. Chỉ từng nói: Từng tuổi nầy không lẽ không đôi bạn, ở đặng cho đến già. Phần sự nghiệp chỉ to mà không có đàn ông thì sao được? Song chỉ muốn lựa người nào biết làm ăn, nhứt là tin cậy được, thì chỉ giao hết sự nghiệp cho mà coi sóc, chẳng luận giàu nghèo, hay xấu tốt chi cũng không cần. Hổm rày chỉ có ý khen chú là người thiệt thà. Thôi để tôi liều mạng ướm thử coi đặng cùng chăng. Nếu chỉ không nghe, bất quá chỉ mắng ít tiếng rồi thôi, chớ chết chóc gì? Vậy để vài ngày nữa, tao sẽ nói với va rằng: “Tao nói rồi, chỉ chịu không chịu, mà không cũng không không. Chỉ cứ nói để thủng thẳng, dò xem tình ý cho chắc đã. Nên chỉ mời chú mai lên nhà dùng một bữa cơm thường. Trong lúc ăn, mầy phải giữ bộ tịch cho nghiêm trang; cơm rồi mầy sẽ mời nó từ rày lên xuống chơi cho nó dạn lần. Nhớ đừng mơn trớn và cũng đừng lả lơi. Tụi Ba Tàu ưa nghiêm chớ không ưa trây trưa.
Quả ba ngày sau, hắn dắt chú nọ lên nhà dùng bữa. Trong nhà lúc nầy rần rộ hai ba đứa ở, coi thật là nhà có của muôn. Và từ ấy “hia” (tức anh theo giọng Triều châu) tối lên xuống thường hơn trước. Mấy lần như vậy, hia đều gặp khi thì chúng tới trả tiền lời, khi thì lại khẩn cầu thay giấy nợ hoặc xin cho hẹn qua vài tháng sẽ trả tất, mỗi mỗi đều là kế của thằng trời đánh, và hắn khéo làm tuồng, lựa toàn những kép thiện nghệ, người nào người nấy đến nhà gặp tôi đều còm róm làm bộ sợ sệt như thiệt, còn tôi thì mặc sức lên giọng, rầy rà, giận giũi, mắng nhiếc người ta ra mặt, cho thằng chệc thấy rõ ràng là nhà hào hộ, có tiền cho vay đặt nợ huyên thiên, một đôi khi hia gặp tại trận người nầy đến cầm bán hột xoàn, người khác đến cầm cố, treo ruộng treo đất, hoặc hỏi tôi xin mướn phố lầu, thiệt là mưu của thằng trời đánh sâu quá, hia tôi mắt thấy tai nghe rõ ràng: tôi quả là tay cự phú, son vá, một ngày tới tối, tôi mở tủ sắt ra; đóng tủ sắt lại tở mở, mà chớ chi lúc ấy hia dòm đặng trong tủ thì mới biết là tủ không với mở giấy vô dụng chớ có đồng xu nào ở trỏng.
Chú chệc lên xuống cũng gần trót tháng, thì khi một chút, khi một ít, lần lần coi chú đã gần cụp với tôi. Tuy vậy mặc dầu, nhớ tôi khéo giữ lèo lái nên chệc ta chưa rờ tới mình tôi đặng.
Một bữa nọ, Tư nhà ta đi mướn một miếng đất hoang, rồi mua đâu cũng độ vài trăm bạc cát để trộn hồ và một đống xà bần gạch vụn, thứ để xây nền nhà, nó lại chớ từ đâu đem lại một mở tre hè, y như sắp sửa soạn cột giá cái hay giàn trò đặng xây dựng phố lầu gì đây xong xui nó biểu tôi dắt anh Tiều lại xem. Nó khoe có mặt tôi đứng đó, với anh Tiều rằng:
- Tôi mới mua miếng đất nầy, mua rồi định cất tạo phạo vài căn phố trệt để cho mướn cầm chừng vậy thôi, chớ lóng nầy bị tôi mới mót máy cho thầy ban biện dưới Bãi Xàu (Sốc trăng) vay chín ngàn, khiến nên không dư tiền mà cất phố cho tốt. Có ngờ đâu khi đến xin phép ở Xã Tây, họ nói chỗ nầy thị tứ lắm, chánh phủ chỉ cho phép cất phố lầu mà thôi, và mấy dãy phố cũ đều phải cơi lầu lên hết. Và hiện nay tôi đang hụt tiền, vậy chú có lòng tốt, hãy thừa dịp nầy cho tôi mượn đỡ một muôn, rồi bốn tháng nữa, đến kỳ lúa chín mấy chỗ khác trả cho tôi thì tôi sẽ hoàn lại cho chú, được không?
Nguyên thằng trời đánh nầy, lúc ở nhà, nó có nói nhỏ với anh Tiều rằng tôi đương dò ý tứ ảnh, đọ xem có của cải gì không, lại nữa muốn biết coi ảnh có thiệt tình thương tôi hay không. Nên hay hỏi đột ngột làm vầy đây, trong bụng anh Ba Tàu định cho tôi làm bộ túng bấn mà dọ lòng và bề thế ảnh, chớ tôi mà thiếu gì tiền. Vả lại, dầu cho tôi thiệt túng đi nữa, thì sự nghiệp tôi như vậy, có mất mát đi đâu mà phòng sợ? Còn thêm một nỗi hiện ảnh đương mê cái nhan sắc của tôi gần muốn chết, thì sao mà chẳng ừ cho đặng. Bởi vậy hia Tiều gật đầu chịu liền, và hứa để về dưới lấy tiền lên.
