Cái Tết giàu xúc cảm đã chết rồi?
Cái Tết của mới mấy chục năm về trước, vừa mới hôm qua đây, đã như vô cùng xa lạ với cái Tết hôm nay… Con người mình đã đổi thay? Cảm xúc của mình đã đổi thay? Bản thân cái Tết đã đổi thay? Hay là tất cả mấy cái đó?
Ngày trước dù sống ở giữa phố phường Hà Nội, nhiều người cả năm hiếm khi có lấy bức ảnh chụp. Chỉ ngày Tết đến, cả gia đình mới diện cho nhau bộ quần áo đẹp nhất, hơi ngượng một tí vì chợt quá diện hơn hẳn ngày thường, trịnh trọng bách bộ ra phố hướng đến hiệu ảnh ở phố Tràng Tiền, hay ở phố Hàng Khay, để chụp lấy mấy kiểu ảnh gia đình, mấy kiểu chân dung. Một khoản ngân sách đáng kể. Phố phường yên vắng, lặng thinh, nghe thấy rõ cả tiếng của xích xe đã rã đang cà vào cái líp xe đã cùn, “kịch-cà-rà-kịch”, mỗi khi có bác xích-lô đạp xe ngang qua. Mở cuốn album, duy nhất, của một gia đình ngày ấy ra, mỗi trang là một bộ ảnh của ngày Tết của mỗi năm. Trừ phi có thêm sự kiện gì đặc biệt lắm, thì mới thấy có thêm vài chiếc ảnh khác. Ảnh đen trắng, hoặc nâu trắng, giấy bóng, giấy lụa, đôi khi có chiếc được tô tí màu bằng bút lông. Chúng được cắt riềm dentelle như những chiếc bánh biscuit, và có khi bị gián mối nhấm mất toi một góc. Hôm nay các bạn tuổi teen ngồi rảnh rỗi năm phút là đã giơ điện thoại ra chụp cho mình lấy vài chục kiểu ảnh, rồi lập tức tống chúng lên Facebook, và chém gió bình loạn nhau hả hê được liền…
Con người, đời sống đổi thay đến như thế. Tết không thay đổi được chăng?
thanh niên 1994 đi ăn Tết quê
Cảm xúc
Thời Hà Nội còn trong chiến tranh, các trường học phải tản cư ra khỏi thành phố, thường về các tỉnh. Trường nhạc họa của thành phố được ưu tiên tản cư ra ở… ngay Quảng Bá, bên Hồ Tây! Hà Nội cỏn con, hết đường Cổ Ngư đã là hết nội thành, đường xe điện cũng kết thúc ở đó, bến Yên Phụ. Ăn ở tại trường, chiều thứ bảy bọn trẻ trường này được về nhà trong phố, nếu bố mẹ không dặn đón thì chúng tự cuốc bộ với nhau ra đến tận Yên Phụ để lấy tàu điện chạy về Cửa Nam, về Bờ Hồ... Trường đặt ở chỗ “dốc phi lao” của đường đê, cái dốc duy nhất có hàng cây phi lao của Quảng Bá, và trong những cây phi lao ấy có loài châu chấu voi đặc biệt, to bằng bàn tay trẻ con, rất đáng kính nể. Nay thì con dốc này đã thành ra một con phố nội đô, giá mà nó được đặt tên thật giản dị, ví dụ như lấy tên đường làng cũ của nơi đó, hoặc là “Dốc phi lao”, thì sẽ gợi cảm, gợi nhớ biết bao nhiêu. Sao người ta cứ mải mê dán hết tên người này với tên người nọ vào những chỗ như thế, để mà làm gì, để làm hỏng hết các kỉ niệm của đời sống? Đường đi trên đê trước khi xuống con dốc ấy rậm rịt những ổi là ổi, ngút ngát, thơm tho, thời đó chưa có đường đê ngoài như bây giờ. Những làng quanh đó thì tuyệt đẹp, các ao ngòi, vườn hoa, vườn quả thông nối sang nhau, tha hồ lang thang. Muốn mua hoa quả, khách mua nhiều khi phải đánh thức chủ nhà đang ngủ trưa thức dậy, để họ mang sào ra vặn trẩy quả. Đi quá Quảng Bá thì đã là những cánh đồng làng quê Nhật Tân, Phú Thượng, Chèm Vẽ đìu hiu yên ả. Trường văn hóa thể thao của thành phố thì ở chỗ Quần Ngựa, cuối đường Đội Cấn, đã là đủ tiêu chuẩn tản cư. Dọc đường Đội Cấn đi từ trung tâm thành phố đến Quần Ngựa, chỉ thấy các làng, hồ nước, ruộng rau, và các đầm sen thơm ngát. Nay thì cả vùng này đã lọt thỏm trong “trung tâm nội đô mới” của Hà Nội.
Phố phường Hà Nội còn rất vắng dân cư, còn chưa chuyển sang “làm việc thông tầm”. Buổi trưa tan tầm người đi làm còn kịp đạp xe về nhà, đắp lò mùn cưa, dóm lửa bếp củi, vo gạo thổi cơm, dọn mâm ăn uống, cả ngủ trưa chớp nhoáng nữa, để rồi mới lại đạp xe đi làm buổi chiều. Trẻ con thường mê đắp lò mùn cưa cho bố mẹ: đặt cái chai thủy tinh vào giữa cái lò tôn sắt, như một cái xô nhỏ, nhồi lèn mùn cưa xung quanh cái lọ, trích mở lấy bớt mùn cưa qua “cửa lò” ở phía dưới cho thông khí vào tới tận cái thân chai, rồi nhẹ rút cái chai ra. Cả một tác phẩm nghệ thuật !
Thời đó cả Hà Nội, mà cũng là cả phía Bắc, chỉ có đúng ba tờ báo hằng ngày, mỗi tờ bốn trang, các trang nhất giống hệt nhau, các nửa trên của trang thứ tư “Tin thế giới” cũng giống hệt nhau luôn, nhiều chỗ ở trên các trang hai, trang ba là những đoạn đăng “tiếp theo…” của các bài của trang nhất và trang bốn… Nội dung bản sắc của mỗi tờ báo chỉ còn đặt cược được ở những chỗ trống còn lại. Tờ báo tuy giá 5 xu, một đồng là mười hào, là một trăm xu, nhưng người nghèo muốn đọc báo không mất tiền thì… đạp xe hay cuốc bộ ra chỗ tòa báo!
Các ngày thứ hai liền sau ngày chủ nhật có trận bóng đá, dân nghèo nghiện bóng chen nhau ở trước cửa của tòa báo thành phố để đọc trang cuối của tờ báo thành phố, dán ở trong cái hộp gỗ có mái che, phía trước có cửa bọc lưới sắt mắt cáo, toét cả mắt để đọc xuyên thủng qua được cái lưới này. Hồi đầu cửa hộp gỗ này lắp kính, nhưng hay bị vỡ, nên rồi mới chuyển sang lưới mắt cáo thông minh. Số báo ngày thứ hai này sẽ có mẩu bài, may mắn thêm nữa thì có tấm ảnh, tường thuật lại trận bóng đá buổi chiều chủ nhật trước đó, từng lời lẽ rất căn đo để lường trước các cơn ganh tị của các fan của hai đội tham đấu. Sáng ngày chủ nhật nếu bạn rỗi rãi thì có gì thả bộ ghé vào sân Câu lạc bộ ở ven Bờ Hồ cạnh nhà hàng Phú Gia, ngồi ở các bậc khán giả ngoài sân có cây cao tỏa bóng mát, dự trận đấu giải cờ tướng. “Bên trắng, tốt ba tiến một”, tiếng loa phát ra, người phụ trách bàn cờ lớn loay hoay dịch con “Tốt” vĩ đại trên cái bảng cờ treo chỗ sân khấu. Một ván cờ đi luôn cả một buổi sáng trong cơn thảo luận mưu tướng mẹo sĩ say sưa của khán giả, chả ai thấy sốt ruột.
Hôm nay, còn tìm ra được ai có cái tinh thần “không chống cự lại thời gian” như thế ở Hà Nội được nữa không? Không thể còn được.
Cảm xúc con người đã đổi thay, vũ bão. Tết không thay đổi được chăng?
Cuốn phim Tết xưa
Hồi nhỏ mỗi khi đi đâu, dẫu chỉ trong vài ngày, rồi trở về Hà Nội qua cây cầu Long Biên lượn khúc thanh thoát trên những con sóng sông Hồng ngậm đỏ phù sa đang nghì ngoạp mãi sâu tít dưới kia, lòng tôi thoắt se lại, thiêng liêng, tự nhủ mình rằng, không bao giờ, không bao giờ tôi sẽ xa được Hà Nội. Nơi yêu thương này, có xóm giềng, có bè bạn, từ thuở lọt lòng. Vẫn chuyện năm nọ cái trường tản cư ở Quảng Bá rồi bị ngập mưa lớn kéo dài, mà đã sang nửa sau của năm học, tình thế Hà Nội thì đã yên ổn hết lo đạn bom, trường này thế nào được đặc cách về giảng dạy học tập tạm ngay tại… bên trong khu Văn Miếu ! Dãy nhà này, tổ violon, tổ violoncelle, dãy nhà kia, tổ sáo, tổ nhị, dãy nhà nữa, tổ hội họa, tổ piano… Ngẫu nhiên vô cùng được làm “những học sinh cuối cùng của Văn Miếu”, trong nửa năm trời! Lúc này các trường học bình thường khác vẫn chưa được mở trở lại ở Hà Nội. Thật là một Hà Nội vô cùng “của ta”.