Năm bữa sau, quả nhiêu Tiều ta đem lại một muôn chẵn, toàn là giấy xăng (một trăm đồng: cent piastres). Va đưa tiền, tôi đòi làm giấy, nhưng anh Tiều lên mặt cao thượng, ngó tôi mà rằng:
- Thôi! Cần gì!
Bữa kia có cậu nọ ăn mặc cũng bảnh tỏn, đến đôi ba lần xử sự khá ngọt, mau được lòng tin cô chủ và xin phép cô chủ, dắt tôi vô trong Chợ lớn, coi hát Quảng Đông, tuy không hiểu tiếng nhưng họ múa men bộ tịch xem không khác hát bội nhà ta. Hát vãn đi ăn chào Tiều, đến sáng mới đưa tôi về nhà cô chủ. Chuyến về, dọc đường hắn hỏi tôi giọng anh chị: “Mấy muốn tao xé giấy cho nầy không?”. Phải nói lúc nầy tôi đã cùng đường hay đang chới với như kẻ không biết lội ở dưới nước, lòng ngày ngày chỉ muốn mau mau thoát khỏi chốn nhơ nhuốc sa lầy nầy, dẫu ai đui điếc ngọng líu tôi cũng không chê và chẳng từ, khiến nên tôi vừa nghe hỏi, đã liền ưng chịu. Hắn giao kết hễ về với hắn rồi, thì nhứt nhứt phải nghe theo lời hết. Tôi hứa chắc mọi lẽ, nên hắn vội lo làm thủ tục xé giấy.
Xong rồi, tôi từ giã cô chủ, ngỏ lời cám ơn mấy tháng đùm bọc, và theo hắn vô Chợ lớn. Hắn mướn một căn phố có lầu, ở gần cột đèn Năm ngọn, chỗ thị tứ khá. Không biết tiền lưng hắn có bao nhiêu, nhưng hắn mua và dọn có đủ ghế bàn - tượng cẩn ốc xà cử gọi “tể tướng ỷ”, tủ kiếng hột vịt (tủ áo có gương soi lớn hình bầu dục), giường Hồng kông bằng thau vàng lườm, bàn mặt đá vân thạch trắng vân khói đèn vằn vện như chấm san thuỷ kiểu siêu hình, nhứt là có một tủ sắt hiệu Fichet rất to, không biết đựng gì ở trong. Xong rồi, nó biểu tôi ở đó lên mặt làm bà chủ, và cứ kêu nó là thằng Tư, tức như thằng ở, và, đừng xem nó là chồng. Trời ôi! Hết trong tay con mẹ chủ sự, về Má Tư Hớn lấy Hạch kế, lọt vòng tay thầy cai tổng, vừa ấm thân với anh Sáu kế chia tay, rớt vào nhà số làm ở có giấy, rồi được xé giấy gởi thân cho hắn mà hắn giao kết không cho gọi là chồng, ông cao xanh ôi, lòng ông ác vừa vừa, thân đàn bà yếu đuối ông vày vò thử thách quá chịu sao kham. Trong bụng vẫn lấy làm lạ, nhưng đã giao kết rồi, hắn biểu thì mình phải nghe theo, cãi sao nên. Hắn có hứa xong việc nầy thì hắn sẽ cho tôi một số tiền làm vốn rồi hai đứa chia tay, đường ai nấy đi, chớ hắn không buộc ràng đeo đuổi nữa: tự do mà! Song phải tận tâm giúp nó cho thành công, bằng không vậy chớ trách nó ra tay độc ác. Cho hay như con chim bị đạn, tôi bị hoạn nạn đủ thứ, nên dễ hoảng hồn, nghe hắn hâm doạ đã chết điếng trong thâm tâm, song nghe nó hứa phóng sanh bụng lại thấy nhen chút hi vọng thoát lồng sổ cũi. Nhứt là khi nhìn mặt hắn thấy sát khí đằng đằng, trừ phi biểu cầm dao giết người ắt tôi không dám chớ hắn biểu gì dễ dễ tôi đều chịu hết.
Đó rồi hắn đi mướn đồ, nào vòng vàng chuỗi hột đủ bộ vận, căn dặn tôi phải bắc kế cho thiệt sang trọng, rồi lối năm giờ chiều, mướn xe song mã, ngồi lên cho chạy vào chợ Bình Tây và cho xe chạy dài dọc theo mé sông, chỗ có ghe chài lúa đậu đông nghẹt ấy đảo một vòng như vậy rồi về, chỉ làm có bấy nhiêu việc là xong, kỳ dư về phần hắn lo liệu và tôi không cần hỏi cùng tìm hiểu làm chi, vô ích. Lúc xe đi ngang đám ghe đậu đông ken, tôi liếc mắt thì thấy quả hắn đang ngồi ngoài mũi nói chuyện chi với một thằng Tiều châu ở trần trụi trụi. Thấy xe tôi chạy ngang qua thì thấy nó lấy tay chỉ chỏ và nói cái gì với chú chác nọ mà vì cách xa quá tôi không nghe được tiếng nào. Đến tối hắn về, nói với tôi rằng:
- Công việc êm ái cả. Tao nhử thằng Tiều châu đó, nó thấy mầy, nó mê như chết. Cá đã ăn câu, chỉ còn một chút xíu nữa là trúng mối to. Rán nghe! Tao nói với thằng chệc ấy rằng mầy là vợ ông chúa tàu Vạn Phước Nguyên, giàu nhứt nhì ở Chợ lớn, chỉ thua Chú Hoả Hứa Bổn Hoà ở Sài Gòn mà thôi. Nay ổng đã về bên Tàu, để hết của cải gia tài trên bá vạn cho mầy làm chủ. Thằng Tiều nầy quê ở Bạc Liêu, mua bán lúa vừa phát mấy năm nay và giàu lắm. Nó là thằng hảo ngọt, lại tham của nữa. Nội cái nhan sắc của mầy cũng đủ cho nó chết cha, huống chi nó nghe mầy giầu có nữa thì nó tán gia bại sản như chơi. Vậy ngày mai nầy tao dắt nó lại đây. Tao nói mầy coi tao như em út trong nhà, và như vậy mầy phải làm cho ra mặt. Tao giả bộ xin mầy hai mươi lăm đồng bạc, mầy cho, mà phải la lối một hồi, phải có giọng mụ chị cho hay. Còn đối với nó, thì mầy hỏi lơ là vậy thôi, rồi sai tao đi lấy nước lấy thuốc đãi nó, chớ mầy đừng có nhẹ thể rót nước dâng thuốc chi đa? Mấy cứ ngồi yên trên bộ ván nầy mà sai cắt, cứ bỏ nó ngồi dưới ghế nầy với tao. Mấy phải làm điệu cho hung mới đặng.