Hà Nội trở về thanh bình, sau nhiều năm thời chiến trống vắng. Trong éo le thời cuộc cũng có cả may mắn, suốt mấy chục năm trời thành phố này hầu như không có chút thay đổi gì về kiến trúc nhà cửa, phố xá, chúng chỉ bị cũ kĩ đi, cổ kính thêm đi, và cư dân thì “ở đâu ở đó”, không được xáo trộn. Tất cả điều này cho những người trong cuộc có một không gian-thời gian vô cùng đặc biệt, đầy định hình, định sắc, định tâm của một thành phố rất “của mình”.
Nhiều buổi trưa tan học về, bạn bè mấy đứa kéo nhau ra thuê thuyền đôi ở Hồ Gươm, chèo bơi say nắng, leo cả lên đảo Tháp Rùa cho thỏa lòng hiếu kì. Hà Nội bé bỏng, con đường mình đi học không bao giờ cần phải có mũ nón áo mưa, nhờ những mái hiên rộng rãi tuyệt vời chạy suốt từ Khách sạn Métropole, rồi dọc Tràng Tiền, rồi lượn sang Hàng Bài cho đến ngay gần cổng trường. Mấy tấm pano vẽ quảng cáo phim ở ba cái rạp chiếu phim trên đoạn đường này luôn thời sự hóa cho mình tình hình phim ảnh, mê phim gì quá thì khi tan học ghé qua mua vé luôn. Mấy tiệm sách “Quốc Văn”, “Ngoại Văn” trên đoạn đường này cho mình rành rọt các đầu sách vở mới, cứ như thành trí thức đến nơi. Hà Nội quen chân, cảm như thuộc từng viên gạch lát ở các vỉa hè, từng cây sấu mùa về quả chín vàng đỏ trên các con phố. Hà Nội quen tai, từng âm thanh bánh xe điện rít lên những cung điệu rất riêng biệt ở mỗi cung đường, ngồi trên xe điện nhắm mắt lơ mơ mà mình cũng đã biết rõ ràng là mình đang phố nào, chỗ nào… Thế mà rồi cũng như bao nhiêu người, tôi phải đi xa khỏi Hà Nội… Để cho lòng mình càng ắp đầy thương nhớ.
***
Bây giờ nếu Tết về gặp lại người xưa mà họ đã quá khác trong Tết xưa, nhỡ họ lại cảm xúc xa lạ với cái cách mà họ vẫn cảm xúc khi xưa? Bây giờ nếu Tết về gặp lại bức tranh phố phường ngày Tết đã quá khác khi xưa?
Mà chính tôi đây, có gì để bảo đảm được đâu rằng tôi vẫn như xưa, vẫn xúc cảm như xưa khi Tết Hà Nội về ?
Nên vấn vương vừa nãy là thực tế hơn hết, trước khi thành quá muộn.
...........................................................................................
..................................................................
............Tuy nhiên........................
........
Có người bảo, thời bao cấp, quanh năm là lo toan, vất vả, chỉ 3 ngày Tết là sung túc, nhàn nhã. Thế nhưng khi quá khứ đã ở lại sau lưng, trong tâm trí nhiều người bất chợt trào dâng nỗi nhớ, kỷ niệm của một thời gian khó lại ùa về...
Trong vô số sự kiện có thể gây sung sướng thời bao cấp, thì Tết là sự kiện sung sướng hơn cả. Nhà tôi, cứ đến ngày ông Công ông Táo lên chầu giời là thế nào mẹ tôi cũng háo hức hỏi bố tôi năm nay được phân bao nhiêu cân thịt.
Ngày thường, theo chế độ tem phiếu, mỗi cán bộ, công nhân được phân 3 lạng thịt/tháng. Tết đến, ngoài chế độ cao hơn (5 lạng/khẩu) thì hầu như cơ quan nào cũng mổ lợn chia cho cán bộ. Cơ quan bố tôi dịp Tết cho đến 5 - 7 cân thịt, có năm còn cho tới 15 cân. Năm đó, quê ngoại tôi cho thêm mấy con gà, vậy là nhà tôi ăn Tết to.