Sắp đặt xong xuôi, sáng ra nó đi mất. Lối chín giờ ngoài, nó dắt thằng Tiều châu lại. Cái thằng cha gì, coi bộ khốn khó quá vậy mà nói nó có nhiều bạc nỗi gì! Bận áo quần xung xình như đồ chín, may bằng lụa nhúng dầu bên Tàu đem qua, mưa không thấm ướt và khỏi giặt vì nước có thấm đâu mà giặt. Đi đôi giày Tàu cũ mèm, đạp gót cho thành giày hàm ếch, kéo sát đất nghe xẹp xẹp. Đặc biệt nhứt là miệng xỉa một cục thuốc Gò to bằng ngón chơn cái, làm cho môi phồng lên như cục bướu. Hai người vô tới nhà, tôi vừa hất hàm như chào, miệng hỏi to: “Ủa! Tư! Chớ mấy hôm nay đi đâu mất, không thấy mặt mày? Nay mới trôi về đây hả?”. Thằng tình trời đánh làm bộ xá tôi và nói: “Thưa chị, hổm rày em thua quá, nên đi bậy bạ kiếm chác tính gỡ, mà nó vẫn còn xui hoài?”. Tôi vụt mắng nó” “Đồ hết! Chồng ngồng cái đầu mà không nên thân. Biểu mầy tu tỉnh đặng tao giúp vốn, cưới vợ lo làm ăn, mà mầy không biết lo gì hết! Ủa? Còn người nào đi với mầy đó?”. Khi ấy hắn lễ phép thưa: “Dạ thưa chị, đây là ông Bang ở Bạc Liêu mới lên. Ông thấy em ổng thương, muốn đem em về dưới làm tài phú coi sổ sách giùm cho ổng.”. Tôi làm bộ tin và gởi gấm vài lời, nhưng tôi chỉ nói lơ là, tuồng như chú chàng không đáng mặt cho tôi nói chuyện. Kể từ hôm ấy, mỗi ngày tôi đều thấy chú Tiều nầy đảo qua đảo lại trước nhà mà không dám bước vô.
Khi nào tôi đang đứng trước cửa mà thấy lão đi ngang thì tôi cũng chào sơ một tiếng rồi bước vô nhà, chớ không mời thỉnh chi ráo, như vậy đặng một tuần. Bữa kia thằng trời đánh nó nói với tôi:
- Thằng chệc nó mê mầy như chết? Nó muốn cưới mầy hai ngàn đồng bạc mà tao nói với nó: “Tánh chị tôi không cần tiền, vì của cải của chỉ có đến chín mười muôn, xài không hết. Chỉ từng nói: Từng tuổi nầy không lẽ không đôi bạn, ở đặng cho đến già. Phần sự nghiệp chỉ to mà không có đàn ông thì sao được? Song chỉ muốn lựa người nào biết làm ăn, nhứt là tin cậy được, thì chỉ giao hết sự nghiệp cho mà coi sóc, chẳng luận giàu nghèo, hay xấu tốt chi cũng không cần. Hổm rày chỉ có ý khen chú là người thiệt thà. Thôi để tôi liều mạng ướm thử coi đặng cùng chăng. Nếu chỉ không nghe, bất quá chỉ mắng ít tiếng rồi thôi, chớ chết chóc gì? Vậy để vài ngày nữa, tao sẽ nói với va rằng: “Tao nói rồi, chỉ chịu không chịu, mà không cũng không không. Chỉ cứ nói để thủng thẳng, dò xem tình ý cho chắc đã. Nên chỉ mời chú mai lên nhà dùng một bữa cơm thường. Trong lúc ăn, mầy phải giữ bộ tịch cho nghiêm trang; cơm rồi mầy sẽ mời nó từ rày lên xuống chơi cho nó dạn lần. Nhớ đừng mơn trớn và cũng đừng lả lơi. Tụi Ba Tàu ưa nghiêm chớ không ưa trây trưa.
Quả ba ngày sau, hắn dắt chú nọ lên nhà dùng bữa. Trong nhà lúc nầy rần rộ hai ba đứa ở, coi thật là nhà có của muôn. Và từ ấy “hia” (tức anh theo giọng Triều châu) tối lên xuống thường hơn trước. Mấy lần như vậy, hia đều gặp khi thì chúng tới trả tiền lời, khi thì lại khẩn cầu thay giấy nợ hoặc xin cho hẹn qua vài tháng sẽ trả tất, mỗi mỗi đều là kế của thằng trời đánh, và hắn khéo làm tuồng, lựa toàn những kép thiện nghệ, người nào người nấy đến nhà gặp tôi đều còm róm làm bộ sợ sệt như thiệt, còn tôi thì mặc sức lên giọng, rầy rà, giận giũi, mắng nhiếc người ta ra mặt, cho thằng chệc thấy rõ ràng là nhà hào hộ, có tiền cho vay đặt nợ huyên thiên, một đôi khi hia gặp tại trận người nầy đến cầm bán hột xoàn, người khác đến cầm cố, treo ruộng treo đất, hoặc hỏi tôi xin mướn phố lầu, thiệt là mưu của thằng trời đánh sâu quá, hia tôi mắt thấy tai nghe rõ ràng: tôi quả là tay cự phú, son vá, một ngày tới tối, tôi mở tủ sắt ra; đóng tủ sắt lại tở mở, mà chớ chi lúc ấy hia dòm đặng trong tủ thì mới biết là tủ không với mở giấy vô dụng chớ có đồng xu nào ở trỏng.
Chú chệc lên xuống cũng gần trót tháng, thì khi một chút, khi một ít, lần lần coi chú đã gần cụp với tôi. Tuy vậy mặc dầu, nhớ tôi khéo giữ lèo lái nên chệc ta chưa rờ tới mình tôi đặng.
Một bữa nọ, Tư nhà ta đi mướn một miếng đất hoang, rồi mua đâu cũng độ vài trăm bạc cát để trộn hồ và một đống xà bần gạch vụn, thứ để xây nền nhà, nó lại chớ từ đâu đem lại một mở tre hè, y như sắp sửa soạn cột giá cái hay giàn trò đặng xây dựng phố lầu gì đây xong xui nó biểu tôi dắt anh Tiều lại xem. Nó khoe có mặt tôi đứng đó, với anh Tiều rằng:
- Tôi mới mua miếng đất nầy, mua rồi định cất tạo phạo vài căn phố trệt để cho mướn cầm chừng vậy thôi, chớ lóng nầy bị tôi mới mót máy cho thầy ban biện dưới Bãi Xàu (Sốc trăng) vay chín ngàn, khiến nên không dư tiền mà cất phố cho tốt. Có ngờ đâu khi đến xin phép ở Xã Tây, họ nói chỗ nầy thị tứ lắm, chánh phủ chỉ cho phép cất phố lầu mà thôi, và mấy dãy phố cũ đều phải cơi lầu lên hết. Và hiện nay tôi đang hụt tiền, vậy chú có lòng tốt, hãy thừa dịp nầy cho tôi mượn đỡ một muôn, rồi bốn tháng nữa, đến kỳ lúa chín mấy chỗ khác trả cho tôi thì tôi sẽ hoàn lại cho chú, được không?
Nguyên thằng trời đánh nầy, lúc ở nhà, nó có nói nhỏ với anh Tiều rằng tôi đương dò ý tứ ảnh, đọ xem có của cải gì không, lại nữa muốn biết coi ảnh có thiệt tình thương tôi hay không. Nên hay hỏi đột ngột làm vầy đây, trong bụng anh Ba Tàu định cho tôi làm bộ túng bấn mà dọ lòng và bề thế ảnh, chớ tôi mà thiếu gì tiền. Vả lại, dầu cho tôi thiệt túng đi nữa, thì sự nghiệp tôi như vậy, có mất mát đi đâu mà phòng sợ? Còn thêm một nỗi hiện ảnh đương mê cái nhan sắc của tôi gần muốn chết, thì sao mà chẳng ừ cho đặng. Bởi vậy hia Tiều gật đầu chịu liền, và hứa để về dưới lấy tiền lên.
Năm bữa sau, quả nhiêu Tiều ta đem lại một muôn chẵn, toàn là giấy xăng (một trăm đồng: cent piastres). Va đưa tiền, tôi đòi làm giấy, nhưng anh Tiều lên mặt cao thượng, ngó tôi mà rằng:
- Thôi! Cần gì!
Chia tay chạy trốn
Thộp ngon lành đặng một muôn đồng bạc của anh Tiều châu hảo ngọt, thằng Tư ấy mới cầm một ngàn rưỡi cho tôi mà rằng:
- Thôi hai đứa mình ô-rơ-hoa (au revoir!). Tao phóng xả cho mầy đó hãy tìm chồng khác lo làm ăn. Nay để tao cút trước, còn mày cũng phải thu xếp mà cao chạy xa bay cho lẹ lẹ, đừng để đổ bể việc nầy mà chết chùm cả đám. Tuy không giấy không tờ, nhưng tao thì có tiền án, mầy vừa xé giấy không lâu, hễ thằng chệc nó thưa thì lính tới nắm đầu lập tức. Như vậy kế đã thành, ta phải làm theo hát bội, hát bài tẩu mã, và dĩ đào vi thượng!
Nói rồi nó cuốn gói đi biệt. Cho đến nay tôi không biết tên họ nó là gì, luôn danh tánh cô Sáu chủ cũ của tôi cũng vậy. Trọn ngày đó, tôi sợ hết hồn, ngồi tính nát óc, muốn chờ hia nọ về mà lạy dài, tỏ thiệt đầu đuôi, năn nỉ xin trả một ngàn rưỡi bạc đó cho hia, rồi tình nguyện về làm mọi cho hia mãn đời là trừ nợ. Tính vậy rồi lại sợ: không phải sợ anh Tiều nầy không dung, rồi bỏ tù bỏ rạc gì. Nói chí đáng: gian hùng tới nước, cho ở tù cũng không oan. Song sợ nhứt là bể chuyện ra, nếu tôi khai thiệt, thì thằng Tư sao khỏi bị bắt. Ý cái thằng trời đánh, coi vậy mà oai ghê.