Khi Tết đến, nỗi lo lắng chiếm nhiều thời gian của các gia đình nhất là nồi bánh chưng, thường là do các gia đình tự gói. Nhà tôi hay gói bánh chưng vào 27 Tết. Mỗi lần đến ngày này tôi lại lăng xăng trải chiếu, đặt mâm, chọn trong đống lá dong vài chiếc lá bé xíu để tự gói cho mình một chiếc bánh. Lúc đậu đã đồ xong, thịt đã ngấm đủ hành, mắm, hạt tiêu, gạo sẵn sàng trong rá là lúc cả nhà bắt tay vào “sản xuất”.
Bố tôi gói bánh rất nhanh, lại vuông và chặt tay lắm, hơn chục cân gạo mà loáng cái đã xong. Đến khoảng 5 giờ chiều, bố tôi cho bánh vào nồi, nới rộng mấy ông đầu rau, nhét vào những thanh củi to như ống chân rồi “khai hỏa”. Có lần vừa châm lửa bố vừa vui vẻ hát bài “Nổi lửa lên em” khiến chúng tôi cười ngặt nghẽo.
Bánh chưng được luộc đun từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau, bố tôi bảo ít nhất cũng phải luộc đủ 12 tiếng bánh mới dền, không bị lại gạo. Đêm luộc bánh chưng, chị em tôi thức đến 2 – 3 giờ sáng rồi ngủ ngay trên chiếc chiếu trong bếp.
Cũng có năm nhà tôi và nhà chú thím hàng xóm luộc bánh chung. Gọi là chú thím nhưng nhà tôi và nhà chú thím ấy không có quan hệ họ hàng gì. Những năm đó, dù người tứ xứ đã bắt đầu đổ về Hà Nội nhưng chất làng xã còn rất đậm, vẫn gọi nhau bằng những danh xưng như người trong một gia đình. Mỗi khi nhà ai có việc gì là hàng xóm lăn vào giúp, coi như việc nhà mình.
Khi luộc bánh chung thì phải dùng sợi lạt đánh dấu để tránh nhầm lẫn, bởi mỗi nhà gói bánh theo một chất lượng khác nhau. Bánh nhà nào có nhiều thịt, đậu được coi là niềm tự hào của gia chủ, vì nó chứng minh cho sự khá giả.
Một thời quy gai xốp
Ngày thường, trẻ con chúng tôi chỉ quanh quẩn với kẹo lạc, kẹo vừng, chè lam, kẹo bột. Tết đến, thứ bánh không thể thiếu là quy gai xốp. Thực ra bánh quy gai và quy xốp là hai loại khác nhau, nhưng vì thường xuất hiện cạnh nhau nên người ta quen miệng gọi bánh quy gai xốp. Bánh quy gai trông như chiếc đũa cả, dài chừng 6 cm, rộng 2cm, ở một mặt bánh có những hàng gai đâm lên tua tủa. Còn bánh quy xốp có nhiều hình thù khác nhau, nhưng làm cùng chất liệu (đường, trứng, bột mì) như quy gai.
Thường thì trước Tết khoảng 15 ngày, mấy mẹ con tôi rồng rắn mang nguyên liệu ra tiệm làm bánh của hợp tác xã, để đó rồi hôm sau ra lấy bánh về. Nhưng nhiều người khác thì cẩn thận hơn, họ chờ làm xong thì lấy luôn. Có thể do người ta nghe nơi này, nơi kia bị làm “nhầm” bột hoặc thiếu đi chút ít đường, trứng nên các bà nội trợ áp dụng phương châm “cẩn tắc vô áy náy”. Bánh mang về rồi, mẹ tôi lấy giấy báo ủ kỹ, cho vào trong những chiếc thùng tôn đựng gạo. Mẹ bảo như thế bánh mới giòn.
Đến ngày 30 Tết, khi nhà cửa đã được quét dọn, bày biện tươm tất, lúc đó quy gai xốp mới được cho vào những chiếc đĩa xinh xinh trên bàn. Mẹ bảo, ăn bánh vào lúc giao thừa mới ngon, nhưng chị em tôi thì đã xơi trộm ngay từ khi mang về. Mồng một Tết, nếu có trẻ con hàng xóm sang chơi, ngoài 5 xu, 1 hào mừng tuổi, thế nào bố mẹ tôi cũng đưa kèm thêm dăm ba chiếc quy gai xốp. Dù trong mớ bánh có những chiếc nướng quá lửa, cháy đen cả cạnh, nhưng ăn sao vẫn thấy ngon thế, thơm thế.