Không biết nó phù phép gì, mà trong tháng tôi ở với nó, nói tình tội tôi sợ nó như sợ cha, nó biểu chi tôi nghe nấy. Nay nếu tôi khai thiệt, quan bắt nó đặng, thì chẳng lẽ tội như vầy, mà ai đi chém giết gì nó, bất quá kêu án nó đôi ba năm, cha chả! Rồi chừng nó mãn tù, thì tôi có chạy đường trời cũng không khỏi tay nó. Tính nát trí khôn, rồi tôi cũng cho duy có kế trốn là hay.
Bữa đó lại là ngày thứ sáu, tôi mới gạt hia Tiều rằng tối mai thứ bảy, có chị em rủ đi ăn cơm Tây và xem hát sáng đêm, như vậy đừng có lại, vì tôi đi khỏi. Sắp đặt xong, đồ đạc vòng vàng bao nhiêu tôi đeo hết vào mình, lộn lưng một ngàn rưỡi bạc, ghịt mấy lần chắc chắn, còn lại gia dư tôi không dám lấy một món gì ở trong nhà đều bỏ lại hết. Bữa cơm chiều, trẻ nó dọn, bưng tới miệng cũng không kịp ăn, nuốt không vô, lật đật xuống tàu chạy đường Nam vang mà ẩn mặt.
Đi đường chuyến nầy tôi cẩn thận lắm, chẳng phải vì có tiền mà se sua lòe loẹt tôi mua giấy đi Phnom-penh hạng chót, rồi mướn một chiếc chiếu trải ngủ chen chúc giữa đám bộ hành đàn bà. Sáng ra tàu tới chợ Mỹ Tho, cặp bến. Tôi thấy lính xét giấy thuế thân, mà vì sẵn có tịch nên bịnh đa nghi của Tào Tháo hoành hành. Thế khi động ổ, có ai mạch cho hia Tiều, va đi cớ bót nên quan mới sai lính đón tra xét lung tung. Lúc đó trong bụng đánh trống chiến loạn đả. Liệu bề đi luôn lên xứ Chùa Tháp bất tiện, vì nghĩ dại rằng ắt có dây thép lục tống, và chỗ nào tàu ghé chắc là đêu có lính tráng kiểm tra. Muốn lên bờ tại đây đặng tánh đi ngả khác, ngặt sợ hai cậu bếp đứng chần ngần dường như tìm kiếm bắt cho được ai đó vậy. Trong cơn bối rối, trực nhớ lại chú mái chính răng bịt vàng cả hàm trên, trông dị hợm, nghe lỏm được biết chú lên ở Mỹ Tho, mà thiệt từ hồi tàu chạy cho tới bây giờ, mình thì lo buồn, mà chú cứ theo tấn ơn ve vãn, giận tức gần nứt bong bóng nay thấy chú đang dọn dẹp hành lý sửa soạn lên bờ, tôi bèn lại gần thỏ thẻ mượn chú chỉ giùm một khách sạn nào cho gần ga xe lửa, của Tàu hay của ta bất chấp, miễn sạch sẽ, vì thuở nay tôi chưa biết và quen thuộc đường xá xứ nầy. Hia ta nghe tôi ướm hỏi, coi bộ mừng quýnh quýu trông tức cười nhưng tôi rán nín. Hia ta lật đật giành xách cái quả cẩn đựng chút quần áo và hai tôi cặp kè đưa nhau lên bờ, coi tuồng như vợ chồng lâu năm gắn bó. Hai cậu bếp có lẽ quen mặt, nên chào chú mái chính mà không xét giấy.
Tới khách sạn ở mé sông gần ga xe lửa, do người Quảng Đông làm chủ, tôi nghe chú mái chính biểu dọn phòng thượng hạng, đế dắt tôi lên lầu nghỉ ngơi cho mát mẻ. Tôi cười thầm thằng Ba Tàu nầy muốn sanh bụng tẹo, cho nên một hai tôi nài ở phòng khách từng dưới, vì tôi còn đi kiếm thăm bà con, có lẽ ngày mai hay ngày mốt tôi mới trở về đây. Mái chính răng vàng cười bày đủ bộ răng gần nửa lượng, cho tôi rồi ra về, lại hứa để chiều mát trời, y sẽ đem xe nhà rước tôi qua xóm chợ cũ dùng cơm Quảng, có món hủ tíu đặc biệt tiếng đồn đến khách phong lưu Sài Gòn đều xuống đây thưởng thức, luôn dịp y sẽ mua giấy trước xem hát của gánh thầy Năm Tú nào đó diễn tuồng Kim Vân Kiều theo lối hát mới, gọi cải lương lại, vai Kim Trọng do thầy Bảy Thông đóng, và vai Thuý Kiều do cô Kim Cúc thủ đứng cặp với cô Thoàn(1) trong vai Thuý Vân, cả ba đều xuất sắc vả hát cụp lạc lắm. Tôi cũng ừ hữ cho có chừng, trong bụng cười thầm: “Mái chính ơi! Con nầy không vừa đâu, nó nhai tươi nuốt sống (nhĩ, mầy, anh) và ăn gỏi nị cái một, nhưng nó đang chạy trốn nên không dám trổ tài đó chớ, khuyên nị cứ ăn cơm Quảng Đông và ngủ với xẩm Tàu, đồng bào nị, là chắc ăn hơn. Nhưng đây là tôi nói thầm, mình nói mình nghe, chớ đâu dám bĩ hơi cho lậu sự. Chú mái chính đi về rồi, cũng vừa buổi trưa kiến cắn bụng, tôi lận lưng lấy ra một đồng bạc, nhờ anh chệc bồi phòng đi mua cho tôi một mâm cơm: hai chén cơm thật trắng thật ngon, còn thức ăn thì một tô canh câu kỹ, một đĩa thịt vịt quay lựa khúc đùi, một đĩa cua xào giấm và đừng quên cho tôi một đĩa thịt xá xíu, vì từ ngày làm quen với hia Tiều, tôi đã ghiền món nầy và nhớ hoài không bỏ qua được. Cơm rồi tôi đánh một giấc để lấy sức, nhưng trời đất ôi, có ngủ nghê gì được với ba con rệp của phòng ngủ Tàu, thêm cái mùng dơ hầy, tuy mùng lưới thứ đắt tiền, nhưng khói thuốc phiện đóng ám đến trỗ màu vàng, còn dưới chưn mùng, nói mà phát gớm, lốm đốm những cụp lạc(2) thành tích mấy trận chiến đấu không thôi giữa gái làng chơi và trai tứ chiếng. Ai bày đặt khách sạn là “nhà ngủ” đáng gọi là “nhà thức” mới phải, vì khách đến đây, nếu không đi gái, thì đến để gầy sòng bài bạc hút xách, nhậu nhẹt, đĩ điếm, thức sáng đêm, tàng tịch ăn chơi chớ ít khi ngủ, bằng có ngủ thật thì lăn chiêng sau trận chiến đấu săn vi trùng, chớ gọi nhà ngủ nỗi gì, trớ trêu đi thật?
Vừa ba giờ chiều tôi đã rửa mặt, trả phòng, leo chuyến xe lửa bốn giờ rưỡi chạy, trực chỉ Sài Gòn, nơi quen biết cũ. Nhắc tới xe lửa thuở ấy mà tức cười, hèn gì Pháp đặt tên “le tortillard” (xe cong queo), thật ra xe nào cong queo nhưng đầu máy yếu quá, bữa nào kéo nhiều toa, thì xe lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức không nổi, còn cách dốc cầu độ nửa cây số ngàn, thì xả hết tốc lực, giựt dây thổi xúp-lê (sinet) nghè rậm đám lắm, nhưng khi tới dốc thì xe từ từ chậm lại, rồi lúc nào gặp trời mưa, đường rầy trơn, thì tuột dốc thụt lùi trở lại, mới là báo đời chưa? Chừng ấy nào người coi máy xổ chữ Nho nghe không hết, nào thầy xệp (chef de train) đổ thửa và quở trách om sòm, bóng đổ thầy, thầy đổ bóng rồi xe ngưng lại, chụm củi thêm, chờ cho máy nóng rồi ạch đụi lấy trớn chạy nữa, như được qua dốc cầu thì bữa ấy chuyến xe tới sớm hoặc đúng giờ, bằng không thì ngày ấy xe chịu tới trễ. Tức cười là bộ hành làm như con ruồi trong bài ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên (La Fontaine), xe thở hào hển rán sức lên dốc, còn bộ hành ai nấy đều nín hơi rặn phụ lực y như thuở xưa gặp đẻ khó, người thân quyến phải rặn giúp sức người sản phụ sanh thằng nghịch tử! Bữa tôi đi, may quá, xe tới nhà ga chợ Bến Thành thì trời chật vật nhưng chưa tối lắm, tuy vậy mà tôi cũng sợ, đội khăn sùm sụp (đây là tôi sơ ý vì lính thấy bộ tịch khả nghi càng mau gọi và xét giấy hơn là để đầu trần). Tôi kêu xe kéo tuốt lại khách sạn của thầy Bảy Phương đường Carabelli, vì thầy Bảy là người biết điệu lo lót đủ mặt cò bót và lính tráng, thêm nhà ngủ nầy ở gần đường Catinat, yên tĩnh lắm. Chỗ nầy người quen biết ít lại lắm, tuy vậy tôi cứ phập phòng, ngủ không yên giấc. Trời vừa rực sáng, tôi đã trả phòng, đi bộ lại chợ cũ, ních hai tô cháo cá ngon lành, vì đêm rồi nhịn đói bỏ cơm, và tiệm Quảng Đông bán cháo cá nầy nấu ngon lắm, ai ai đất Sài Gòn nầy đều quen biết thuở nay. Xong rồi tôi kêu xe kéo đến ngôi nơi bồn bông trước nhà thờ Đức Bà, ngang nhà dây thép chánh chờ chuyến xe đò chạy lên Tây Ninh, rủi bữa đó không có xe, tôi phải trở lại mướn phòng nơi khách sạn Nam Đồng Hưng, số 74 đường d’Espagne, ẩn mặt đến sáng thứ ba mới lên tới Tây Ninh, ẩn thân cửa Phật.
- Thôi hai đứa mình ô-rơ-hoa (au revoir!). Tao phóng xả cho mầy đó hãy tìm chồng khác lo làm ăn. Nay để tao cút trước, còn mày cũng phải thu xếp mà cao chạy xa bay cho lẹ lẹ, đừng để đổ bể việc nầy mà chết chùm cả đám. Tuy không giấy không tờ, nhưng tao thì có tiền án, mầy vừa xé giấy không lâu, hễ thằng chệc nó thưa thì lính tới nắm đầu lập tức. Như vậy kế đã thành, ta phải làm theo hát bội, hát bài tẩu mã, và dĩ đào vi thượng!