Mỗi năm Tết về là chị em tôi lại tất bật với quần áo, giày dép. Theo tiêu chuẩn, bố và bà nội tôi được 10 mét vải xanh chéo/năm, mẹ thường dùng vải này may quần cho chúng tôi mặc đi học. Còn đến Tết, mẹ mua vải ngoài thị trường, mịn và đẹp hơn để may cho chị em tôi những bộ cánh mới. Sau những năm 1980, bố tôi hay phải đi công tác miền Nam nên Tết đến chị em tôi còn được bố mua cho quần bò Levis, dép sa – pô, những thứ trong mơ.
Giấc ngủ tuổi thơ
Khi trăm thứ bà rằn cho một cái Tết hoàn tất, cả nhà háo hức trong bữa cơm chiều 30 Tết. Còn đến lúc ba chiếc kim đồng hồ chuẩn bị chập vào con số 12, chị em tôi vừa xem mẹ cúng giao thừa vừa nóng lòng chờ bố về xông đất. Khi đã lớn hơn, cũng có năm giao thừa tôi đi chơi cùng đám bạn. Ngày đó quán xá rất ít nên mọi cuộc đi chơi đều dẫn đến Hồ Gươm. Tại đây chúng tôi chụp ảnh, xong rồi làm vài con mực với món tương ớt cay xé lưỡi.
Mồng một Tết, chị em tôi dậy từ rất sớm để nhận tiền mừng tuổi từ bố mẹ và chờ... khách đến. Tuy nhiên, khi có khách, chúng tôi biết ý “đi chỗ khác chơi”, chỉ lúc các cô, chú gọi mới bẽn lẽn lại gần, dù đã như mở cờ trong bụng. Ngày ấy, cha mẹ rèn con nghiêm lắm, cha mẹ chưa cho phép, cấm có dám cầm thứ gì của ai.
Hết 3 ngày Tết, mọi thứ nhanh chóng quay trở lại nhịp sống thường ngày, người lớn đi làm, trẻ con đi học, ra đường lại thấy quần xanh chéo, xe đạp, cặp lồng tung tăng khắp phố, trong ngõ xóm cơm rang lại nhảy lách tách trong chảo, tất cả lại cần mẫn trong suốt một năm để đón đợi cái Tết năm sau, với bánh chưng, thịt mỡ dưa hành, túi quà Tết, quy gai xốp theo tiêu chuẩn nhà nước.
Năm 1986 – năm đầu tiên chấm dứt thời kỳ bao cấp, dường như đã có không ít người bỡ ngỡ. Mấy chục năm ăn có nhà nước lo, Tết có nhà nước chu cấp đã trở thành một thói quen, không dễ gì từ bỏ ngay được. Thế nhưng sự chống chếnh ấy cũng nhanh chóng qua đi, giờ đây nếu nói đến cảnh xếp hàng từ nửa đêm sắm đồ Tết hẳn nhiều người sẽ thấy rất khôi hài. Tất cả những câu chuyện đó đã trở thành quá vãng, thành kỉ niệm mang nhiều sắc thái, chua xót lẫn ngọt ngào, mừng vui hòa tiếc nuối.
Một mùa xuân lại về, tôi nhớ cái cảm giác se lạnh, mưa phùn giăng giăng ngoài sân, da thịt tôi cảm nhận được hơi ấm từ ngọn lửa, từ nồi bánh chưng đang sôi lục bục và dường như từ cả những câu chuyện mà bố mẹ tôi nói với nhau. Giờ bố tôi đã đi xa, nhà không gói bánh chưng mỗi dịp Tết đến, tôi cũng không còn được ngủ bên cạnh hơi ấm của ngọn lửa. Có lẽ đó là những giấc ngủ mà chỉ tuổi thơ mới có được.
Câu nói ghi dấu một thời
Buồn như mất sổ gạo; Mặt nghệt như mất sổ gạo; Mua được gạo không mốc sướng lâng lâng cả ngày;
Một trăm lời nói không bằng ống khói Honda;
Bây giờ yêu nghĩa là vèo xe cup/Xe đạp anh xịt lốp cả tư mùa (Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo)
Một yêu anh có may ô/Hai yêu anh có cá khô ăn dần;
Một yêu anh có Sen-ko; Hai yêu anh có Pơ-giô cá vàng; Ba yêu nhà cửa đàng hoàng; Bốn yêu hộ khẩu rõ ràng Thủ đô;... Bảy yêu anh vững tay nghề; Tám yêu sớm tối đi về có nhau; Chín yêu gạo trắng phau phau; Mười yêu nhiều thịt ít rau hàng ngày. (Bài thơ 10 yêu, lược bớt một số câu).