Nói rồi nó cuốn gói đi biệt. Cho đến nay tôi không biết tên họ nó là gì, luôn danh tánh cô Sáu chủ cũ của tôi cũng vậy. Trọn ngày đó, tôi sợ hết hồn, ngồi tính nát óc, muốn chờ hia nọ về mà lạy dài, tỏ thiệt đầu đuôi, năn nỉ xin trả một ngàn rưỡi bạc đó cho hia, rồi tình nguyện về làm mọi cho hia mãn đời là trừ nợ. Tính vậy rồi lại sợ: không phải sợ anh Tiều nầy không dung, rồi bỏ tù bỏ rạc gì. Nói chí đáng: gian hùng tới nước, cho ở tù cũng không oan. Song sợ nhứt là bể chuyện ra, nếu tôi khai thiệt, thì thằng Tư sao khỏi bị bắt. Ý cái thằng trời đánh, coi vậy mà oai ghê.
Không biết nó phù phép gì, mà trong tháng tôi ở với nó, nói tình tội tôi sợ nó như sợ cha, nó biểu chi tôi nghe nấy. Nay nếu tôi khai thiệt, quan bắt nó đặng, thì chẳng lẽ tội như vầy, mà ai đi chém giết gì nó, bất quá kêu án nó đôi ba năm, cha chả! Rồi chừng nó mãn tù, thì tôi có chạy đường trời cũng không khỏi tay nó. Tính nát trí khôn, rồi tôi cũng cho duy có kế trốn là hay.
Bữa đó lại là ngày thứ sáu, tôi mới gạt hia Tiều rằng tối mai thứ bảy, có chị em rủ đi ăn cơm Tây và xem hát sáng đêm, như vậy đừng có lại, vì tôi đi khỏi. Sắp đặt xong, đồ đạc vòng vàng bao nhiêu tôi đeo hết vào mình, lộn lưng một ngàn rưỡi bạc, ghịt mấy lần chắc chắn, còn lại gia dư tôi không dám lấy một món gì ở trong nhà đều bỏ lại hết. Bữa cơm chiều, trẻ nó dọn, bưng tới miệng cũng không kịp ăn, nuốt không vô, lật đật xuống tàu chạy đường Nam vang mà ẩn mặt.
Đi đường chuyến nầy tôi cẩn thận lắm, chẳng phải vì có tiền mà se sua lòe loẹt tôi mua giấy đi Phnom-penh hạng chót, rồi mướn một chiếc chiếu trải ngủ chen chúc giữa đám bộ hành đàn bà. Sáng ra tàu tới chợ Mỹ Tho, cặp bến. Tôi thấy lính xét giấy thuế thân, mà vì sẵn có tịch nên bịnh đa nghi của Tào Tháo hoành hành. Thế khi động ổ, có ai mạch cho hia Tiều, va đi cớ bót nên quan mới sai lính đón tra xét lung tung. Lúc đó trong bụng đánh trống chiến loạn đả. Liệu bề đi luôn lên xứ Chùa Tháp bất tiện, vì nghĩ dại rằng ắt có dây thép lục tống, và chỗ nào tàu ghé chắc là đêu có lính tráng kiểm tra. Muốn lên bờ tại đây đặng tánh đi ngả khác, ngặt sợ hai cậu bếp đứng chần ngần dường như tìm kiếm bắt cho được ai đó vậy. Trong cơn bối rối, trực nhớ lại chú mái chính răng bịt vàng cả hàm trên, trông dị hợm, nghe lỏm được biết chú lên ở Mỹ Tho, mà thiệt từ hồi tàu chạy cho tới bây giờ, mình thì lo buồn, mà chú cứ theo tấn ơn ve vãn, giận tức gần nứt bong bóng nay thấy chú đang dọn dẹp hành lý sửa soạn lên bờ, tôi bèn lại gần thỏ thẻ mượn chú chỉ giùm một khách sạn nào cho gần ga xe lửa, của Tàu hay của ta bất chấp, miễn sạch sẽ, vì thuở nay tôi chưa biết và quen thuộc đường xá xứ nầy. Hia ta nghe tôi ướm hỏi, coi bộ mừng quýnh quýu trông tức cười nhưng tôi rán nín. Hia ta lật đật giành xách cái quả cẩn đựng chút quần áo và hai tôi cặp kè đưa nhau lên bờ, coi tuồng như vợ chồng lâu năm gắn bó. Hai cậu bếp có lẽ quen mặt, nên chào chú mái chính mà không xét giấy.
Tới khách sạn ở mé sông gần ga xe lửa, do người Quảng Đông làm chủ, tôi nghe chú mái chính biểu dọn phòng thượng hạng, đế dắt tôi lên lầu nghỉ ngơi cho mát mẻ. Tôi cười thầm thằng Ba Tàu nầy muốn sanh bụng tẹo, cho nên một hai tôi nài ở phòng khách từng dưới, vì tôi còn đi kiếm thăm bà con, có lẽ ngày mai hay ngày mốt tôi mới trở về đây. Mái chính răng vàng cười bày đủ bộ răng gần nửa lượng, cho tôi rồi ra về, lại hứa để chiều mát trời, y sẽ đem xe nhà rước tôi qua xóm chợ cũ dùng cơm Quảng, có món hủ tíu đặc biệt tiếng đồn đến khách phong lưu Sài Gòn đều xuống đây thưởng thức, luôn dịp y sẽ mua giấy trước xem hát của gánh thầy Năm Tú nào đó diễn tuồng Kim Vân Kiều theo lối hát mới, gọi cải lương lại, vai Kim Trọng do thầy Bảy Thông đóng, và vai Thuý Kiều do cô Kim Cúc thủ đứng cặp với cô Thoàn(1) trong vai Thuý Vân, cả ba đều xuất sắc vả hát cụp lạc lắm. Tôi cũng ừ hữ cho có chừng, trong bụng cười thầm: “Mái chính ơi! Con nầy không vừa đâu, nó nhai tươi nuốt sống (nhĩ, mầy, anh) và ăn gỏi nị cái một, nhưng nó đang chạy trốn nên không dám trổ tài đó chớ, khuyên nị cứ ăn cơm Quảng Đông và ngủ với xẩm Tàu, đồng bào nị, là chắc ăn hơn. Nhưng đây là tôi nói thầm, mình nói mình nghe, chớ đâu dám bĩ hơi cho lậu sự. Chú mái chính đi về rồi, cũng vừa buổi trưa kiến cắn bụng, tôi lận lưng lấy ra một đồng bạc, nhờ anh chệc bồi phòng đi mua cho tôi một mâm cơm: hai chén cơm thật trắng thật ngon, còn thức ăn thì một tô canh câu kỹ, một đĩa thịt vịt quay lựa khúc đùi, một đĩa cua xào giấm và đừng quên cho tôi một đĩa thịt xá xíu, vì từ ngày làm quen với hia Tiều, tôi đã ghiền món nầy và nhớ hoài không bỏ qua được. Cơm rồi tôi đánh một giấc để lấy sức, nhưng trời đất ôi, có ngủ nghê gì được với ba con rệp của phòng ngủ Tàu, thêm cái mùng dơ hầy, tuy mùng lưới thứ đắt tiền, nhưng khói thuốc phiện đóng ám đến trỗ màu vàng, còn dưới chưn mùng, nói mà phát gớm, lốm đốm những cụp lạc(2) thành tích mấy trận chiến đấu không thôi giữa gái làng chơi và trai tứ chiếng. Ai bày đặt khách sạn là “nhà ngủ” đáng gọi là “nhà thức” mới phải, vì khách đến đây, nếu không đi gái, thì đến để gầy sòng bài bạc hút xách, nhậu nhẹt, đĩ điếm, thức sáng đêm, tàng tịch ăn chơi chớ ít khi ngủ, bằng có ngủ thật thì lăn chiêng sau trận chiến đấu săn vi trùng, chớ gọi nhà ngủ nỗi gì, trớ trêu đi thật?
Vừa ba giờ chiều tôi đã rửa mặt, trả phòng, leo chuyến xe lửa bốn giờ rưỡi chạy, trực chỉ Sài Gòn, nơi quen biết cũ. Nhắc tới xe lửa thuở ấy mà tức cười, hèn gì Pháp đặt tên “le tortillard” (xe cong queo), thật ra xe nào cong queo nhưng đầu máy yếu quá, bữa nào kéo nhiều toa, thì xe lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức không nổi, còn cách dốc cầu độ nửa cây số ngàn, thì xả hết tốc lực, giựt dây thổi xúp-lê (sinet) nghè rậm đám lắm, nhưng khi tới dốc thì xe từ từ chậm lại, rồi lúc nào gặp trời mưa, đường rầy trơn, thì tuột dốc thụt lùi trở lại, mới là báo đời chưa? Chừng ấy nào người coi máy xổ chữ Nho nghe không hết, nào thầy xệp (chef de train) đổ thửa và quở trách om sòm, bóng đổ thầy, thầy đổ bóng rồi xe ngưng lại, chụm củi thêm, chờ cho máy nóng rồi ạch đụi lấy trớn chạy nữa, như được qua dốc cầu thì bữa ấy chuyến xe tới sớm hoặc đúng giờ, bằng không thì ngày ấy xe chịu tới trễ. Tức cười là bộ hành làm như con ruồi trong bài ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên (La Fontaine), xe thở hào hển rán sức lên dốc, còn bộ hành ai nấy đều nín hơi rặn phụ lực y như thuở xưa gặp đẻ khó, người thân quyến phải rặn giúp sức người sản phụ sanh thằng nghịch tử! Bữa tôi đi, may quá, xe tới nhà ga chợ Bến Thành thì trời chật vật nhưng chưa tối lắm, tuy vậy mà tôi cũng sợ, đội khăn sùm sụp (đây là tôi sơ ý vì lính thấy bộ tịch khả nghi càng mau gọi và xét giấy hơn là để đầu trần). Tôi kêu xe kéo tuốt lại khách sạn của thầy Bảy Phương đường Carabelli, vì thầy Bảy là người biết điệu lo lót đủ mặt cò bót và lính tráng, thêm nhà ngủ nầy ở gần đường Catinat, yên tĩnh lắm. Chỗ nầy người quen biết ít lại lắm, tuy vậy tôi cứ phập phòng, ngủ không yên giấc. Trời vừa rực sáng, tôi đã trả phòng, đi bộ lại chợ cũ, ních hai tô cháo cá ngon lành, vì đêm rồi nhịn đói bỏ cơm, và tiệm Quảng Đông bán cháo cá nầy nấu ngon lắm, ai ai đất Sài Gòn nầy đều quen biết thuở nay. Xong rồi tôi kêu xe kéo đến ngôi nơi bồn bông trước nhà thờ Đức Bà, ngang nhà dây thép chánh chờ chuyến xe đò chạy lên Tây Ninh, rủi bữa đó không có xe, tôi phải trở lại mướn phòng nơi khách sạn Nam Đồng Hưng, số 74 đường d’Espagne, ẩn mặt đến sáng thứ ba mới lên tới Tây Ninh, ẩn thân cửa Phật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét