VƯỢT TRƯỜNG SƠN
Năm 1968
Sau chuyến đi công
tác Nghĩa Lộ, tôi về HàNội, được hưởng một cái tết gia đình thật
vuivẻ. Rồi họp và nhận được quyết định đi B. Bao sung sướng! Thế
là tôi chẳng còn lòng dạ nào mà ngồi với bút sách nữa. Chạy nhào
lên Sơn La mang các thứ về để kịp tập trung. Riêng cái xe đạp
thì phải để lại, vì không có phương tiện chuyên chở, anh em sẽ
đem về gia đình giúp khi có điều kiện. Điều duy nhất làm tôi
luyến tiếc là không kịp lấy giấy chuyển đối tượng kết nạp
Đảng. Việc phấn đấu, coi như phải làm lại từ đầu. Ngoài ra, còn
có một
số tài liệu hay
mà không viết được vì lòng cứ rộn lên.
Từ 9/3/1968
Chúng tôi đến nơi
tập trung để bồi dưỡng vàrèn luyện. Lại lên ở với núi rừng -
trại 105 này đóng ở Hòa Bình, nơi có những ngọn núi đá vôi cùng
nhiều hang động khá lớn. Ăn uống thật khá. Chúng tôi phát ngấy
mỡ lợn, phải ăn kèm với các món chua (chủ yếu là giá muối chua).
Chúng tôi tập hành quân: đeo gạch vàleo núi. Công việc đó không có gì
mới lạ đối với tôi, vì khi công tác ở vùng rừng núi Sơn La, tôi
đã từng leo dốc cao, mang vác nặng.Tuy nhiên có những tối hành
quân trên đường số 6 thì thật vui. Rừng vốn tĩnh mịch, chỉ có
những ánh đom đóm lập loè nơi thung lũng. Song rừng bỗng chuyển
động ầm ầm bởi những đoàn quân đi. Chúng tôi đi hàng hai ven
đường, còn lòng đường thì nhường chotừng đoàn xe lớn. Có những đoàn
chở vũ khí,phủ bạt kín mít, lầm lũi lăn bánh.
Có những chiếc xe
xích sắt rú ầm ầm, xủngxoảng, ở ống xả hơi, thỉnh thoảng lửa lại
phụtra, kéo thành một đường lửa nhỏ mà đỏ rực.Có những chiếc ô tô chở
đầy chiến sĩ. Tốiquá, không nhìn thấy họ, song nghe giọng nói
và tiếng cười của họ, tôi dám chắc rằng họ còn trẻ lắm và nét
mặt họ rạng rỡ lắm. Họ hò hát. Họ thét lên với chúng tôi:
- Đi trước nhé!
- Gặp nhau ở
Khe Sanh nhé!
- Gặp nhau ở
Sài Gòn nhé!
Và nhiều nữa. Họ
lại hát những bài ca sục sôi khí thế cách mạng: Hành quân xa, Vì
nhân dân quên mình... Trên một chiếc xe vọng lại tiếngkèn acmônica
với bài Giải phóng Miền Nam. Phải, giải phóng Miền Nam, chúng tôi, các
đồng chí đang trên đường đi giải phóng MiềnNam đây! Trong tiếng
xe chuyển động rầm rầm, tôi thấy máu trong người bốc lên hừng
hực. Tôi muốn băng ngay theo những đoàn xe - chúng đi chếch sang
phía Tây để vòng về phương Nam - Tiền tuyến đó.
Ngày 30/4/1968
Chúng tôi đã nhận
xong trang bị và hôm naybắt đầu lên đường. Mưa phất nhẹ những hạt
liti như bụi phấn. Chúng tôi ra đi trước sự tiễn biệt của nhà
trường, của những anh em đisau. Vì bí mật, không ai được báo cho
ngườinhà đến tiễn. Một số người có đại diện cơquan đến đưa chân.
Anh Điều - công nhân intráng phim thuộc ngành Điện ảnh - đi trong
đoàn tôi, bỗng khóc rưng rức. Anh em xúm lại hỏi, anh bảo khóc
vì “nhớ cơ quan quá!” Tôi không ai tiễn đưa, nhưng lòng thấy
thanh thản. Bẩy chiếc xe chở đoàn chúng tôi. Xe chuyển động và
mọi người vẫy gọi. Tôi từng ra đi, từng gặp nhiều cuộc chia tay,
song lần này sao thấy nó khác thế. Lòng bâng khuâng, háohức, thương
mến...Ôi, bao cảm xúc cứ xen vào nhau...
Chúng tôi đi theo
đường quân sự, vắng lặng mênh mông.
Không một bóng người.
Không một bóng nhà. Chỉ thấy con đường mờ mờ trắng và bạt ngàn
là màu tím đen của núi rừng cùng vô vàn ánh đom đóm lập loè khắp
thung lũng.
Suốt từ 30/4 đến
5/5, chúng tôi đã vượt đượchàng trăm cây số, vượt qua Hòa Bình, vượt
Thanh hóa đến Nghệ An.
Đoàn chúng tôi dừng
lại ở Nam Vân - NamĐàn, gần ngay quê Bác. Ở đây, máy bay Mỹquần suốt
ngày đêm. Một buổi trưa, chúng tôi nghe những tiếng bom nổ
uỳnh uỳnh và một tiếng “bụp”. Một quả bom rơi rất gần chúng tôi,
trúng vào một xóm trước mặt. Bụi đất tung lên vàng khè. Bọn quỷ
Mỹ lại tàn sát dân ta đây! Lòng chúng tôi nghẹn lại căm thù!
Buổi tối, chúng tôi
ra đi. Chẳng còn mấy chốcnữa sẽ đến thành phố Vinh. Trời xẩm tối.
Đoànxe chợt dừng lại. Người gác barie báo có bomnổ chậm ở phía
trước. Thế là xe phải quayđầu lại. Phía xa, mấy chiếc đèn dù của
lũ máy bay mới thả treo lơ lửng, hắt ánh sáng vào cả khoang xe
chúng tôi.
Lại xuống xe, vào
làng, tìm nhà dân để ở.Chúng tôi toàn dựa vào đồng bào thôi mà!
Tổchúng tôi đang ngơ ngác tìm đường thì có mộtông cụ trạc 70 tuổi ra
gọi:
- Các con vào
nhà bố mà ở!
Mừng quá, chúng tôi
tạt vào. Ông cụ đi trước,lưng hơi còng song dáng còn nhanh nhẹn lắm.
Trong nhà, một phụ nữ ra mở cửa liếp - đó là con dâu cụ
lão. Gia đình lục đục thức dậy. Cụ mở màn, lay gọi hai đứa bé.
Chúng tôi gạt đi:
- Thôi, để các
em ngủ, chúng con nằm đâucũng được!
Cụ sốt sắng:
- Không, có chỗ
cho chúng tôi rồi. Nằm đâycho tử tế.
Cái giường ấy rộng
song hơi ngắn. Dưới gầm nó là một cái hầm lớn. Chiếc giường được
kê nửa chìm, nửa nổi trên chiếc hầm đó.
Sáng, chúng tôi giật
mình choàng dậy vì những tiếng động lớn.
Mấy chiếc phản lực
xà sát sạt, gầm rít điênloạn. Hai đứa chúng tôi vùng dậy định tụt
xuống hầm, song lúng túng mãi vì mấy sợi dây dù ở cái võng chúng
tôi dùng làm chăn đắp cuốn cả vào chân, tay.
Lẫn trong tiếng phản
lực, tôi nghe tiếng cười khanh khách ròn tan của trẻ thơ. Một cô
bé chừng 14 tuổi đang đứng ôm cột nhìn chúng tôi mà cười. Trời,
giữa vùng chiến sự ác liệt này sao lại có giọng cười hồn nhiên
như vậy nhỉ?
Ngày 8/5/1968
Chiều rồi mà số
bom quái quỉ kia vẫn chưađược giải quyết.
Đoàn chúng tôi quyết
định phóng xe vượt qua nơi đó. Không còn cách nào khác. Chẳng lẽ
nằm ì ra mãi?
Xe chúng tôi vẫn
đi thứ hai. Nó ầm ì tiến khỏi làng, ra đường lớn. Rồi nó tăng
tốc độ. Chúng tôi ngồi ngay ngắn, tay bám chặt lấy thành xe. Xe
vượt qua nghĩa trang liệt sĩ 30-31, rồi qua gốc đa. Chỉ qua cái
cống nữa là đến bãi bom. Nhìn lại sau xe, tôi thấy mấy cô gái
đang thủng thẳng bước tới và cười rất tươi. Sắp đi qua bãibom, sao mà
thản nhiên vậy? Xe xóc mạnh vàbăng lên. Sau xe, cánh đồng lúa xanh
mởn trảirộng dần ra. Và ở một vạt lúa sát bên đường có 2 hố
đen ngòm, bùn bắn tung toé xung quanh. Còn 4, 5 hố khác ở mấy
thửa ruộng xa hơn. Đó, các hố bom đó. Xe vẫn băng lên.
Cái chết lùi dần
lại phía sau. à, ra cũng đơn giản thôi.
Thế là qua bãi
bom một cách an toàn. Xe tiến về thành phố Vinh. Nhà thờ Vinh
đứng câmlặng bên những ngôi nhà tan hoang, những ngọn cây xơ xác vì
bom Mỹ. Chợ Vinh tan tành, cái biển đề tên chợ treo ở cổng cũng
bị bom hất xuống, chỉ còn bám chếch vào một trụ gạch như thách
đố.
Chúng tôi xuống xe.
Vừa lúc ấy nghe phía Nam Đàn có một tiếng nổ lớn: bãi bom đã
lêntiếng! Không hiểu mấy cô gái tôi gặp có saokhông?
Xe đỗ ở ngã
tư thành phố để chờ qua phà. Còn cách 3-4 km nữa nhưng nơi đó
rất nguy hiểm nên xe phải chờ ở đây. Khi nào phà đến sẽ có
người gọi điện thoại báo cho trạm barie, trạm lại hướng dẫn cho
xe đi. Hoàng hôn dần buông xuống. Bầu trời xam xám, điểm chútmây hồng
ở phía Đông. Vinh đây, tơi tả vì sự tàn phá của chiến tranh.
Vắng vẻ, đìu hiu. Mấy hàng phi lao cao vút đứng lặng, in
bóng sẫm trên nền trời, cạnh những ngôi nhà gác đổ tan hoang.
Trạm biến thế điện
bỏ không, xung quanh có công sự. Bọn tôi đứng đó ngắm nhìn cái
cảnh tĩnh mịch của thành phố và nghĩ mãi rằng tại sao lại có
những lúc nó nổi bão lửa hừng hựctrái ngược với cái vắng lạnh mênh
mông này được? Chúng tôi khẩn trương lên xe. Xe từ từ tiến về
Bến Thuỷ. Bên phải đường là nhà máy điện. Bom nổ làm đất đá ở đó
bị đào xới lộn bậy. Những cột điện gẫy gục hoặc đổ nghiêng.Cạnh đó là
núi Quyết. Phải, cái ngọn núi nhỏnhoi lở loét ra vì bom đạn đó chính
là ngọn núi anh hùng, đã từng nổi danh cùng đội tự vệ thành phố
Vinh dám đương đầu với lũ “thần sấm”, “con ma” Mỹ.
Sông Lam trôi êm đềm. Bến vẫn phẳng lắm. Xenhẹ nhàng
lên phà. Phà rộng thật, chở tới 5xe. Bọn tôi đứng hai bên thành phà.
Trăng lên rồi, tỏa ánh sáng nhàn nhạt xuống
dòng sông. Tôi đứng bên trái phà ngắm nhìn sông không chán mắt.
Dải Hồng Lĩnh đang im lặng in bóng tím trên bờ bên kia. Không có
máy bay và cũng không có tiếng pháo. Một anh bạn đứng gần tôi
chỉ về phía núi Quyết và hỏi:
- Núi Quyết đấy à? Nó bé thế sao lại nổi tiếng
như vậy nhỉ?
Tôi cười:
- Nó nổi tiếng vì ý chí quyết chiến,
quyết thắng của nó, ở những con người đã chiến đấu và chiến
thắng trên đỉnh núi ấy.
Phà nhẹ nhàng cập bến. Ô tô rú ga. Chúng tôi
chạy nhanh lên bờ. Tất cả đều phải khẩntrương. Có thể lũ máy bay sẽ
đến bất ngờhoặc pháo ở biển có thể nã tới trong phútchốc.
Đất Hà Tĩnh đây rồi. Vào làng. Hai bên đường,những
quả núi nhỏ nằm im lìm dưới trăng.
Xe chợt dừng lại. Phía trước, lũ máy bay mớithả mấy
quả pháo sáng. Chúng tôi tản ra haibên đường. Tôi và Vượng vào ngồi
gần một ruộng khoai, có gì thì nấp ở rãnh khoai cũng đỡ. Những
quả pháo sáng vẫn treo lơ lửng lưng trời, hắt ánh sáng vàng
vọt về phía chúng tôi. Ở ngôi nhà bên có mấy đứa bé chạy ra
ngó chúng tôi và cười. Bố chúng đứng ở vườn sắn hò hét bắt chúng
vào hầm, song chúng cứ ngồi cười mãi. Có vẻ chúng đã quen với
cảnh máy bay dậm dọa lắm rồi.
Khoảng giữa đêm, đoàn xe dừng lại. Chúng tôi
rẽ vào làng để ngủ. Đường đi phải qua một cánh đồng lớn. ít lâu
nay mưa lớn nên đường lầy lội và trơn quá. Phải dò dẫm từng
bước, thụt lên thụt xuống mới đi nổi. Song được cái không ai
ngã.
Sáng, chúng tôi chuyển sang nhà bên cạnh ở,
vì nhà cũ chật quá. Gia đình này có hai cô con gái. Các cô
rất tươi cười. Một cô bảo rằng mọi khi có bộ đội đến, thanh niên
làng vẫn tổ chức đón tiếp nồng nhiệt lắm, nhưng vì chúng tôi đến
vào ban đêm nên không tổ chức được.
Một bác nông dân có vóc người cao lớn sangchơi. Bác
tỏ ra rất quan tâm đến tình hình thời sự. Bác hỏi chúng tôi,
nhưng nhiều khi lại ngồi nói vanh vách tình hình trong nước, ngoài
nước cứ như là phổ biến cho chúng tôi vậy. Bác nói rằng ở đây
nhân dân tổ chức bán gàchống Mỹ, nếu đoàn có giấy tờ thì sẽ muađược.
Bác ấy là chủ nhiệm hợp tác xã muabán xã. Bác ấy nói đúng. Buổi
chiều, có mấybà xách vịt, ngan đến cho chúng tôi. Vì banngày, gà đã thả
nên thay bằng ngan, vịt. Rồilại có bà mang rau đến bán cho chúng
tôi nữa. Tất cả đều có giá phải chăng. Hai cô gái ở nhà rất sốt sắng
giúp chúng tôi. Cô thì rửa rau, vo gạo, cô thì đi mua giúp củi,
nhen bếp. Điều đólàm chúng tôi rất vui vẻ và cảm động.
Tối, chúng tôi ra xe. Trăng ngào ngạt khắp
làng quê. Các cô gái làng ríu rít đi tiễn, cô xách hộ xoong nồi,
cô xách hộ túi.
Xe lại rú ga, gầm gừ tiến khỏi làng. Đường xóc
nảy như rang ngô. Có một cái rãnh xẻ ngang đường to quá, xe phải
chúi đầu xuống rồi lại dê đít vượt lên - lúc ấy thì thành xe
chúi tịt xuống rãnh, chỉ cao ngang mặt đường. Được cái xe khỏe
nên vượt qua hết.
Đi được một đoạn thì xe dừng lại. Thật phiềnphức,
đường tắc rồi. Chiều nay bọn Mỹ vừa đánh đoạn đường phía trước,
hiện ở đó còn bom nổ chậm. Thế là phải quay lại đường cũ, gặp
lại con đường làng với những nụ cười vui vẻ của các cô gái.
Ngày 11/5/1968
Tối nay là tối thứ bảy. Ở Hà Nội chắc vui lắm,
còn chúng tôi thì đang làm nhiệm vụ bám chắc vào thành xe để
khỏi bị xe hất tung ra ngoài qua những cú xóc. Nhưng không
vì thế mà mất vui. Nhiều anh khỏe tán lắm - đủ thứ chuyện -
làm váng cả xe lên.
Tôi ngồi gần cuối, tay vịn vào thành xe và lặng
nhìn về phía sau. Mây nhiều nên trăng bị che, trở nên nhạt
nhẽo vô cùng. Lẫn trong tiếngđộng cơ ô tô, tôi nghe có tiếng rít
và réo ầm ầm. Và hiện ra trước mắt tôi là hình thù đen trũi
của một chiếc phản lực Mỹ. Nó bay thấp quá, trông như một con cá
lớn trườn qua đầu chúng tôi, song nó mù, chẳng phát hiện nổi
chúng tôi. Xe không dừng lại.
Phải, nó bay nó cứ bay, mình đi mình cứ đi chứ
sao.
Được một đoạn, xe dừng lại nhưng vẫn nổ máy. Vì
ngồi sau, tôi không nhìn thấy gì ở phíatrước. Tôi nghe tiếng mở cửa ô
tô, rồi nghe Ca - một trong hai anh lái xe cho đoàn - hét lớn:
- Đi thôi Thịnh ơi. Bom bi, nó nổ bỏ mẹ bây
giờ!
Cửa xe đóng cái “sầm”. Xe lướt tới. Chúng tôilạnh
gáy! Ngơ ngác chẳng rõ vì sao lại cóchuyện ấy? Lúc này xe đã vượt qua
nơi cóbom bi. Quả bom nằm ngang trên đường, cánh mạ kền sáng lấp lánh
dưới trăng. Đó là loại bom bi dứa. Bên đường, có một số hố nho
nhỏ- đó chính là hố do các quả bom bi khác gây ra. Thật cái chết
cứ rình mò và định nhảy xổ vào sự sống. Song cuộc sống vẫn cứ
ung dung điềm tĩnh.
Nghỉ giải lao. Ngồi mãi trong xe cũng phát mệt,tai ù
lên và người nôn nao. Chúng tôi nhảyxuống xe, vươn mình hít thở luồng
không khí trong lành của buổi đêm. Phía xa, bọn máy bay lại thả
mấy chùm pháo sáng. Chúng tôi tản ra xa xe và ngồi gần mấy cái
hào. Tôi hỏi Thịnh:
- Lúc nãy bom bi thế nào đấy?
Thịnh cười rất tươi:
- À, mình nhìn dưới ánh trăng thấy vật gì lấp
lánh, tưởng cái bút máy ai đánh rơi nên đỗ lại. Suýt nữa thì bỏ
mạng!
Quanh tôi có những tiếng nói chuyện rì rầm.
Có mấy anh đang gay gắt tranh luận về việc hút thuốc lá thì phản
lực có phát hiện được không? Anh thì bảo nó chỉ như tàn đom đóm,
thấy sao được.
Anh thì bảo đừng chủ quan. Thế mà rồi cãinhau om
sòm.
Tôi nhìn trở lại con đường xe vừa qua. Cáchnơi tôi
ngồi không xa lắm, có một đoạn đườngcòn mang nặng vết tích chiến
tranh. Hai hàng cây ven đường bị cháy xém và gãy gục. 6 chiếc xe
- cái thì tung mui, cái thì còn trơkhung - nằm lăn lóc hai bên đường.
Thịnh chobiết nơi đó trước đây có hai hàng cây rất lớn, xanh rì. Xe
của ta đỗ ở đó, không may bị lũ giặc trời phát hiện, chúng điên
rồ xâu xé. Xe bị bốc cháy. Có anh đã dũng cảm lái xe chạy
xuống ruộng, lấy bùn dập lửa nhưng lại bị bọn Mỹ bắn rốc két
trúng, nên hy sinh ngay bên xe.
Đêm, xe đi theo những con đường vòng khó
hiểu rồi đỗ lại ở một bãi khá rộng. Tất cảngười và đồ đạc
đều xuống xe. Đây là trạm 12 ở Hương Khê, chúng tôi nghỉ lại rồi
sẽ đi bộ. Chúng tôi bắt tay từ biệt những đồng chí lái xe dũng
cảm và vui tính.
Vai vác ba lô, chúng tôi men theo những bờruộng để vào
nơi nghỉ. Đi chừng 4-5 km màthấy toát cả mồ hôi. Gặp mấy đoàn bộ
đội đi ngược lại. Họ hỏi chúng tôi: “Quê đâu đấy?vào hay ra?...”
Đường làng rộn rã bước hành quân.
Ngày 12, chúng tôi nghỉ ở đây, anh em muacon chó làm
bữa liên hoan.
Ngày 13-17/5/1968
Bắt đầu cuộc đi bộ. Nghe nói 10 ngày đầu là mệt
lắm. Được cái đường bằng và ngắn nênđỡ mệt. Ngay hôm đầu vừa đi đã
gặp mưa.
Chưa có kinh nghiệm nên ai cũng để ni lôngtrong ba
lô, tháo ra thật lâu.
Gặp một buổi hành quân đặc biệt. Trời tối nhưhũ nút,
đường nhỏ, gập gềnh men theo triền núi, lại không được dùng
đèn pin.
Chúng tôi dò dẫm bước từng bước. Chỉ lo
ngã. Phía thung lũng, hàng trăm ngàn cánh đom đóm sáng lập loè.
Toàn khu rừng lốm đốm những ánh lân tinh phát ra từ các cây gỗ,
lá mục.
Tôi lấy một miếng gỗ lân tinh lớn gài sau ba lô
người đi trước và bám riết theo ánh sáng yếu ớt đó. Vậy mà có
lúc tôi bước không kịp. Nhìn quanh chỉ thấy đen tối mịt
mùng. Chân không dám bước vì sợ sa xuống vực. Tôi đứng tại chỗ
gọi hoài người đi trước để nghe theo tiếng gọi mà lần tới. Mắt
cứ căng ra mãi, nên đầu thấy nhức quá. Đoạn đường có hơn nửa cây
số mà chúng tôi đi mất hơn một tiếng đồng hồ. Ra cửa rừng thấy
ánh trăng tràn ngập.
Ngày 18/5/1968
Ra đi từ 2 giờ sáng. Đoạn đầu đường cũngbằng. Đến
gần trưa thì bắt đầu lên dốc. Chúngtôi nghỉ trưa ở một khu rừng nứa.
Nóng vàkhát, bi đông đã gần hết nước.
Khoảng hai giờ, chúng tôi lại đi. Phải lên cáidốc
cao, anh em gọi là dốc Đại tướng. Mệtthật, nắng cứ nắng hoài, và dốc
cứ lên caomãi. Rồi chúng tôi dừng lại khu rừng nứa. Đặtba lô xuống, chúng
tôi rút dao găm và chặtnứa để lấy nước uống. Những cây nứa bị
phạtngang, toé ra những tia nước trong mát. Chúng tôi chặt cả cây rồi
chặt ra từng khúc, dùng ca, bát hứng ở dưới. Như vậy cũng tạm
được, có chút nước bớt khô cổ. Cuộc hành quân lại tiếp tục. Trời
vẫn nóng như đổ lửa. Phía bên kia sườn núi, những hố bom Mỹ lở
lói, đỏ chói lên dưới ánh nắng. Lại khát, mồ hôi ra ướt đẫm áo.
Mồ hôi túa ra trên mặt, chảy thành dòng xuống cằm. Tôi liếm những
giọt mồ hôi đó, cảm thấy đỡ khát. Kỷ luật hành quân không
cho phép dừng lại; khi qua một rừng nứa, tôi cầm con dao lăm lăm
trong tay, hễ thấy cây nào dễ, là bập một nhát rõ mạnh vào thân
nó, rồi ghé sát miệng vào đó, uống vội vàng từng giọt nước. Gần 4
giờ chiều, trời càng chói chang. Chúng tôi phải đi qua một khu
đồi tranh. Đạp lên tranh mà đi. Tranh ngã rạp theo triền
dốc, đặt chân lên thấy trơn tuột, chỉ muốn ngã. Tranh hấp nắng,
tỏa ra cái nóng hầm hập. Tôi đi, trần trụi hai cảm giác khát và
nóng, tưởng như đi trong một cái nồi rang khổng lồ, kỳ quái. Còn
chiếc ba lô thì trĩu nặng xuống, đôi quai cứ trì riết hai
vai rát bỏng. Xuống khỏi dốc, chúng tôi phải vượt quađường 15. Đoạn
đường này bọn Mỹ thường rải bom bi.
Từng tốp 4-5 người chạy dọc theo đường, núp
sát ta luy rồi băng qua phía bên kia. Tiếp đó,xuống một cái dốc
sâu hun hút và trơn tuột.Không phải đi xuống mà là bò xuống, tụt
xuống. Tôi phải dùng gậy, ra sức chống đỡ cho khỏi ngã. Suối
nước reo róc rách dưới chân dốc kêu gọi chúng tôi. Nhiều người nhào
xuống dưới chân dốc là quăng ba lô xuống, lấy bi đông ra
vục nước, uống ừng ực. Tôi uống một ca đầy, thấy nước chạy khắp
cơ thể, tới đâu mát tới đấy. Rồi rửa mặt thật thỏa thuê. Nước,
nước, mới xa nước vài tiếng đồng hồmà thấy nhớ vô cùng, khi gặp lại
nó ai cũng vồ vập. Tính, một cô gái có dáng người thấp, béo,
ngồi gục vào chiếc ba lô. Tôi hỏi cô lấy nước chưa? Cô ngửng
lên, lắc đầu. Mặt cô đỏ rực như muốn bốc lửa.
Tôi cầm bi đông, khăn mặt, lấy nước dùm côấy.
Mãi tới 6 giờ tối mới tới trạm, kết thúc chuyến
đi dài 36 km trong một ngày!
Chủ nhật, ngày 19/5/1968
Chúng tôi ở trạm 15. Hôm nay sinh nhật Bác.Tôi ngồi
nghĩ lại cuộc đời chiến đấu đầy giankhổ của Bác và thấy có thêm sức
mạnh đểvượt đường dài.
Đường đã thử sức người. Những đoạn đường đã
trả lời cho chúng tôi rõ: Sức anh được bao nhiêu? Liệu bỏ bớt
thứ gì? Bắt đầu cuộc “thanh trừng” các ba lô. Có anh mang sách
ra xé bớt bìa. Có anh bỏ lại cái áo đông xuân, một vài chiếc
quần, áo. Nguyễn Đại, phóng viên báo Nhân dân, người bé nhỏ,
lượngkhông đủ sức mang vác, đã cắt bớt nửa dướicủa chiếc màn cá
nhân, bẻ vứt đi nửa đuôichiếc bàn chải đánh răng... Còn tôi, tôi thấy
vừa sức, vả lại cái gì cũng cần, không thể bỏđược.
Chúng tôi ngủ trong cái nắng hầm hập của
miền Tây Quảng Bình và trong tiếng gầm rú của lũ phản lực để nửa
đêm lại vùng dậy, vác ba lô đi.
Ngày 20 và 21/5/1968
Trời trở mát và mưa nhẹ hạt. Song nằm trongnhà nghe
rõ giọt mưa rơi lộp bộp xuống nhữngtầu dừa, tưởng mưa to lắm. Sáng
sớm lại rađi. Mắt díp lại, buồn ngủ quá. Hôm nay chúngtôi chỉ vượt 17
km nên đỡ mệt.
Ngày 21/5/1968
Nghỉ lại trạm 17. Đây là trạm cơ giới. Mọingười hy
vọng sẽ được đi ô tô. Đôi chân tệ quá mà.
Tình hình không cho phép chúng tôi đi xe. Lũmáy bay
rình mò dữ lắm, đi bộ an toàn hơn. Chúng tôi được biết đoàn xe
đi trước chúng tôi mới “bị” ở Xuân Sơn 3 xe, 40 người bị chết,
bị thương. Tôi cũng nghe tin hôm vượt đường, chúng tôi qua
một lúc thì lũ máy bay đến ném bom làm chết và bị thương 25
bộ đội...
Hôm nay chúng tôi được nghỉ ngơi hoàn toàn.
Anh em đi lĩnh gạo, thịt hộp, đường, sữa, rau khô. Cuộc sống
trên đường thật sung túc. Chúng tôi được cung cấp đầy đủ
đường, sữa, thịt... để bồi dưỡng sức khoẻ.
Từ ngày 22-25/5/1968
Tiếp tục đi đường bằng. Mỗi ngày vượt từ 18đến 24
km. Trạm 18 ở trên một mảnh đất khô cằn.
Chủ nhật, Ngày 26/5/1968
Đi đến trạm 20. Nắng dữ dội. Đây, đất BốTrạch, Quảng
Bình đây. Đêm, máy bay quần đảo suốt.
Ngày 27/5/1968
Chiều, chúng tôi xuất quân. Trời nắng chói chang.
Gần đến đường 15, chúng tôi dừng lại bẻ lá ngụy trang, rồi nai
nịt gọn gàng.
Chúng tôi khẩn trương tiến ra đường, rồi tiếp
nhau chạy qua khoảng đất trống do con đường và một khoảnh ruộng
bên đó tạo thành.
Đêm, chúng tôi tới trạm 21. Máy bay quần
suốt, thi nhau thả pháo sáng và bắn rốc két.
Ngày 29/5/1968
Ra đi từ 3 giờ sáng. Đoạn đường thật đẹp:men theo
những bờ suối, nước trong vắt, có nhiều phiến đá có những
hình thù kỳ ngộ, dễ ưa và những cây trúc đào lả lướt mọc hai
bênbờ suối.
Gần trưa, chúng tôi tới một khu rừng già. Thậttấp
nập: bộ đội, thương binh nườm lượp.
Bắt đầu cuộc sống ngủ rừng. Chúng tôi căng
tăng, mắc võng thành một căn lều xinh xắn giữa rừng. Phải học
cách mắc võng để không cho nước mưa chảy vào võng: đầu
tiên, phải chọn 2 cây có khoảng cách vừa tầm võng (trên 2 mét),
đóng 2 cọc và buộc dây chằng chúng vào 2 thân cây -gọi là cọc
phụ - sau đó cột dây võng vào 2 cọc phụ. Cách mắc tăng thì đơn
giản hơn: dùng dây căng thẳng qua hai thân cây làm “đòn nóc”,
vắt tấm vải vi ni lông qua, rồi cột các góc vào các gốc cây xung
quanh, tạo thành tấm lều nhỏ phủ trên võng.
Ngày 30/5/1968
Tới hôm nay đã hành quân tròn một tháng.
Chúng tôi nghỉ tại trạm 22 một ngày. Khu rừng rộng rãi và
thoáng, sạch, tạo cho chúng tôi một không khí thoải mái. Song
lũ máy bay quấy rối chúng tôi hoài. Chúng bay sát sàn sạt ngọn
cây, gầm rít điên loạn. Qua những lùm cây, thỉnh thoảng tôi lại
thấy lướt qua hình thù dài ngoẵng của một chiếc F105 hoặc múp
hình vỉ ruồi của một chiếc F4.
Chúng bỏ bom uỳnh uỳnh phía ngoài đường. Song,
bọn tôi vẫn điềm tĩnh nghỉ ngơi. Người thì mang bộ tông đơ ra
cắt tóc cho nhau, một số người thì xúm xít trong một chiếc lều,
hò hét nhau trong những ván bài thú vị.
Ngày 31/5/1968
Hôm nay phải vượt qua một đoạn đường dài 40 km.
Chúng tôi đi từ sớm. Con đường thật hóc hiểm, toàn núi đá
dựng đứng. Anh em công binh phải dùng mìn phá bạt sườn núi mở
đường đi. Có những đoạn dốc dựng đứng, đá lởm chởm không thể làm
đường được. Ngườita phải đóng những thanh gỗ lớn bắc vượt quanó. Đeo ba lô
nặng, bước lên những bậc thang dựng đứng và ẩm ướt cảm thấy
người nặng trịch và thiếu thăng bằng. Đoạn đường này, phải vượt
qua chín dốc, ba thang.
Được nửa đường, chúng tôi dừng lại dựng lều
để nghỉ. Ở đây xa suối quá, chúng tôi phải mang ni lông đi 3-4
km vác nước về. Trời thậttai ác, khi chúng tôi vừa nhen nhúm lửa
lên thì đổ ập mưa xuống. Mưa rào quất những làn roi nước xuống
mặt đất một cách phũ phàng. Chúng tôi vội vàng chuyển bếp vào
một ngách đá và ngồi thu lu dưới cái vòm đá nhỏ nhắn đómà nấu
nướng.Vẫn không tránh khỏi ướt. Nhưng dù sao lửa vẫn cháy và
cơm vẫn chín.
Chúng tôi ngồi co ro trong tăng ăn cơm nóngvà chịu
cái lạnh từ nước mưa thấm vào.
Tôi phải thay quần áo và xoa dầu khắp ngườicho nóng
rồi mới yên tâm leo lên võng nghỉ.
Đêm, mưa vẫn rả rích. Mở mắt ra, tôi ngỡngàng với
những đốm sáng xanh quanh võng: lân tinh phát ra từ những kẽ lá,
thân cây mục rải khắp rừng.
Ngày 1/6/1968
Sáng dậy, mặc lại bộ quần áo ướt và lại ra đi.
Đến trạm - cũng là rừng thôi. Xa dân thật khổ.
Ngày 2/6/1968
Lại ra đi khi mới 4 giờ sáng. Chúng tôi nhanh
nhẹn chạy vượt đường 20. Đoạn đường này địch đánh ác liệt, thấy
đầy hố bom và hai bênđường cây cối cụt hết ngọn, trơ cành xơ xác.Suốt
20 km này đường dốc liên tục.
Đêm, nằm trên đỉnh Trường Sơn lạnh buốt. Máy
bay địch quần không ngớt.
Ngày 4/6/1968
Sau khi nghỉ một ngày ở trạm 24, 5 giờ sáng nay
chúng tôi lại ra đi.
Đường chúng tôi đi men theo những dòng suối
nên khá trống trải. Lũ máy bay địch cũng quần lượn hoài trên
vùng trời này.
Những chiếc máy bay phản lực sáng loá lên
trước ánh nắng và lao loang loáng giữa vòm trời xanh. Có những
tiếng nổ “ùng ục” kéo dài. Không hiểu ta bắn lên hay địch bắn
xuống. Chúng tôi phải hết sức nhanh nhẹn vượtnhững quãng quá trống
trải để lũ máy bay khỏithấy.
Trạm 25 này là một trạm mới di chuyển đến.Chỗ ở thật
tai hại.
Đó là một khu rừng nứa rất dốc -thật khó kiếm
được một chỗ bằng để làm nơi ở - và rặt một thứ đất đỏ quánh,
trơn như đổ mỡ.
Lâu ngày rồi không được ăn rau, thèm quá.
Gặp mấy o thanh niên xung phong và được các o cho một bó rau
tầu bay. Thế là chúng tôiđược một bữa canh tươi! Bọn tôi lúi húi
mỗinhóm một góc rừng bắc ăng gô nấu cơm. Chậtchội hết sức. Do
vậy thật tai vạ, một ăng gô nước sôi vừa bắc ra bị anh Nhị
đá phải đổ ập cả vào chân trái tôi. Nóng dãy lên. Bàn chân trái
phút chốc đỏ rực lên và rất rát. Nó cứ nóngrát lên từng đợt,
rồi dịu đi, rồi lại nóng rát lên từng đợt, từng đợt như vậy,
thật khó chịu. Chống gậy về võng nằm. Tôi lo lắng vô kể: ngày
mai đi đứng sao đây với cái chân này? Thấy tình cảnh ấy, Vượng
rất lo lắng cho tôi. Anh trách móc mãi Nhị về sự vô ý vừa qua.
Ngày 5/6/1968
Sáng dậy, thấy chân bị bỏng phồng rộp lên.
Tôi bôi thuốc mỡ lên rồi băng nó lại, lồng nóvào chiếc bít tất.
Tôi nới rộng quai dép để đi cho đỡ tức chân, rồi chống gậy tập
tễnh bước đi. Đoàn quân nối dài trong khu rừng nứa lầy bùn. Một
thứ bùn đỏ quánh, trơn tuột. Ngườita thi nhau ngã oành oạch! Có đoạn xuống
dốcđường trơn quá, tôi phải chống gậy xuống trước, lựa chiều để xuống
dần từng bước, từng bước.
Đến đất Lào rồi đây. Chúng tôi đi qua một bản
của người Lào, thấy dân ở đây giống ngườiXá Tây Bắc. Lâu lắm rồi mới
gặp dân.
Trời u ám, xam xám một màu chì và thoảngnhững làn
gió lạnh. Lòng tôi chợt buồn nao nao. Nhớ gia đình quá!
Ngày 6/6/1968
Nghỉ lại ở trạm 26 - tức trạm 6. Đây là trạm
đầu tiên trên đất Lào - thuộc tỉnh Khăm Muộn.
Ngày 7/6/1968
Chúng tôi đi theo những rừng nứa thưa hoặc
dòng suối cạn.
Đất mịn màng dưới chân chúng tôi. Đoạn đường này đi
khá dễ chịu.
Ngày 8/6/1968
Đi. Đi hoài. Đường dốc ghê quá. Có hai dốcanh em gọi
là “ác ôn” vì nó vừa dựng đứng, vừa trơn tuồn tuột, sảy chân là
ngã liền.
Chủ nhật, ngày 9/6/1968
Chúng tôi bắt đầu bước vào mùa mưa của đấtLào. Hôm
nay mưa dầm dề suốt. Mưa không to lắm nhưng rất đều hạt và liên
tục.
Chúng tôi choàng ni lông, cắm cúi đi. Chiếc áođi mưa
bị cái ba lô đẩy phồng lên làm cho lưng chúng tôi trở thành gù,
trông như những con lạc đà vậy. Lạc đà vượt Trường Sơn!
Đường lầy lội những nước. Tôi hết sức tránh
nhưng dù sao vẫn sa chân vào những vũng nước bẩn. Nước bùn ngấm
vào chỗ bỏng khiến nó rức buốt. Có lúc đau quá, tôi phải ngồi
lại nghỉ - ngồi trên những khúc gỗ hoặc tảng đá ướt át. Rồi lại
chống gậy, gắng đi. Phải đấu tranh dữ lắm mới đi nổi!
Chiều, trời ngớt đi một chút. Anh em xin đượcmấy con
cá, kho ăn ngon lạ. Đặc biệt hôm nay chúng tôi ăn khỏe quá - ăn
hai lần, cách nhau một tiếng và mỗi người ăn mỗi lần nửa ăng gô
cơm!
Đêm, trời lại ập cho một trận mưa. Thật đángbuồn,
tăng chúng tôi mắc quá cẩu thả nên nhiều người bị nước tạt
vào ướt sũng. Võng tôi cũng bị ướt. Thế là phải dậy lục đục căng
lại tăng.
Quần áo cũng ướt theo. Nằm trong cái ướt
lạnh ghê người.
Ngày 10/6/1968
Trời vẫn mưa hoài. Vì đau chân, tôi tranh thủđi
trước. Đường qua những khu rừng thưa. Thật kỳ lạ, trên đường sao
lắm cua thế.
Những con cua núi này trông rất ngộ nghĩnh:
con nào con nấy có đôi càng to tướng và cóbộ mai màu đỏ sặc sỡ.
Gặp người, chúng chạy rõ nhanh và chui tụt vào hang. Nếu không
chạy kịp, chúng giơ đôi càng lớn ra muốn chống cự. Tôi bắt được
tới hơn 40 con. Bắt nó thật thú vị: phải nhanh tay, nhanh mắt
chộp lấy nó, có con chạy gần tới hang, tôi lấy gậy hất một cái,
cu cậu bật ngửa và giơ đôi càng to xù ra thật ngộ nghĩnh. Vui
với việc bắtcua, tôi quên cả đau chân.
Trạm 10 nằm ở một khu rừng thưa rộng rãi,đất bằng
phẳng.
Trạm đón tiếp chúng tôi một cách rất trịnh
trọng. Chúng tôi giã cua nấu canh và lấy một số rang mặn ngọt,
ăn rất ngon.
Ngày 11/6/1968
Nghỉ lại trạm 10. Trời tạnh mưa, sáng lên mộtchút.
Gần trưa, chúng tôi ra ven suối nấu cơm.Lửa vừa nhen lên thì mưa ập
xuống.
Cái mùa mưa quái ác! Chúng tôi phải lấy nilông che
tạm bếp và người. Được cái củi là củi nứa nên dễ cháy. Người
chúng tôi ướt mèm,nhưng dù sao cơm vẫn chín.
Chiều, chúng tôi gặp Hoàn, phóng viên của báo
Thủ Đô Hà Nội, nay làm ở Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn xe. Chúng tôi
vào Tiểu đoàn bộ chơi, được anh Nguyễn Hồng - Tiểu đoàn trưởng -
và anh Trần Minh Khâm - anh hùng Quân đội - đón tiếp rất nhiệt
tình. Cuộc sống ở đây khá sung túc. Các anh mang đường kính thỏi
của Liên Xô ra tiếp chúng tôi. Chiều đó, chúng tôi được ăn một
bữa cơm trịnh trọng và thịnh soạn: có bàn ghế, mâm bát hẳn
hoi (lâu rồi chúng tôi chỉ ăn dưới đất và bằng nắp ăng gô), có
thịt hộp, thịt lợn tươi kho (không phải là thịt hộp), canh chua,
măng xào...
Ngày 12/6/1968
Trời hửng lên rồi. Bầu trời trong xanh, hứa
hẹn những ngày nắng.
Ngày 13/6/1968
Nắng dữ dội. Mệt quá đấy, mãi đến chiều mớitới trạm.
Ngày 14/6/1968
Đến trạm 13. Trời vẫn nắng.
Ngày 15/6/1968
Nắng rực rỡ, trời xanh cao vời vợi thật đẹp.Chúng
tôi nghỉ lại ở một khu rừng thưa. Trạmtrưởng là một chuẩn úy khá điệu
đà. Anh thường nhấn mạnh quá đến cái “tôi”: “Tôi đã chỉ
thị...”, “Tôi không cho phép...”. Anh đưa ra một số mìn lá của
biệt kích giới thiệu với chúng tôi và nói: “Tôi đã cho nhặt hết,
nhưng các đồng chí phải cảnh giác, có nhiều loại màu: màu lá,
màu đèn pin, màu bút bi....cácđồng chí đã rõ chưa?”. Khi chúng tôi
căng tăng, anh không cho, bắt đợi đến tối, bởi vì, theo anh,
“tăng là chất mầu dễ lộ, máy bay dễthấy”. Tôi thấy hơi khó chịu với
thái độ củaanh trạm trưởng. Vượng cứ đay đi đay lại cáicâu “ tăng là
chất mầu dễ lộ”, có ý chế riễu anh ta.
Ngày 16/6/1968 Sáng, chúng tôi dậy thật sớm, ăn
cơm rồi soạn ba lô.
Chúng tôi vượt sông Xi Bang Hiên bằng những
chiếc thuyền lớn. Nước sông trongxanh và phẳng lặng như gương, trông
thật đẹp.
Đi khỏi sông một quãng, thấy trời bỗng u ám,gió thổi
thốc lên khiến lá rừng rơi lả tả và bay quay cuồng. Mỗi khi trời
như thế, tôi lại nhớ tới Hà Nội mùa đông với những cơn gió mùa
đông bắc ngắt lá rụng đầy đường và lòng thấy trạnh buồn. Nhớ lũ
em quá.
Trời mưa một cách giả tạo để rồi lại nắng.
Ngày 17/6/1968
Nghỉ lại trạm 15. Chúng tôi ở trên một
triền dốc thoai thoải, chân đồi có một con suối lượnquanh.
Nghỉ ngơi thoải mái,
tôi đi vào bản chơi. DânLào nói tiếng Thái nên tôi chuyện trò được.
Bản tôi vào gồm khoảng chục nóc nhà sàn lụp xụp, với những người
dân ít trò chuyện. Phụ nữ không mặc áo và da đen bóng. Kể ra,
bản cũ của họ ở nơi rộng, thoáng, sạch sẽ và đẹp.Song bọn Mỹ ném
bom, họ phải sơ tán vàokhu rừng này.
Ngày 18/6/1968
Nắng rực rỡ. Chúng tôi ra đi giữa trưa nên mệt
tợn. Có gì sôi lục bục ở hai mang tai. Đầu óc muốn nổ tung ra.
Mi mắt nặng trĩu, muốn sụp xuống. Tôi phải lấy đường pha với Vi
ta min C uống cho lại sức.
Gần tối, chúng tôi vượt qua đường 9. Con
đường nổi tiếng đó trải bằng đá và chỉ rộng 7-8 thước thôi. Sau
đó, chúng tôi dùng thuyền vượt qua sông SêPôn.
Ngày 19/6/1968
Sáng nay chúng tôi vượt dốc “Nguyễn Chí Thanh”.
Từ các trạm trước, tôi đã nghe nói đến dốc này. Dưới chân dốc có
làm một cái cổng chào và treo những khẩu hiệu động viên người ra
tiền tuyến.
Anh em giao liên đã làm những bậc gỗ để lên dốc
cho dễ. Tôi hăng hái vượt hết bậc này đến bậc khác, vượt gần
nghìn bậc thì lên tới đỉnh. Trên đỉnh cũng có một cổng chào.
Bỏ ba lô xuống, tôi hít thở một cách thoải mái làn không khí
trong lành. Nhìn xuống, tôi thấy ở tít xa, dòng sông SêPôn ánh
lên bàng bạc.
Ngày 20/6/1968
Đến trạm 19 A. Đường bằng nhưng dài quá nên đi
khá mệt.
Đến đây đoàn K191 chia tay với chúng tôi đểrẽ về Trị
Thiên.
Khu rừng chúng tôi ở toàn một loại cây nhỏ,thấp và
thưa lá nên quá trống trải.
Ngày 21/6/1968
Nghỉ lại nơi này. Chúng tôi ra bờ sông SêPônnấu ăn.
Lòng sông khá rộng và nông, có nhiềuphiến đá lớn nằm giữa dòng nước
trông thật làđẹp. Tôi tắm giữa dòng sông trong mát thấy thoải mái vô
cùng.
Chiều, trạm tổ chức chiếu phim cho anh em xem.
Ngày 22/6/1968
Đi sớm để qua cầu treo. Chiếc cầu nhỏ, chỉrộng độ
nửa thước đan bằng tre, được treo ởhai mỏm đá bằng những sợi mây lớn.
Trên đấtLào này, chúng tôi hay gặp những cầu treo như thế. Chỉ làm
toàn bằng gỗ, tre rồi dùng dây mây chằng, treo lên ngọn, thân
cây hoặc tảng đá, vậy mà rất vững. Đoàn quân đi qua, cầu
rung lên kêu ken két và đung đưa, đung đưa...
Đến trạm 23, tình cờ tôi nhặt được lá thư của
một phụ nữ nông thôn gửi cho chồng, nói lên những công việc
đảm đang của mình khi anhra tiền tuyến, ở góc lá thư, anh bộ
đội viết câu ca dao:
Vượt qua trăm núi ngàn khe Đường ra tiền
tuyến say mê lạ thường.
Anh lính ấy ra đi rất say mê, phải chăng vì có
một lý tưởng đúng đắn, và phải chăng vì ngoài hậu phương
lớn, hậu phương chung, anh còncó một hậu phương riêng rất vững? Tôi
suy nghĩ nhiều về hậu phương. Ai ra tiền tuyến mà chẳng ôm ấp
trong lòng mình những cái thân yêu của hậu phương. Ngoài cái
hậu phương lớn, chung là cả miền Bắc, là công trường,nhà máy, đồng
ruộng...
mỗi người đều ôm ấp trong lòng một hậu
phương riêng, đó là gia đình, bè bạn, nơi anh sinh trưởng! Cái
hậu phương ấy tuy riêng, tuy nhỏ nhưng mặt nào đó nó bao hàm cả
những cái chung, thông qua đó người ta nhớ đến hậu phương lớn vì
nó có tác động rất mạnh mẽ và trực tiếp tới anh. Nó vững mạnh,
nó tốt, nó sẽnâng bước anh rất nhiều.
Tôi thấy rất tự hào về gia đình tôi, một gia
đình có truyền thống cách mạng. Tự hào về người cha luôn tận
tình phục vụ cách mạng - Ông đã được thưởng Huân chương kháng
chiến và Huân chuơng lao động. Tự hào ở người mẹ đã tiến vượt
lên trong cuộc kháng chiến thứ hai này. Cuộc kháng chiến trước, mẹ
tôi chỉ ở nhà quanh quẩn nuôi chúng tôi. Cuộc khángchiến này, mẹ tôi
tham gia công tác cơ quan,đồng thời làm công tác Công đoàn. Mẹ tôi
đãtự học để nâng trình độ văn hóa lên hết cấp 2, đã nỗ lực phấn
đấu và đã trở thành Đảng viên. Tự hào ở những đứa em
ngoan ngoãn, chăm học, chăm làm, đứa nào cũng là đoàn viên hoặc
đội viên thiếu niên tiền phong.
Đây đã là tỉnh Xa Van Na Khét của Lào rồi.
Chiều, trời đổ ập một cơn mưa dữ dội.
Ngày 23/6/1968
Sáng đi sớm. Trời thật ẫm ờ, dở mưa dởnắng.
Ngày 24/6/1968
Gần sáng, trời mưa như trút nước, chúng tôi
dậy thu dọn mọi thứ trong mưa để lại ra đi.Chiều, trời lạnh và
lại trong xanh một cách kỳlạ.
Ngày 25/6/1968
Sức khỏe của anh em trong đoàn sụt dần, đãcó nhiều
người ốm phải nằm lại trạm. Thuyết -cùng tiểu đội tôi - cũng sốt, rên
hừ hừ.
Chúng tôi kiếm được một quả bí đỏ, nấu chèăn thật
ngon.
Ngày 26/6/1968
Sáng lại lên đường. Mấy anh ốm chống gậy
khặc khừ ra đi.
Chúng tôi đi một cách chậm chạp. Tiểu đội tôitụt lại
phía sau vì anh Thuyết yếu quá. Tuychúng tôi đã mang hết gạo và một
số thứ nặng hộ anh, anh vẫn đi rất nặng nề. Chúng tôi mệt mỏi
leo lên một cái dốc. Đến gần đỉnh, bỗng Thuyết đứng sững lại,
mặt nhợt nhạt. Anh ngồi phịch xuống rồi nằm ngửa ra. Bọn tôi
cuốngquýt tháo ba lô cho anh. Người anh đầm đìamồ hôi và lạnh
toát. Chúng tôi xoa dầu choanh và lấy mấy viên sâm, Polyvitamin bỏ
vào miệng anh. Anh ta phều phào: “Đắng lắm anh ơi” và định nhè
ra...
Chúng tôi lấy võng ra, buộc vào một khúc trelớn rồi
vực Thuyết vào võng, khiêng lên đỉnh dốc. Sau đó, chúng tôi
buộc hai đầu đòn khiêng vào cây rừng để anh nằm nghỉ rồi vơ củi,
lấy nước nấu cháo. Vừa lúc ấy thì đồng chí chính trị viên trạm
tới. Anh tỏ ra lo ngại, song không thể ở lại với chúng tôi được.
Anh mang hộ ba lô Thuyết đi trước và dặn “Chú ý,nơi này hay có
biệt kích. Nó thường đi từ phía sườn núi lên”. Nghe nói biệt
kích, San vộichạy vào ngồi giữa. Anh chàng này làm nghề chữa máy ảnh,
máy quay phim, tính rất vô tư và rất sợ hổ, biệt kích. Chúng tôi
cười ầm lênvà nói vài câu nhạo báng San. Anh cười hì hì.
Ngọn lửa bừng lên sưởi ấm cho Thuyết. Chúng
tôi bắc mấy ăng gô lên. Thật chán, vì vội vã, chúng tôi đóng cọc
không cẩn thận nên cọc đổ làm ụp cả ăng gô xuống. Khói bốc mù
lên. Lại phải xuống dốc lấy nước khác.
Nước sôi, cháo chín. Tôi lấy ruốc hòa vào
cháo mang tới cho Thuyết. Anh húp được vài thìa.
Quá trưa rồi. Trời nắng và nóng dữ. Chúng tôiquyết
định khiêng Thuyết đi. Tôi lấy cây gánh ba lô cho Vượng và
Thành. Còn Thành, Vượng khiêng võng. Gánh có hai ba lô mà sao
thấy nặng thế, người cứ lao đao, chúi về phía trước. Tôi đi sau
như chạy một cách bị động, được vài chục thước là thở hồng hộc và
phải đặt gánh xuống nghỉ. Còn Vượng và Thànhkhiêng mới vất vả.
Hai anh rúm vai và bước đi xiêu vẹo...
May sao, đi được một lúc thì Thuyết hồi sức.Anh
xuống võng, đi bộ. Bọn tôi mang hết đồđạc cho anh và kèm anh đi.
Chừng 5-10 phútlại nghỉ một lần. Nóng và mệt quá chừng.
Gần tối, chúng tôi tới trạm. Dù sao cũng đãvượt được
một thử thách lớn!
Ngày 27/6/1968
Chúng tôi nghỉ tại đây. Đồng bào mang hàng
đến đổi. Chúng tôi đổi được một ít rau bí, ngônon và sắn. Canh
rau bí thật ngọt ngào. Ngôđể cả râu, luộc lên, chúng tôi lấy nước
ấy cho Thuyết uống. Còn sắn luộc thì ăn “ thỏa mãn bần cố “.
Buổi chiều, Thuyết vào trạm xá nằm. Anh sẽ
nghỉ lại trạm này, khi khỏi sẽ đi tiếp. Khi chiatay, anh khóc không
dấu diếm, khóc hu hu nhưmột đứa trẻ con...
Ngày 28/6/1968
Dốc nhiều.
Lần đầu tiên chúng tôi được vào nhà của trạmnghỉ và
được trạm nấu cơm cho ăn. Do vậy đỡ vất vả.
Ngày 29/6/1968
Gần sáng, trời mưa xối xả. Có lẽ đây là trận
mưa lớn nhất từ khi tôi đặt chân lên đất Lào. Nước xối ào ào, ào
ào xuống rừng núi, chảy từng dòng theo các khe rãnh. May mà nằm
trong lán nên không bị ướt.
Qua sông Nậm-Bạc bằng thuyền. Sang sông rồi, chúng
tôi tiến vào một khu rừng. Lúc đó, một máy bay phản lực đen trùi
trũi bay sát ngọn cây, rít ầm ầm.
Ngày 30/6/1968
Sáng sớm, dậy nấu cơm ăn rồi lại đi. Chúngtôi cứ dọc
theo sông Bạc mà tiến. Nước sôngchảy tràn qua các tảng đá lớn, tung
bọt trắngxóa dưới nắng và réo ầm ầm.
Đến trạm 32 này là chẵn 2 tháng trên đườngrồi!
Thứ 2 ngày 1/7/1968
Nghỉ lại trạm 32. Hôm nay sinh nhật mình. Tuổi22 ơi, ngươi chứng
kiến những ngày phấn đấu của ta trong cuộc trường chinh lớn này.
Đón ngày sinh thứ 22 trên đất Xa Van Na Khét (Lào), lòng mình
không khỏi bồi hồi nhớ tới quê hương.
Ngày 2/7/1968
Lên, lên mãi. Đến
đỉnh dốc thấy mây mù baophủ. Không khí ẩm ướt và lành lạnh.
Ngày 3/7/1968
Dốc, dốc suốt. Lên
cao mãi để xuống thấp mãi.Lên thấy nặng nề một cách mệt nhọc. Xuống
thấy chùn chân, đầu gối run bần bật.
Đứng trên đỉnh núi
thấy mây bao phủ dưới chân. Con đường thật quái ác, không men
theo triền núi mà cứ nhằm đỉnh núi mà tiến.
Trạm 34 này nằm
ở tỉnh Xa Ra Van.
Ngày 4/7/1968
Đến trạm 35. Đường
khá bằng. Thấy dân Lào đào mương, làm thủy lợi thật vui. Lại nhớ
đồng bào Tây Bắc. Đến tỉnh Ta Vên Ok (Mặt trời mọc).
Ngày 6/7/1968
Sáng lại đi. Đến
đây thêm 3 người nữa nằm lại trạm vì ốm. Thế là 7 người rồi!
Đoàn chỉ còn lại 13 người.
Khi xuống dốc, tôi
vô ý sảy chân, bị ngã một cái như trời giáng.
Đường toàn lên dốc
mà không xuống. Chúng tôi đang trèo lên một cao nguyên lớn của
nước Lào: cao nguyên Bô Lô Ven.
Chúng tôi vào trạm.
Nhiều căn nhà nằm lạnh lùng trên đỉnh núi giá lạnh này và chìm
trong sương mù. Mù mịt và ẩm ướt suốt ngày. Mặt trời trốn biệt
và nếu có lúc nào đó chợt ló ra thì những tia nắng yếu ớt cũng
không đủ sức xuyên qua những lớp lá cây xanh rì cùngnhững lớp sương
mù dầy đặc. Ban chỉ huy trạm tiếp chúng tôi tại câu lạc bộ của
trạm. Đólà một căn nhà xinh xắn, có làm mấy dãy ghế và trên trần
có treo mấy chiếc dù pháo sáng màu trắng.
Chúng tôi ngồi nghe
anh trạm trưởng phổ biến địch tình trong cái ẩm ướt và lạnh ghê
người. Nơi đây, địch đã ném bom vào bãi khách, làm chết và bị
thương một số người. Chúng cũng thường thả biệt kích xuống. Ba
bốn giao liên đã hy sinh trong một cuộc đọ súng bất ngờ với
chúng tại một đỉnh dốc.
Chúng tôi nghỉ tại
đây một ngày. Không lấy gìlàm thú vị lắm vì trời quá u ám,
không khí quá ẩm thấp và đêm ngủ quá lạnh.
Đêm nằm trong lán,
trên sạp, tôi trải ni lông lót lưng, lấy cả võng, tăng và chiếc
dù pháo sáng trùm kín mà vẫn rét rúm cả người lại.
Tôi luôn thấy đồng
bào Lào gùi rau đến chotrạm. Trạm cho đồng bào muối hoặc một vài
thứ cần thiết cho sinh hoạt mà đồng bào không có. Tôi gặp một bà
mẹ và một cô gái nhỏ mang gạo nếp, đậu xanh đến cho ban chỉ
huy trạm. Bà mẹ và cô gái ngồi quanh một chiếc bàn cùng mấy đồng
chí giao liên, vừa chuyện trò vui vẻ, vừa nghe đài.
Một phụ nữ khác
cõng rau đến rồi ẵm con vào nhà mấy giao liên. Họ nói chuyện rất
cởi mở bằng tiếng Lào. Một giao liên lấy cơm và ruốc bông cho
đứa bé. Nó bốc ăn ngon lành.
Ngày 8/7/1968
Giờ đây, chúng tôi
nhằm hướng mặt trời mọc mà tiến về Tổ Quốc... Hai người nữa nghỉ
tại trạm rồi, cái sốt rét rừng ác hại!
Chúng tôi đang đi
trên đỉnh cao nguyên BôLôVen. Nắng yếu ớt và sương mù trải nhẹ
khắp cao nguyên. Có những bãi bằng rộngnhư một cái sân bay trải đầy
cỏ xanh rờn. Núi non trập trùng trải ra dưới tầm mắt chúng tôi,
nhiều ngọn núi rực lên dưới ánh nắng.
Chiều, chúng tôi tới
trạm 60 -Binh trạm 21.
Ngày 9/7/1968
Mặt trời Tổ Quốc
luôn vẫy gọi chúng tôi. ánhnắng buổi sớm xuyên qua những giọt sương
long lanh đọng trên các ngọn cỏ tranh, chiếu thẳng mặt
chúng tôi. Chúng tôi len lỏi trong rừng tranh, nhằm thẳng phương
Đông mà tiến. Đi một chặp, người đã sũng nước sương. May mà
đã thoát khỏi những đồi tranh. Trước mặt chúng tôi là rừng
thông. Tôi ào tới khu rừng ấy. Chao, đẹp quá.
Những cây thông cao
vút, thẳng tắp đang khẽ reo lên trong gió.
Rừng thưa và sạch.
Dưới gốc thông không có những cây con và rác rưởi mà chỉ toàn là
láthông. Lá thông trải dầy, bằng phẳng và êm như đệm bông. Cả một
giải rừng thông nối nhau trập trùng từ ngọn núi này sang ngọn
núi khác. Thỉnh thoảng, tôi gặp vài cây thông cháy. Ngọn lửa
cũng liếm gọn những lá thôngdưới gốc, tạo thành những khoảnh đen. Anh
giao liên cho biết sở dĩ thông bị cháy là do pháo sáng địch thả
rơi xuống.
Gần trưa, trời nắng
chói chang. Chúng tôi đi men mấy cái rẫy mới phát. Trên rẫy ngổn
ngang những cây thông lớn đã bị cháy khô.
Thật tiếc, đồng bào
làm rẫy nên phá nhiều thông quá.
Rời khu rừng thông
khô ráo, thơm tho và ngậptràn ánh nắng, chúng tôi chui vào một khu
rừng gỗ già nua, vừa ẩm ướt, vừa âm u và lại lắm dốc.
Chúng tôi gặp Nguyễn
Đại và Đỗ Quảng - phóng viên báo Nhân dân - hai anh không đủ
sức khỏe nên phải ra. Qua chiếc cầu tre, chúng tôi vấp phải một
cái dốc khủng khiếp. Dốc dựng đứng, nhão nhọet bùn và trơn nhầy
nhẫy. Tôi dùng tay bám vào rễ cây, thân cây, cố leo lên.
Lên được một đoạn, gặp một cái thang gỗ cũng ướt nhọet và nhớp
nháp. Nhưng dù sao, bước lên những bậc gỗ đó vẫn dễ hơn. Con
đường nhầy nhụa và dốc đứng này, anh em giao liên vẫn
thường cáng thương binh qua. Tôi vô cùng cảm phục họ,sao khiêng nặng
trên vai như vậy mà vẫn điđược trên những đoạn đường như thế? Chỉ cần
sảy chân một chút là cả anh, và kinh khủng hơn nữa, cả người
thương binh nằm trên cáng, sẽ nhào xuống vực... Tôi luôn gặpnhững
cáng thương. Hai giao liên hai đầu cáng, vai nâng cáng, chân thận
trọng bám từng thớ đất mà lên dốc hoặc xuống dốc.
Ngày 10/7/1968
Nghỉ lại trạm 61.
Ở đây có loại cần rừng là món ăn phổ biến.
Trông nó giống rau
cần ta vẫn trồng, song ănthì hắc quá, giống như mùi dầu hoả. Cần
xào,canh cần, cần muối... Ôi! Chán ngấy.
Chỉ có món nước
mắm là hấp dẫn một chút.Đó là một loại nước có dính một tí
thịt hộp. Thịt hộp ít quá, anh nuôi khui ra, cho vào nấu nát và
đổ hàng soong nước vào. Thế mới đủ cho mọi người chấm mút một
chút chứ...
Trạm này cũng ẩm
ướt và lạnh. Ăn rồi, bọn tôi nằm trên võng tán gẫu, xong lại ca
cẩm về cái lạnh và đói. Quái lạ, sao ăn 7 lạng mà trạm nấu
thấy ít cơm thế? Còn ít gạo, chúng tôi rủ nhau đi nấu mà ăn.
Chớ có nhờ trạm, họ sẽgắt ầm lên vì phiền đến họ. Chúng tôi
rúc vào rừng, tất nhiên mỗi nhóm một hướng để khỏi bị giao liên
phát hiện, tìm củi mà nấu. Bốn đứa chúng tôi chui vào một hốc
cây to, nổi lửa đùng đùng và bắc ăng gô lên. Chỉ ít phút sau là
chúng tôi đã ăn xong, lại leo lên võng nằm tán gẫu, như chưa hề
vào rừng nấu cơm vụng trộm vậy. Cách nấu nướng ngang tắt ấy,
trên đường hành quân, bộ đội Trường Sơn gọi là “tụt tạt”.
Ngày 11/7/1968
Đường quá dài. Mãi
4 giờ chiều mới tới.
Ngày 12/7/1968
Dốc dữ quá, lên
cao chót vót rồi lại xuốngthăm thẳm. Qua sông SêCaMáng.
Hôm nay, chúng tôi
đã vượt qua biên giới, trởlại đất nước - tỉnh Công Tum. Đi trên
đất Lào mất một tháng sáu ngày!
Ngày 13/7/1968
Vẫn kiên trì đi.
Đường đỡ dốc hơn.
Ngày 14/7/1968
6 đứa chúng tôi
nghỉ tại trạm này, đoàn tiếptục đi.
Ngày 15/7/1968
Chúng tôi đi qua
một vùng rẫy. Ở đây bầu trời rộng ra và mặt đất sáng sủa hơn
lên. Bà con dân tộc làm việc rộn rập ở rẫy, nhiều người mang ngô
rang ra. Họ đổi ngô rang lấy thuốc bổ, thuốc cảm sốt... Khi đoàn
gần chui vào một khu rừng rậm thì có một chiếc máy bay trinh sát
loại L19 lượn đến. Tôi và Điều đi sau, nên còn ở khoảng trống.
Chúng tôi đứng im. Chiếc L19 nghiêng cánh, nhòm ngó rồi vòng
đi. Tôi và Điều vừa bước vài bước thì nó vòng lại, nghiêng cánh.
Chúng tôi ngồi thụp xuống, mang cả ba lô trên vai.
Thật khó chịu, chiếc
L19 cứ lượn. Ngồi mỏi cảchân. Song, nó cũng cút. Chúng tôi nhanh
chóng lẩn vào rừng. Giờ thì tha hồ cho mày tìm.
Trời nắng rực rỡ
là vậy, lại ập cho một cơn mưa xối xả khi chúng tôi vừa tới
trạm. Trạm 65.
Ngày 16/7/1968
Chúng tôi lại đi
qua những giải rừng thông bátngát. Đồng bào ta cũng phá quá nhiều
thông để làm rẫy.
Chiều, mưa tầm tã.
Ngày 17/7/1968
Đường ngắn, đi thoải
mái. Nhiều rẫy bắp sắp đến ngày thu hoạch nằm cạnh đường đi.
Quanh rẫy, đồng bào cắm những cây nứa lớn được chẻ làm 2, 3, có
một sợi dây dài chằng trên các cây đó, trên dây buộc nhiều giẻ
rách và đầu dây nối với một guồng nước. Nước chảy rì rào làm cái
guồng nhảy lên nhảyxuống, kéo sợi dây làm những cụm vải đung đưa và
những cây nứa bị tẽ ra, dập vào nhauphát lên những tiếng “Crập! Crập”
đều nhịp. Xen vào đó là những tiếng hờ của đồng bào nghe âm u,
rờn rợn. Rừng núi Trường Sơn có những âm thanh huyền bí như
vậy đó.
Chúng tôi tới trạm
67, trạm Xã hội chủ nghĩacuối cùng của đường dây. Trạm có những ngôi
lán sạch sẽ, ở đầu trạm có một bảng nội qui to bằng gỗ. Trạm
có vẻ đàng hoàng.
Anh em cấp dưỡng
lấy rất nhiều củ nưa - trông giống như móng ngựa nên anh em gọi
là củ móng ngựa - về làm thức ăn. Loại củ này có chút chất
bột nhưng cứng và rất chát, muốn ăn, phải gọt vỏ, thái ra, ngâm
nước cả đêm. Nhưng với điều kiện thiếu thốn, đem thái nhỏ,trộn với
bột trứng và rán lên thì thành một món chả ngon tuyệt.
Anh em đi lĩnh
gạo. Tôi ở nhà nấu thêm vài ăng gô cơm cho anh em về đỡ
đói. Tôi nấu nhờ nhà bếp. Cơm gần sôi thì có một anh chàng giao
liên đến gắt nhặng lên và không cho tôi nấu nữa. Tôi nói sao anh
ta cũng không nghe. Anh ta bảo: “Sợ hỏng gạo thì đổ ra mà phơi!”
Bực tức, tôi xách ăng gô về. Tìm đâu cũng không ra chỗ để nấu
cơm, sau một hồi loay hoay đành thôi. Lúc sau, thấy anh chàng
giao liên nọ sục vào rừng. à, chắc anh ta tìm xem tôi có “tụt
tạt” không? Con người gì mà khắt khe vậy? Thật đáng ghét.
Mấy anh đi lĩnh gạo về, thấy không có cơm, đều tỏ rõ sự thất
vọng. Nhất là anh chàng San háu đói, mặt xị đi trông thật buồn
cười.
Tôi gặp mấy cháu
nhỏ từ Quảng Nam ra. Bọncon trai khỏe và nghịch như qủy. Bọn con
gáigầy yếu và rủ rỉ kể chuyện rất hay.
Cái Bốn, Đức sốt
quá, tôi lấy thuốc lên trạmnhờ tiêm cho chúng.
Chúng tôi nghỉ tại
trạm một ngày.
Ngày 19/7/1968
Chúng tôi sẽ đến
trạm Giải phóng đầu tiên. Tôimong đến nhanh xem trạm Giải phóng có gì
khác và cứ đinh ninh rằng sẽ gặp những chiến sĩ Giải phóng nói
giọng miền Nam và hết sức ân cần tiếp chúng tôi - những người từ
miền Bắc vào.
Đường chúng tôi đi
toàn dốc, đi qua một trạmvận chuyển - có rất nhiều nữ trẻ -
và qua sông nước Chè. Trên đường lại gặp cô gái người Quảng Nam.
Cô mượn dao của tôi và kê thuốc lá lên cây mà xắt. Rồi cô cuốn
một điếu thuốc to đứng hút ngon lành, miệng luôn nhổ nước miếng
toèn toẹt.
Những điều thấy được
làm tôi thất vọng. Giao liên dẫn tôi đến trạm Giải phóng là một
chú chàng miền Bắc 100%, trẻ măng và đoảng tính. Chú ta quên
mang giấy giới thiệu của chúng tôi theo, và tệ hơn nữa, còn
bỏ rơi cả một chú bé đi ra Bắc. Chú chàng chỉ đường cho chúng
tôi đi rồi quay ngược lại tìm chú bé nọ. Chúng tôi tự đi, tới
một con suối thì dừng lại chờ. Phải mất tới gần 2 tiếng đồng hồ,
chúchàng mới tới dẫn bọn tôi đi. Tới trạm. Chà,chẳng có gì hấp
dẫn cả. Trạm đấy, với mấyngôi lán lụp xụp, trống huếch, với mấy chàng
giao liên người Bắc dáng diệu mệt mỏi, chán chường và không hiếu
khách. Các anh chàng tỏ ra không biết nói chuyện lịch thiệp.
Bọn tôi cố nén, nói năng ôn tồn để xin gửi cơm cho trạm nấu
và được ngủ trong lán.
Nghe nói đây thuộc
tỉnh Quảng Nam.
Ngày 20/7/1968
Trạm này chỉ có
mấy chú lính ở nhà, ban chỉ huy đi họp hết.
Vắng chủ nhà gà
vọc niêu tôm, mấy chú línhđối với khách tệ quá.
Sáng sớm, chúng tôi
thức dậy nghe lời kêu gọicủa Hồ Chủ Tịch. Rồi ăn cơm và chuẩn
bị lên đường. Trước khi đi, bọn tôi cãi vã một hồi với tay quyền
trạm trưởng về việc giao liên quên giấy tờ của bọn tôi. Anh này
người Bắc nhưng giả tiếng miền Nam và nói rất ngang, toàn lý sự
cùn. Cãi vã phát chán, chúng tôi bỏ mặc anh ta đấy mà đi cho
rảnh.
Trên đường đi, tôi
gặp nhiều chị em nữ trongđội vận chuyển.
Chị em còn trẻ,
thường là gầy gầy và ai cũng cõng một cõng hàng to tướng sau
lưng. Mồhôi ra ướt đẫm áo và chị em thở phì phò...
Chúng tôi tới trạm
2 Giải phóng. Cảnh trạm thật đáng buồn.
Khi đi qua nhà
bếp để đến lán ở, tôi thấy một chiếc võng treo ở góc nhà, một
thân hình nhỏ bé nằm gọn trong ấy. Từ đó phát ra những tiếng rên
rỉ yếu ớt và bay ra mùi khai nồng nặc. Nhìn vào võng, tôi thấy
một khuôn mặt nhỏ, xanh xao của một em gái. Em ngước cặp mắt lờ
đờ nhìn tôi và nói lý nhí những câu gì không rõ. Hình như em
kêu mất lý lịch và tiền.Tôi lo ngại cho em. Ôi, cái sức sống
nhỏ nhoi trong cái thân hình gầy yếu ấy có chống nổi thần chết
do vi trùng sốt rét mang đến không? Em nằm đó, thoi thóp, rên rỉ
và luôn bị mắng mỏ. Mấy cậu giao liên đay nghiến: “Phải để con bé
con này nằm chỗ khác, để đây nó kêu điếc cả tai!”. Cậu y tá và
cậu cấp dưỡng ca cẩm: “Con bà cô lắm chuyện quá, hết đòi ăn
trứng lại đòi ăn chuối, moi đâu ra!”. Mỗi khi em gái gọi họ để
nhờ việc gì đó, em liền bị gắt: “Con bà cô im đi - kêu la
mãi! “. Em gái này làcon một gia đình cách mạng. Cha em hiện ởmiền
Bắc, mẹ em đi lấy chồng.
Em ở với bà nội và
giờ đang ra Bắc để ở với cha. Ôi, con đường ra tới đó xa vời quá
em ơi,liệu em có tới đó được không?
Đến lán ở, tôi
càng thêm buồn. Tại đó có hai anh bộ đội đang nằm trên võng. Một
anh bị sốt rét, một anh bị đau chân. Anh sốt rét còn trẻ, khoảng
hai mươi, hai mốt. Anh ta luôn rên la và kêu cha, mẹ. Anh bị
đau chân khoảng 30 tuổi, người xương xương. Anh ta bị chông xóc
vào ngón chân cái. Vết thương nhiễm trùng, lở lóet ra và
hiện đang bị dòi bọ quấy nhiễu. Cậu y tá thật lười biếng, không
chăm sóc gì bệnh nhân cả. Anh bộ đội ấy ngồi nhìn vết thương mà
nhăn nhó. Anh ta lấy que nứa gẩy từng con dòi một. Dòi văng ra
đất, bò lúc nhúc, trông thật tởm! Cả y tá và bệnh nhân đều lười
biếng và bẩn thỉu đến tệ hại.
Tôi lấy thuốc tím,
thuốc đỏ và một lọ Pênêxilinđưa cho anh bộ đội và dặn anh ta
phải chịu khó rửa vết thương. Còn anh y tá thì nói rằng sẽ lấy
Pênêxilin bôi vào vết thương cho anh bộ đội. Anh bộ đội nhận
thuốc, mừng quýnh lên. Anh gọi tôi bằng đồng chí và xưng em. Tôi
cảm thấy ngượng ngùng vì lối xưng hô đó - anh ta lớn tuổi hơn
tôi.
Đến bữa cơm, cậu
y tá bưng lên một rá cơm sắn - cơm ít và sắn nhiều.
Ở đây, cả giao
liên lẫn bệnh nhân đều phải ăn độn với tỷ lệ sắn quá cao. Gạo
thiếu, trạm chỉ đủ khả năng cung cấp cho mỗi người một lon một
ngày. Chúng tôi lấy cơm của mình cho hai bệnh nhân và bưng rá
cơm sắn lại ăn.
Xế chiều, giao liên
dẫn một đoàn khách ra Bắc. Có phụ nữ, trẻ em và cả những ông
già.Họ hăm hở đi, vui thích và khao khát như sắp đến cõi tiên.
Họ trút lại phía sau những chuỗi ngày gian khổ, ác liệt. Sau
lưng họ là phía trước của chúng tôi. Chúng tôi đang tiến về đó -
về nơi gian khổ, ác liệt - cũng rất hăm hở.
Chủ nhật 21/7/1968
Cậu y tá dẫn chúng tôi
đi. Đến 7 giờ, chúng tôi ngồi nghỉ và nghe buổi phát thanh
ca nhạc theo yêu cầu thính giả của Đài tiếng nói Việt Nam.
Giao liên của trạm
3 đến đón chúng tôi là một chú chàng 18-19 tuổi, sốt rét khặc
khừ. Chúchàng chỉ đường cho chúng tôi rồi rẽ vào mộtkhu nhà lá bỏ
không nằm nghỉ.
Chúng tôi đi không
có giao liên. Tới một ngãba, chúng tôi dừng lại, bàn cãi. Đi lối
nào, ai mà biết được? Chúng tôi đành treo võng nằmchờ giao liên. Song
thật sốt ruột, mãi mà chúchàng không đến. Chúng tôi đánh liều, đi đường
phía tay trái. Trời nắng làm mồ hôi chúng tôi vã ra như tắm. Tới
đỉnh dốc, chúng tôi ngồi nghỉ. Ở đây có những cây quế lớn, một
cây bị róc hết vỏ tới ngọn. Chúng tôi lấy dao găm vạc một ít vỏ
ở rễ cây quế ăn cho vui miệng - vị quế cay nồng, ngòn ngọt.
San leo lên ngọn cây, vạc từng miếng vỏ lớn.
Chúng tôi lại đi
dưới cái nắng dữ dội, trong cái oi ả và nồng nực. Mệt mỏi. Rã
rời. Chiều, chúng tôi tới trạm. Vừa hay, trời ập xuống một cơn
mưa lớn. Nước trút xuống xối xả. Chúngtôi rúc vào một ngôi nhà nhỏ và
chiếm lĩnh một nửa. Nửa bên kia có mấy người đang ngồi mài sắn
để gói bánh. Chúng tôi phải năn nỉ mãi mới được trạm cho ở trong
chiếc nhà đónhưng phải cam kết rằng nếu có khách phía trong tới thì
lập tức phải dọn ra bãi khách ngay. Ôi, nhất trạm nhì trời! Trạm
là hết thảy. Anh hãy nhún xuống để khỏi làm phật ý trạm, để có
thể nhờ trạm chút ít.
Ngày 22/7/1968 Trạm
không đồng ý cho chúng tôi nghỉ lại vì lý do: có thể B52 sẽ oanh
tạc.
Không, chúng tôi cần
nghỉ ngơi lấy lại sức, đâylà trạm nghỉ. Chúng tôi năn nỉ hoài. Đại
độitrưởng đại đội giao liên ở đây bắt chúng tôiphải ký giấy cam
đoan chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu bị B52 thì mới được nghỉ.
Dùng dằng mãi, rồi chúng tôi cũng được nghỉ lại mà chẳng phải ký
giấy gì. Trạm chỉ làm ra vẻ quan trọng mà thôi.
Trạm này có nhiều
rẫy sắn do anh em bộ trồng cách đây 2-3 năm. Giờ, sắn mọc lẫn
với lau lách, củ rất nhiều, rất to. Nhiều đơn vị thiếu gạo đã
đến đây lấy sắn về ăn. Nửa nhà chúng tôi ở, anh em ở bệnh viện
Quân khu vẫn hì hục mài sắn và gói bánh. Trông cảnh mài mài, gói
gói thật vui, như cảnh gói bánh chưng ngày tết vậy.
Nhưng giữa cảnh nhộn
nhịp ấy lại có những cái bóng vật vờ như bóng ma. Đó là một
số bộ đội nghĩa vụ bị ốm nằm lại trạm.
Thực ra đó là
những anh chàng bạc nhược vềý chí, nằm ỳ lại. Họ nằm suốt và
chỉ dậy khi đi ăn cơm. Song, đặc biệt, họ rất hăng hái đối với
việc đổi chác. Khi thấy đồng bào mang chuối, mía,... ra, họ bật
khỏi võng, như một cái lò so và cuống quýt mang quần áo ra dúi
vào tay đồng bào để lấy về có thể là nải chuối hoặcquả đu đủ... Họ
nhắm mắt đổi, không kể đắt rẻ.
Ở đây, chúng tôi
nghe tin địch càn nơi Khu ở. Chúng tôi gặp một chiến sĩ tên là
ảnh, anh tự giới thiệu là ở trạm 5 - trạm chúng tôi sẽ đến -và
rủ chúng tôi cùng đi.
Ngày 23/7/1968
Chúng tôi đi theo
ảnh. Anh cõng một ba lô gạo về cho đơn vị. Đi đường, anh luôn
cười nói vui vẻ, sôi nổi.
Chúng tôi ngủ lại
giữa rừng, sáng mai lại đitiếp để khỏi phải vòng về trạm, mất thêm
3-4tiếng. Trời lại mưa. Chúng tôi căng giàn, làm một cái lều ở chung.
Quái qủy, vừa co chân lên võng thì lều sập. Lại phải đội mưa mà
dựng lều.
Chúng tôi kiếm rau
tàu bay, bắp chuối rừng vàmót sắn làm một bữa tươi. ảnh tỏ ra
là một người sôi nổi, vui tính, lạc quan.
Trời tối dần. Lạnh
lẽo và ẩm ướt. Song nằmtrong lều, võng sát võng chuyện trò, chúng tôi
cảm thấy ấm áp.
Ngày 24/7/1968
Đường kỳ quái thật,
toàn men theo những khe lạch và rúc vào lau lách. Nước mưa đọng
ở cành lá làm ướt quần áo chúng tôi và bùn trơnlàm chúng tôi trượt
ngã mãi.
Gần trưa, chúng tôi
gặp một làng của đồng bào dân tộc ở đỉnh dốc. Ở đây, tôi thấy
mộtanh người Kinh đang đứng nói với đồng bào Thượng: “Tôi làm như
vậy, đồng bào ai cũng khen là tốt. Vậy mà khi trả công, anh Sơn
không trả hẳn hoi, lẽ ra phải trả gạo, sắn, thì anh ấy lại chỉ
vào một khu rừng và bảo tôi rúc vào đó mà kiếm sắn”. Chúng tôi
chuyện trò với anh. Anh ấy dẫn một đoàn cán bộ từ Gia Lai ra
Khu, song không bắt được liên lạc nên phải vào bản làm thuê cho
đồng bào lấy sắn ăn. Chúng tôi xôn xao bàn tán. Những ngày tới
sẽ ra sao đây?
Chúng tôi tới trạm.
Tại đây chúng tôi gặp mộtlãnh đạo của Khu - anh Vinh. Anh Vinh
chochúng tôi biết là đường dây chưa liên lạc đượcvới Khu và bảo
chúng tôi hãy nằm lại trạm chờ vài ngày rồi hãy đi. Gay đấy,
chúng tôi chỉ lĩnh 10 ngày gạo. Hôn nay đã là ngày thứ 6 kể từ
khi lĩnh rồi. Buổi tối, chúng tôi nấu cơm một cách dè xẻn. Anh
em ở trạm không ăn cơm màăn cháo. ảnh cho tôi biết tình trạng này
kéo dài lâu rồi. Tôi nhớ, vào buổi trưa, gặp giao liên ở chỗ
trực, chỉ thấy anh đem theo một khúc sắn - khẩu phần của bữa
trưa. ảnh quả là một con người biết phớt lờ khó khăn. Tiếp xúc
với anh, ta không thể thấy một nét nào của một người đang
sống trong cảnh đói kém.
Ngày 25/7/1968
Chúng tôi nghỉ lại
trạm và anh em bảo nhaumang đồ dạc cá nhân ra làng đổi sắn
ăn. Nhị đưa ra chiếc đồng hồ - anh bảo nếu có heo thì đổi.
Tôi và San mang gùi đi với một số vật tưtrong tay: con dao,
khăn mặt, hộp nhôm.... và với hy vọng nhỏ nhoi: kiếm được khoảng
nửa gùi sắn. Đi với tôi và San còn có Lơ - bộ đội quân giới.
Cậu ta tỏ ra rất căn cơ.
Làng chúng tôi vào nằm ở một đỉnh dốc. Mớivào đến
nơi, một cảnh bẩn thỉu phơi bầy ratrước mắt tôi: rác rưởi, phân lợn
gà, bùn nước...và mùi hôi thối bay lên nồng nặc. Ôi, sự no đủ
vẫn có sức mạnh hơn cái bẩn thỉu. Làngđó bẩn, nhưng làng đó có sắn,
có bắp - có cái cứu đói cho chúng tôi - nên chúng tôi cần vào,
phải vào.
Chúng tôi bước lên rác rưởi và trèo qua mộtcái thang
nhỏ, vào trong làng. Sân làng cũng bẩn thỉu không kém “khu
ngoại vi”. Làng chừng hơn chục nóc nhà - loại nhà sàn thấp tịt,
mái sùm sụp và tối om om. Đón chúng tôi là một lũ trẻ nhỏ trần
truồng hoặc mặc áo rộng thùng thình, với con mắt tò mò. Tôi bám
lấy chúng nó, theo chúng nó về nhà để “gạ đổi”. Bọn trẻ rất tinh
ranh, biết chúng tôi bí nên tỏ ra phớt lờ những thứ chúng tôi
đưa ra. Ôi, tôi ghét nhất nghề buôn bán, có bao giờ tôi thích đi
chợ, cò kè mặc cả đâu. Nhưng, bây giờ sự sống, miếng ăn của toàn
thể anh em khiến tôi phải làm những việc tôi ghét ấy. Tôi mang
chiếc khăn mùi soa Trung quốc có in hoa rất đẹp ra, cầm hai góc giơ
lên (như những người quảng cáo hàng ở Bờ Hồ) và bảo với lũ trẻ:
đẹp không, ưng đổi không? Rồi tán dương từ chiếc hoa in
đến đường kẻ sọc... Cuối cùng,một thằng nhỏ dẫn tôi về nhà và đổi
cho tôi chừng hơn chục củ sắn nho nhỏ. Con daoTrung Quốc rất đẹp,
song bọn nhỏ đổi cho ítsắn quá, tôi đành giữ lại. Một thanh niên
gạmua con dao ấy 50 đồng. Tiền mà làm chi lúc này? Tôi hỏi
anh ta có đổi đồng hồ không, anh ta hỏi “mác gì”? biết là loại
đồng hồ xoàng của Pháp, anh ta lắc đầu - anh ta chỉ ưng đồng
hồNhật, có lịch. Vất vả lắm tôi mới đổi được một ít sắn nữa - tất
cả vào khoảng hơn nửa gùi.
Chúng tôi vội vã ra về. Thật tai hại. Tôi đi
đầu, cứ cắm cúi bước, không để ý đường, nên lạc vào đường
đồng bào đi rẫy. Càng đi, càng thấy lạ rừng, lạ đường! Đi miết,
đi miết rồi đụng phải một con suối lạ. Cằn nhằn với nhau một hồi
rồi quay lại vậy!
Trời u ám, mù dày đặc. Mù sà xuống rừng cây, sà
cả xuống suối, ẩm ướt và u tối. Trưa rồi. Chúng tôi kiếm củi
nứa, đốt cháy đùng đùng rồi quăng ít củ sắn vào. Bữa trưa đó. Vỏ
sắn cháy đen thui. Chúng tôi bóc vỏ, sắn bở tung, trắng ngần
thật hấp dẫn.
Chúng tôi ăn một cách vồ vập như chưa hềđược ăn một
bữa ngon như thế này bao giờ.Ăn rồi ngó mặt nhau mà cười rinh rích.
Mặtanh nào anh ấy nhọ nhem than sắn, trông nguyệch ngoạc như hề.
Ngày 26/7/1968
Nghỉ lại trạm Lập. Nấu cơm, sắn một cách dèsẻn. Trên
đường đi đến trạm, chúng tôi được biết một loại dây leo đặc biệt
- dây chạc chìu:cắt ra, ngậm vào một đầu, mút một hơi là đầy một
miệng nước.
Ngày 27/7/1968
Lại ra đi như mọi ngày nhưng với khẩu phầncơm ít ỏi.
Khi qua một dốc dài 1 giờ 30 phút, chúng tôi lên tới đỉnh dốc
Sơn Mại. Đỉnh này cao chót vót, hẹp, lộng gió và mọc nhiều loại
cây có lá nho nhỏ như lá phi lao, rất đẹp. Chúng tôi đặt ba lô
thở phào và đứng phanh cúc áo, mặc cho gió lùa vào da thịt,
tưởng chừng lùa tới tận phổi.
Trước mặt và dưới tầm mắt chúng tôi là KhâmĐức -
trại biệt kích ngụy mới bị đánh tan. Từ những trạm ngoài,
chúng tôi đã thấy nói vềchiến thắng Khâm Đức: ta tiêu diệt được hoàn
toàn trại này và thu rất nhiều vũ khí, lương thực, thực phẩm.
Giờ thì Khâm Đức nằm trơ đó, phơi mình dưới bầu trời
xanh... Những ngôi nhà sụp đổ, những đồn luỹ ngổn ngang...Chúng tôi
lại quay nhìn về phía đồng bằng Quế Sơn. Núi rừng trập
trùng trải dài trước mắt chúng tôi rồi thấp dần, thấp dần và tít
xa, mờ xanh là đồng bằng. Đồng bằng thân yêu, ta xa đồng bằng
bao lâu rồi mà sao lòng nhớ da diết đồng bằng vậy? Bao giờ lại
về đồng bằng? Ôi, rừng núi điệp trùng. Chúng tôi trầm lặng
nhìn về đồng bằng với con mắt khát khao, với tâm hồn cháy bỏng yêu
thương.
Nắng vàng rực rỡ trải đều khắp rừng núi. Lũmáy bay
phản lực đến quấy đảo vùng trời. Chúng đánh phá đường 16.
Chúng bay dưới tầm mắt chúng tôi, điên đảo với cái thân trắng
nhởn và với những tràng bom đen trũi. Lũ máy bay thi nhau bổ
nhào và vọt lên cao, thay nhau gây nên những tiếng gầm rú xé trời
và những tiếng nổ inh tai nhức óc.
Tạm biệt ảnh, chúng tôi theo giao liên của trạm5 -
anh này có thân hình nhỏ loắt choắt, có đôi mắt kèm nhèm... Khi
xuống dốc, chúng tôi tiếp cận với đường 16. Hồi nãy, lũ máy
bay đánh phá chính đoạn đường này, mùi thuốc bom còn khét lẹt.
Đất đá bị đào bới tung lên. Câycối bị chặt cành, bị đổ nằm ngổn
ngang, lá nát tơi bời. Con đường đã biến dạng. Giao liênluẩn quẩn một
hồi mới tìm ra đường. Chúng tôinhanh nhẹn theo anh. Tại bìa rừng, nằm
dưới lùm cây là một chiếc ô tô tải GMC của Mỹ.Giao liên nói rằng
chiếc xe đó lấy ở KhâmĐức, máy còn tốt song không có đường mà chạy.
Chúng tôi băng qua đường. Im lặng bao trùm
cảnh hoang tàn. Nắng chói chang làm mùi bom càng thêm nồng,
khét, mùi lá cây thêm hắc. Qua đường rồi chúng tôi rúc sâu
mãi vào rừng. Ở đây, cây cối cũng đầy những vếtthương do mảnh bom,
lá rụng xanh cả đất...
Đang ngủ, chúng tôi giật mình tỉnh dậy vì tiếngpháo
nổ. Có những tiếng đề pa “uỳnh”, tiếp sau là tiếng “Víu...” qua
đầu chúng tôi và cuối cùng là tiếng “Oàng” ở phía xa. Chưa có
kinh nghiệm về phi pháo, chúng tôi nằm nghe tiếng nổ mà lo.
“Uỳnh!.. Víu...
Oàng!”... Những tiếng nổ, tiếng rít đáng ghét cứ
nối nhau mãi. Và rõ ràng tiếng “Oàng” mỗi lúc lại gần về phía
chúng tôi hơn. Bao giờ nó sẽ nổ chụp ngay trên bãi này? Ai mà
biết được. Bãi chúng tôi ở bằng quá mà chẳng có hầm hố gì cả.
Chỉ cần một vài quả thôi... Cótiếng gấp tăng loạt soạt và tiềng người
lao xao. Anh nào đó định cuốn gói khỏi cái bãi bằng đang bị đe
dọa này chăng? Tôi và Vượng tụt khỏi võng, tới núp sau một gốc
cây lớn. Đạn pháo vẫn bay viu víu qua đầu. Nhưng rồi cũng im. Lũ
pháo binh chết tiệt chắc cũng cần ngủ!
Chủ nhật, ngày 28/7/1968
Đi được khoảng một tiếng, chúng tôi nghe tin
chưa bắt được liên lạc với Khu, đừng đi tiếp nữa! Chúng tôi vô
cùng lo lắng. Gạo gần hết rồi. Bàn luận một lúc rồi quyết định:
đóng tăng dừng lại đợi tin tức.
Chúng tôi dựng lều ở bên một dòng suối nhỏ.Ôi chao,
khu vực này mới nhiều vắt làm sao:chúng tôi đụng đậy bước chân là lập
tức hàngtrăm con vắt đói nằm phục dưới lá ngóc đầudậy bò đến bu
vào chân cẳng chúng tôi. Cócon bò thục mạng, vội vàng đo từ lá
cây này đến lá cây khác, bị ngã lăn chiêng, vươn dậy, lại cuống
quýt bò. Có con bò phải cành cụt, cứ vươn mãi cái thân nhũng nhẽo
ra mà quơ tìm đường. Có con chưa đánh được hơi, bám một đầu vào
đất rồi dựng thân thẳng đứng như một que củi, thấy động là quay
tít như ra đa. Thật là lúc nha lúc nhúc như vắt mùa mưa. Có lẽ
không con vật nào thân lại lạnh như con vắt. Đụng vào nó, bạn có
thể nổi da gà liền, nó lạnh ngắt, lại ươn ướt, nhầy nhầy, gây
nên một cảm giác ghê sợ. Khi đã hút máu no, nó tựbuông cái thân hình
tròn căng, bóng nhẫy xuống đất và nằm im thin thít, lười biếng.
Chúng tôi thường lấy dao găm chặt đôi, chặt ba con vắt ra cho bõ
ghét.
Dòng suối này rất nhiều cá. Chúng tôi lấy kimuốn
lưỡi câu, lấy chỉ se lại làm dây câu và kiếm cây làm cần để đi
câu cá. Loại cá trắng thật khôn, chỉ có vài con cắn câu rồi sau
đó chúng chuồn hết.
Còn loại cá trầu (giống cá quả nhưng nhỏ chỉbằng
ngón chân cái) thật phàm ăn. Thấy mồi, chú ta bơi lởn vởn
một chút rồi bập vào liền.Có con bị giật đứt mép, văng lên bờ
rồi quẫy xuống nước, vậy mà không hề sợ, gặp mồi là lại lao tới
liền. Chúng tôi kiếm được gần một ăng gô cá.
Có tiếng máy bay ì ì. Hai chiếc trinh sát cánh
quạt lượn trên đầu chúng tôi. Một lúc sau,nghe trên không trung
vang tiếng người nói. à, tầu rao đó - nó gắn máy phóng thanh cực
đạiđể làm nhiệm vụ chiêu hồi. Thử nghe xem sao? Thằng cha trên đó
nói giọng Huế, qua máy phóng thanh phát từ trên cao nghe âm âm,
hư hư thực thực như tiếng từ âm phủ vọng lên. Hắn kêu gọi binh
lính Bắc Việt hãy hồi chánh.... Chúng tôi bực tức chửi rủa thằng
tầu rao một hồi, rồi xoay qua bàn: Sau này Mỹ thua, những
thằng bán nước kia sống ra sao nhỉ? Thật nhục nhã... Chiếc tầu
rao bay lượnmột hồi, kêu la một hồi rồi vòng ra xa. Tiếp đó, tôi nghe
tiếng phản lực rít. Một tiếng nổ “bục!”. Rừng cây chuyển động và
lá rụng rào rào. Chiêu hồi chán, chúng giở trò đánh phá, có gì
là lạ đâu!
Xế chiều, chúng tôi quay lại trạm để ngủ. Trờiập cho
một cơn mưa phũ phàng. Tôi ngồi trong một cái bếp bé xíu mà nấu
cháo - ngườiướt sũng vì mồ hôi và nước mưa. Tối đó, mỗi người chúng
tôi húp một chút cháo loãng toẹt.
Đêm ngủ, thấy buồn quá. ừ, buồn một chút
cũng được, nhưng đừng bi quan. Không, tôi không bi quan chút
nào. Khó khăn là tạm thời. Tình hình toàn cục vẫn rất sáng sủa.
Ngày 29/7/1968
Vẫn chưa liên lạc đươc với Khu. Gạo còn chútxíu
thôi, nằm chờ sao được? ở cái khu rừngnghèo nàn này thì kiếm được gì
mà ăn kiachứ. Ngay trạm cũng chỉ ăn cháo. Đến một látsắn khô cũng không
có mà ăn. Chiều qua, Dân- trạm trưởng - lục tìm mấy củ sắn
tươi để dành từ mấy hôm trước, định xắt ra nấu cháo. Song nó
thối mất rồi. Ai nấy tiếc đứt ruột.
Trước tình hình như vậy, chúng tôi bàn nhau
phải quay ra trạm ngoài để kiếm gạo, sắn.
Lại quay về con đường cũ. Đường rừng bữa nay ẩm
ướt vì trận mưa hôm qua và quá nhiềuvắt. Mặc dù chúng tôi đã bôi
thuốc chống vắt,vắt vẫn không hề sợ. Chúng ào ào xông đếnbám vào chân
cẳng, quần áo. Tôi đi một đôi bít tất dầy và dài tới đầu gối nên
vắt không cắn được. Tuy nhiên chúng bám đầy bít tất. Không sao
bắt xuể. Đứng lại bắt một hai con thì lập tức ba bốn con khác
lên thay. Vừa đi vừa co cẳng lên, lấy tay gạt bừa, rơi con nào
thì rơi vậy. Lũ vắt bò lổm ngổm đầy hai bít tất, leo lên tận đầu
gối. May quá, tới một con suối rồi. Chúng tôi nhảy ra các tảng
đá ngồi bắt vắt. Ở các kẽ chân, quai dép, vắt hàng búi. Chỉ một
chặp, tôi giết được 30 con vắt to nhỏ. Ôi chao, vắt!
Trưa nắng, chúng tôi ra tới một con suối lớn.Ai nấy
kiếm bóng mát ngồi nghỉ. Tôi lội quasuối rồi ngồi xuống một tảng đá
bên một bụicây mát rượi.Vừa ngồi xuống thì tôi thấy một con vắt no
tròn lăn cù theo độ dốc của phiếnđá. Không hiểu nó hút máu tôi từ lúc
nào mà bây giờ no như vậy, no tròn bóng lên, no không bò nổi
nữa.
Trông con vắt mà tiếc máu vô kể. Tôi lấy gậy
chọc cho con vắt toé máu ra cho bõ ghét. Máu đen thẫm, loang đầy
phiến đá. Tôi ngồi im, mệt mỏi. Sao nhớ nhà thế. Tôi thấy
hình ảnh cha, mẹ, anh em hiện lên rất rõ. Tôi muốn ôm lấy lũ
em mà không được. Và tự nhiên nước mắt tôi cứ trào ra, không sao
kìm nổi. Tôi để mặc những giọt nước mắt lăn trên gò má, nóng
hổi. Ôi, những giọt nước mắt yêu thương, ngươi không làm
yếu lòng ta, ngươi cứ chảy đi...
Xế chiều, chúng tôi tới trạm. Người đói run lẩybẩy.
Anh em chia cho mỗi người 1/3 lon gạođể nấu cháo. Phải ăn hết sức dè
sẻn như vậy mới được. Tôi đi kiếm môn dóc. Môn dóc là loại rau
dại mọc rải rác trong rừng, trông gần giống các loại khoai môn
nhưng lá dài và nhỏ hơn. Tôi lọ mọ khắp rừng mà chỉ lần được vài
cây. Chúng tôi hái lá, tước cọng, rửa sạch để chuẩn bị nấu canh.
Thật đã đói thì một cọng rau cũng quí. Cái thứ môn dóc ấy nấu
lên bay mùi hôi như cám lợn, song lúc này cũng quý như rau muống
vậy. Tôi ra máng nước, nhặt lại mấy đầu mẩu sắn anh em vứt bữa
trước, tuy nó xương xẩu và đã chạy nhựa thâm lại nhưng vẫn
quí, vì nó còn chút chất bột. Tất cả những thứ đó - 1/3 lon
gạo, mấy cọng môn dóc, mấy đầu mẩu sắn - tôi dồn cả vào ăng
gô,nấu nhừ ra. Bữa cháo ấy mới ngon lành làmsao.
Ăn rồi toàn Chi họp bàn cách gỡ thế bí (Chi
không phải là chi bộ mà là tên gọi của mỗi đoàn kèm theo số
hiệu, như Chi của tôi có phiên hiệu 192). Anh Bí thư Chi
đang sốt, mặc sù sụ chiếc áo vệ sinh và nói bằng cái giọng khịt
khịt của người tịt mũi: “Bây giờ gặp khó khăn, tất cả chúng ta
phải đoàn kết, thương yêu nhau, cùng nhau phải giải quyết...” Bànluận
rồi chúng tôi nhất trí: để một số đồng chí ốm yếu lại coi đồ
đạc, còn những người khỏe quay lại trạm 3 để xin gạo.
Tôi chuẩn bị đồ đạc để sáng đi sớm. Đêm ngủ mê
toàn thấy ăn tiệc. Tỉnh dậy thấy trốngkhông và bụng đói cồn cào, sôi
lục bục.
Ngày 30/7/1968
Bốn chúng tôi ở tiểu đội Hai và 4 người ở tiểu
đội Một hợp thành một đoàn, khăn gói lên đường. Thành và
Điều thuộc tiểu đội tôi ở lại vì yếu mệt. Chúng tôi nấu một ít
cơm để ăn sáng và trưa, còn bao nhiêu gạo thì trút hết lại cho
anh em.
Khăn gói nhẹ bỗng, chúng tôi lên đường - lạiqua rừng
quế, qua những đoạn đường trơn tuột. Khi tới làng, chúng tôi
dừng lại để đổi sắn. Vật tư cạn rồi. Tôi cầm cái hộp guy gô
của Vượng vào với tâm trạng đầy lo lắng: liệu có kiếm được gì không?
Tôi thẩn tha vào các nhà, dỗ dành mấy lũ trẻ và cuối cùng đổi
được9 củ sắn. Tôi mừng rơn, 4 anh em sẽ được nhờ tôi ở 9 củ sắn
ấy đấy.
Chúng tôi cắm cúi leo dốc. Đỉnh dốc này cómột rẫy
sắn cũ.
Nắng và nóng làm chúng tôi thở hồng hộc. Tôingồi
nghỉ với hai đồng chí pháo phòng không. Hai người mang hai gùi
sắn vơi vơi, củ nhỏ vàcong queo. Họ cho biết, họ mót sắn ở
đồi này. Song gay lắm.
Đất rắn và có lẫn đá nên phải dùng xẻng đào,
vậy mà suốt từ sáng đến trưa, họ chỉ kiếm được từng ấy sắn. Còn
chúng tôi, với mấy con dao găm nhỏ, liệu được gì? Mà thật
tai hại, khi leo từ suối lên đỉnh dốc, con dao găm của tôi lại
biến đâu mất rồi kia chứ. Chúng tôi nhìn nhau thất vọng và vội
xuống dốc để theo kịp tiểu đội Một.
Theo mãi, theo mãi mà vẫn mất hút họ.
Xế chiều rồi mà chúng tôi vẫn không thấy 4anh ở tiểu
đội Một đâu cả. Tôi nhớ ra rằng anh Bí thư Chi (ở tiểu đội Một)
và mấy anh nữa cùng tiểu đội đó có người quen ở trường Kinh tài,
trường này nằm ở gần đây. Chúng tôi hiểu rồi. Họ bỏ chúng tôi để
vào trường Kinh tài nhờ vả cho dễ. Nhớ đến câu của anh Bí thư
Chi: “Chúng ta phải đoàn kết thương yêu nhau” mà thấy chua chát!
Thôi, đành dừng lại giữa rừng này thôi.
Chúng tôi dựng nhà tăng để ở. Cái sườn nhànày cũ quá
rồi, cứ xiêu xiêu vẹo vẹo. Chúng tôi lấy cây chống, lấy đá chèn
cho vững.
Vượng chặt về một ôm cọng đùng đình gác lênmái để
căng tăng cho phẳng phiu. Không khí ẩm ướt. Chúng tôi khó
nhọc lắm mới kiếm được ít củi tạm gọi là khô. Rồi bóc sắn nhét
vào ăng gô. San đòi “đạo diễn” món sắn luộc, anh khoe rằng sắn
anh luộc sẽ vừa bở tung vừa ráo nước, ngon như bánh khảo vậy. Để
bồi dưỡng, chúng tôi làm luôn hai bắp chuối rừng mà tôi và Vượng
hái được ở rẫy. Thái nhỏ ra cho vào hai ăng gô, thế là được một
bữa canh tuyệt vời. Xẩm tối, chúng tôi dọn “cơm”, cũng 4 ăng gô như
ai, tiêu chuẩn cao đấy chứ. Tôi, San, Vượng, Nhị quây quần bên 4
ăng gô, ăn những khúc sắn bở tung với canh bắp chuối ngọt lừ,
vừa húp canh sùmsụp vừa khen bữa “cơm” ngon thật là ngon. Rồi thì leo
lên võng nằm và nghe đài. Trời mưa lắc rắc. Rừng âm u, tịch
mịch. Chúng tôi thiếp đi, quên hết cả mọi lo lắng về những
ngày sắp tới. Nhưng quái ác thay, quá nửa đêm thì cái cây ngang
cột võng của chúng tôi bị gẫy, đánh bật chúng tôi dậy. Bốn anh
em lại hì hục cột cột, chống chống, sửa lều trong đêm tối âm u,
dưới trời mưa lắc rắc, giữa không khí giá lạnh.
Chúng tôi đi đã chẵn ba tháng rồi đó, ba tháng
đầy vất vả song cũng đầy kỷ niệm yêu thương.
Ngày 31/7/1968
Sáng, dốc chút gạo còn lại ra nấu cơm. Trờivẫn mưa
nhẹ hạt.
Chúng tôi phải đóng 4 cái cọc và che áo mưa lên
để làm tạm cái bếp.
Song củi quá ẩm ướt nên nấu thật vất vả. Khói
tuôn ra và đọng lại đầy cả khu rừng. Không khí nặng quá,
khói không tan nổi. Lại có tiếng máy bay trinh sát ì ì phía xa.
Cứ chúi mũi vào bếp mà thổi phù phù, chóng cả mặt.
Lại những con đường rừng là lạ quen quen.
Đây, dòng suối bữa nọ chúng tôi ngồi nghỉ, xem đồng bào dân tộc
lật đá bắt cá. Chúng tôi ngồi bên bờ suối, trầm ngâm. Lúc này,
cậu y tácủa trạm 2 Giải phóng lại ở đâu dò đến. Cậu ta được lệnh
tập trung lên đoàn công tác. Tôi sốt sắng hỏi cậu ta về anh
thương binh và cô bé. Cậu ta cho biết anh thương binh nhờ có
thuốc nên sau đó ít ngày, vết thương đã hết dòi và nay chân đã
khỏi. Còn em bé, em còn đâu nữa! Y như điều tôi dự đoán, bệnh
sốt rét quáiác đã cướp mất em! Ôi, thật là cay đắng! Lòng tôi nặng
trĩu buồn thương...
Từ đoạn này đi ra, người thật đông. Bộ độichuyển
đạn, chất nổ... đi nườm nượp. Có cả những người gùi những gùi
sắn nặng trịch, với những củ sắn to tướng, mập mạp. Chúng tôi
xin được vài củ sắn cỡ vừa vừa, lấy làm mừng lắm. Cái bụng xấu
tính, cứ sôi lên đòi ăn. Tới một đỉnh dốc gần trạm, chúng tôi
dừng lại, làm một bữa “xổi”. Tại đây, vỏ sắn vứt la liệt,
những mẩu sắn vứt lăn lóc trên sườn đồi, dưới khe suối. Thỉnh
thoảng lại có những củ còn nguyên xi lành lặn nữa. Chúng tôi lột
sắn, đựng đầy 4 ăng gô, chất lửa đùng đùng. Sắn bở tung,
nóng hổi, đối với chúng tôi như là một bữa tiệc.
Có anh bộ đội mới hành quân từ Bắc vào,nghe chúng
tôi nói chuyện, liền đem cơm nắm ra ân cần mời chúng tôi, còn
anh ta ăn sắn - anh ta cũng thèm sắn. Thật giống như khichúng tôi còn
nhiều gạo, chỉ độc thèm sắn. Này, bình tĩnh lại anh bạn ơi, rồi
thì sắn sẽ làm cho anh ê ẩm đấy.
Ăn uống no nê rồi, chúng tôi kéo quân vàotrạm. Thật
bất ngờ, chúng tôi lại gặp Thuyết và Các, hai anh em cùng Chi bị
ốm, đi sau.
Hai anh kéo chúng tôi vào ở ngôi nhà đượctrạm phân
phối cho.
Hàn huyên, cười nói mãi rồi cũng phải lo tớithực
tại, lo tới tương lai của chuyến đi. Gạohết, muối chẳng còn.
Chiều đó, chúng tôi được một bữa cơm no,
ngon, nhờ cơm gạo trắng tinh của Thuyết, Các, nhờ lương khô thịt
voi của hai anh bạn bộ đội và nhờ nồi canh sắn ngọt lừ do bọn
tôi tự kiếm. Rồi thì xúm vào bàn bạc cụ thể đểkiếm ra lương thực.
Hiện nay, trạm không chịu cấp gạo cho chúng tôi (kho có trên 5
tấn) vàchỉ cho tạm vay: mỗi người một ngày được vaynửa lon sữa bò!
Kia, thức ăn no của chúng tôi là rẫy sắn ngoài kia.
Thứ năm, ngày 1/8/1968
Chúng tôi dọn ra bãi khách và bắt tay ngayvào việc
đi đào sắn - chỉ có dao găm thôi. Tôi cũng có một con dao găm,
thực ra nó là loại lưỡi lê của Mỹ, một anh bạn đi ra Bắc tốt
bụngđã cho Nhị, Nhị lại cho Tôi.
Ở đây sắn nhiều, nhưng bỏ lâu rồi nên hoangvu, sắn
mọc lẫn những bụi gai góc, lau sậy,cây cối. Phải chui rúc mà mót, may
thì gặp nơi nhiều, không may thì gặp nơi ít.
Cứ theo triền dốc đi xuống, chúng tôi gặp mộtbãi sắn
đã bị khai thác. Cây sắn to đổ ngổn ngang, còn trơ cái hốc đỏ
lòm mầu đất. Tôi ngơ ngác tìm các bờ bụi, chẳng thấy cây sắn nào
sất! Mà sao lắm cây mâm xôi thế. Loại cây này thân đầy gai, bò
ngùng ngoằng, quấn vào nhau dầy đặc. Gai nó cào toạc cả da thịt.
Nắng chói chang. Nắng toé lửa. Tôi bươn lênsườn núi lùng nhùng
những bụi mâm xôi rồi rúc ngang, kiếm mãi vẫn chẳng có gì. San
và Vượng cũng vậy. Nhưng sau đó, chúng tôi cũng tìm ra 2,3 gốc
sắn mọc lẫn trong lau lách. Thế là xúm nhau vào phát, đào. Cái
thứ sậy chết tiệt này, rễ, gốc ăn tràn mặt đất, cắm sâu
xuống đất và cứng tổ cha. Tôi, San, Vượng phải thay nhau dùng
dao găm bạt dần từng mảng rễ, gốc đó ra mới đào được. Khát khô
cả cổ. Bi đông cạn sạch nước rồi. Trời lại rắc cho một ít hột
mưa rào. Thế là hơi đất được dịpbốc lên, thốc vào mặt chúng tôi -
những khuônmặt có những cái miệng và cái mũi đang háhốc ra thở dốc.
ậm ạch, hì hục mãi rồi cũng moi được sắn từ lòng đất lên. Khoảng
một nửa gùi tất cả. Quá trưa, chúng tôi ra về.
Ngày 2/8/1968 Lại đi đào sắn, song đi chếch
ra ngoài một chút. Tôi và San mượn được hai cái xẻng nhỏ, chắc
sẽ đỡ vất hơn. Nơi này khárậm. Rúc một lúc là mất hút Vượng rồi.
Chúngtôi í ới gọi nhau, nhưng không được, đành chia hai cánh, đào hai
ngả vậy. Nơi này khá nhiều sắn. Tôi và San cắm cúi đào. Đất cũng
khá mềm. Cứ đào được một bụi, lại rúc rúc, luồn luồn trong bụi
rậm, lần ra từng hốc sắn mà đào.
Khoảng nửa buổi, tôi rúc ngược lên và gặp
Vượng, Anh đào được khá nhiều sắn. Sắn to thật, nhiều củ bằng
bắp đùi. Tôi cũng ra sức đào. Moi lên những củ sắn đầu phình to,
đuôi múp lại, trông thật ngộ ngĩnh.
Xế trưa, chúng tôi ra về, mỗi người lặc lè một
gùi sắn. San không gùi, anh buộc lại mà gánh. Thế là tai vạ đến
với anh: rúc một chặp, sắn bị dây dợ, gai góc lôi kéo thi nhau
rơi. Mỗi lần như vậy, San lại phải đặt gánh xuống, lượm từng
củ, buộc lại. Có lẽ quá mệt, anh đâm bẳn tính, cáu gắt nhặng xị.
Tôi cứ bụm miệng cười. Ai bảo dại!
Khát khô cả cổ. Mệt mỏi rã rời. Gùi sắn trĩu
nặng trên lưng...
Thứ bảy và chủ nhật, ngày 3-4/8/1968
Đã có sắn ăn, sắn để, chúng tôi tạm nghỉ ngơi
cho dãn xương, dãn cốt và tích cực đi làm công tác vận
động lương thực. Thuyết xin được cho chúng tôi khoảng hai lon
muối - thật quý hơn vàng (lúc này, do tài “ngoại giao” Thuyết,
Các vẫn được nghỉ và ăn uống trong trạm, bốn đứa chúng tôi nghỉ
ở nửa ngôi nhà ở giữa bãi khách, cạnh tiểu đội Một).
Trạm vẫn khăng khăng không cấp gạo cho chúng
tôi. Lý do họ nêu ra: đường dây vẫn thông suốt, các anh cứ đi
là được! Chúng tôi phải nằn nì mãi, sau mới được cấp 6 kg gạo.
Tuy nhiên, anh em ăn hết sức dè sẻn. 4 ngườiăn chưa đến 2
lon gạo một ngày, còn toàn là sắn. Sáng, chiều, ăn chút cơm ghế
sắn. Trưa,ăn sắn luộc.
Ngày 5-8/8/1968
Chúng tôi tiếp tục vừa nghỉ ngơi vừa đào sắn,thái và
phơi, sấy sắn. Chủ yếu là sấy vì ở đây rừng già, chỉ có ít ánh
nắng. Chúng tôi làm một cái giàn bếp lớn, gác lên đó một cái vỉ
tre rồirải sắn lên.
Phía dưới là bếp, hàng ngày nấu ăn, tối thìchất củi
gộc, củi tươi vào đốt suốt đêm. Chẳngbao lâu chúng tôi được một bao
sắn khô totướng.
Ngày 9/8/1968
Có tin đã nối được liên lạc với VQ ( tức Vinh
Quang, mật danh của Khu ủy khu Năm). Trạm cấp cho chúng tôi gạo
ăn đường: 6 ngày, mỗi ngày mỗi người 2 lon.
Thật là mừng, chúng tôi bàn nhau phải liên
hoan một bữa. Tôi, San, Nhị vác cần đi câu cá, được khoảng một
nắp ăng gô. Lại xin được hai quả dứa. Thế là được một nửa ăng gô
cákho ngon tuyệt.
Chiều, chúng tôi nấu cơm không ghế sắn, ăn
với cá kho dứa và coi đó là đại tiệc.
Ngày 10-13/8/1968
Lại trở lại đường cũ, ba lô nặng trịch nhữngsắn khô
và chút gạo.
Khi vượt được đỉnh Sơn Mại rồi, đi qua mộtcon suối,
tôi thấy có mấy anh bộ đội trẻ măng ngồi bên một đống củ nần.
Loại củ này to bằng ấm tích, tròn, có bột mầu trắng ngà, phải
làm thật kỹ (sắt ra, ngâm nước mấy ngày), ăn mới hết đắng, hết say.
Mấy anh ấy ở đơn vị pháo ngoài Bắc mới vào, bị lạc đơn vị, bị
đói. Sâu vào phía trong một chút, dưới một cái tăng có treo một
cái võng. Chiếc võng căng nặng, chứng tỏ có người nằm trong. Ở
một đầu chiếc võng, ướt đầm đìa những nước. Từ đó bay ra mùi
khai thối nồng nặc. Anh bộ đội đó bị ốm nặng, lại bị đói, liệu
có thoát khỏi cái chết giữa núi rừng hoang vu này không?
Chúng tôi nghỉ lại ở trạm Dân. Trạm vừa bắnđược hai
con Dộc (loại thú rừng họ khỉ), Dâncho chúng tôi một con nhỏ. Lúc nào
cũng vậy,Dân rất niềm nở, tươi cười và hay chia ngọt xẻ bùi với anh
em. Trạm anh vừa cứu được một đồng chí bộ đội bị ốm và suýt
chết đói. Hiện anh ta đã khỏe và trạm vẫn nuôi. Lương thực vẫn
khó khăn.
Ngày 14/8/1968
Đi đến trạm Khoa. Đường bằng, men theo các
bờ suối hoặc xuyên qua những khu rừng bằng phẳng, đầy lá khô và
nhung nhúc những vắt. Thỉnh thoảng có một vài cái dốc ngắn song
trơn tuồn tuột - đất ở đây là loại đất thịt, bị thấm nước, nó
tạo thành một lớp bùn quánh, nhầy ở bề mặt, còn phía dưới
vẫn cứng nên mới trơn như vậy. Nhiều người đã ngã - ngã lăn ba
vòng từ trên xuống, ngã ngồi trượt một đường dài... đủ kiểu ngã.
Tôi cố sử dụng chiếc gậy thật khéo léo, lúc thì chống, lúc thì
ghìm lại thành một cái trụ vững chắc nên xuống mấy dốc đó đều an
toàn.
Ngày 15/8/1968
Giao liên dẫn chúng tôi đến trạm Phú là mộtanh người
nhỏ nhắn. Anh bị đau bụng - kiểuđau dạ dày - nên thường tụt lại đi
sau chúng tôi. Đường men theo bờ sông, cũng dễ đi.Phía bờ sông bên
kia có những nơi bị bom cày phá khiến cây cối đổ gục, đất bị đào bới,
phơi màu đỏ hoen ố.
Đến trưa, chúng tôi mang cơm ra ăn. Cơm củatôi có
ít, vì hết sắn khô để ghế rồi. Anh giao liên mang gói cơm bé xíu
ra - thực ra đó là sắnkhô nấu thì đúng hơn, vì chỉ có loáng
thoáng ít hạt cơm.
Anh nói trạm này cũng đói, gạo quá ít và đi lấy
sắn quá xa, phải mất hai ngày đường. Anh giao liên chỉ ăn vài
miếng là hết veo nắm cơm tội nghiệp. Tôi mời anh ăn thêm
với tôi, anh ta ăn rất tự nhiên.
Cũng thật xúi quẩy, chúng tôi xin được một
quả lựu đạn, đem đến một hục sâu ở suối ném, định kiếm một chút
cá. Nhưng lựu đạn nổ mà chẳng có con cá nào chết cả!
Chiều, tới trạm, vừa kịp căng tăng thì trời nổigió
đùng đùng và sầm sập đổ mưa. Chúng tôigóp gạo, ăn chung với trạm. Còn
trạm thì cósắn tươi và cá - cá do anh em giao liên mò ở suối, được ít
con. Bữa cơm nóng, ngon.
Đường nhiều dốc nhưng ngắn. Rừng nhiều muỗi quá,
mỗi khi ngồi nghỉ là chúng ào vào đốt túi bụi. Tôi phải lấy khăn
mặt đập ngang đập dọc luôn tay mà vẫn bị đốt tịt cả người. Rừng
cũng nhiều hạt gắm quá, tôi nhặt không biết chán. Trong lúc
lương thực thiếu thốnnày, hạt gắm thật quý - nó có chất bột, sẽ làm
chúng tôi bớt đói một chút và ăn lại ngon, vừa bùi, vừa béo.
Điều cũng cặm cụi nhặt với tôi. Thuyết nhặt được một nắm, đưa cho tôi
mang rồi đi thẳng - anh rất ngại làm công việc cải thiện
sinh hoạt và chỉ thích nghỉ ngơi. Vượng, Nhị, San thấy chúng tôi
nhặt cũng chẳng để ý, cứ đi thẳng, có lẽ các anh chưa biết giá
trị của hạt gắm.
Bãi nghỉ của chúng tôi quá chật hẹp, nằm kềmột con
suối nhỏ, dưới một cái làng của đồngbào dân tộc. Tôi bước vào bãi
định kiếm mộtchỗ căng tăng thì bỗng thấy đau buốt ở chân;Tôi ngã khuỵu
xuống. Trời, mu chân trái của tôi mang nguyên si một mũi chông
tre kiểu lá tranh. Mũi chông cắm sâu vào mu bàn chân, tôi phải rút
nó mới chịu rời ra. Nó cắm sâu tớigần hai đốt ngón tay. May nó không
có ngạnhnên không bị mắc cứng trong đó. Máu từ vếtthương tuôn ra, đỏ
thẫm cả bàn chân. Anh emchạy xúm đến. Vượng nhai thuốc lá dịt cho
Tôi. Điều dở băng băng chặt lại. Tôi tập tễnh về treo võng nằm,
lòng đầy lo ngại. Lúc ấy tôimới để ý nhìn và thấy ớn lạnh: quanh
bãi nghỉ, ngược lên triền dốc, chi chít những chông. Chông hình
lá tranh, bén nhọn, được cắm chênh chếch và lẫn vào cỏ, rất
khó phát hiện. Có lẽ đồng bào cắm chông đề phòng biệt kích.
Tối, Điều mang hạt gắm ra rang. Anh em xúmxít quanh
bếp lửa. Chúng tôi chia đều cho 7người, mỗi người được khoảng bốn
chục hạt, ăn thấy bùi, béo, thơm, thú vị vô cùng.
Ngày 17/8/1968
Cái chân đau muốn cản trở cuộc hành quân
của tôi. Đường lại cứ nhằm suối mà đi. Lội nước đến phát sợ lên.
Người ớn lạnh, sởn gai ốc.
Đến trạm, tôi vội lấy thuốc tím rửa chân
rồi rắc thuốc Sunfamit vào. Miệng vết thương khép kín,
trắng bợt. Lo lắng về gạo vô cùng. Biết đi mấy ngày nữa? Ôi, cái
kiểu đi nửa ngày ỡm ờnày làm chúng tôi tốn gạo quá. Chúng tôi ănrất
dè sẻn. Hành quân mang nặng mà chỉ ănmột lon rưỡi gạo một ngày - nấu
cơm suốt từ sáng để ăn ba bữa. Do vậy, phải tự kiềm chế ghê lắm,
nếu không sẽ ăn hết ngay trong một bữa. Cơm ăn với muối trắng mà
thấy ngon lạ. Sáng, ăn 1/3 khẩu phần, thấy thòm thèm quá. Muốn
ăn thêm. Này, hãy tự kiềm chế đi, ăn thêm một thìa thôi nhé.
Trưa, chiều lấy gì ăn nếu ăn hết từ sáng? Đến trưa lại phải đấu
tranh dữ dội nữa. Bụng đói cồn cào, đầu gối bủn rủn. Ăn mấy thìa
đấy? Còn phần của chiều - chớ quên điều đó, chớ sa đà. Trời ạ,
ác hại thay, sao trời sinh ra hạt gạo ngon thế? Ăn một lại muốn
ăn hai. Nhất là những lúc đói kém này. Song, tôi tự kiềm chế nổi
- phần của bữanào ra bữa đấy, có xê xích cũng chỉ trongkhoảng một, hai
thìa.
Tối, Thuyết lò mò đi xin được hơn một lon bắp.
Tất cả tiểu đội đều mừng rỡ và lập tức bắc nồi, chất lửa rang
ngay. Những hạt bắp thơm phức, ròn rộm đã đem lại cho chúng
tôi một niềm vui nho nhỏ.
Anh em quây quần quanh bếp lửa, chia nhau
từng hạt bắp rang và tán đủ thứ chuyện. Mọi mệt nhọc, lo lắng
dường như bị lãng quên.
Ngày 18/8/1968
Chúng tôi tới trạm
An. Giao liên cho chúng tôiđóng tăng ở một bãi nhỏ, giữa dốc và
nằm kề một con suối nhỏ.
Tình hình đường lơ
mơ quá. Còn đi mấy ngàynữa, giao liên không biết. Ai sẽ cấp thêm
gạocho chúng tôi? Trạm ư? - Trạm cũng đói. Chođến hôm nay, mỗi
người chúng tôi chỉ còn mộtlon rưỡi gạo và một chút cơm nguội đóng
trong ăng gô và... hết, xung quanh là rừng núi cùng những anh em
thiếu đói...
Số gạo còn lại
phải để dành, phòng khi đói lả còn có chút hơi gạo. Chúng tôi
phải đi kiếm thêm môn dóc ăn. Ở đây, môn dóc cũng hiếm. Cây môn
dóc cằn cỗi, nhỏ xíu, mọc lưa thưa trên vách núi, ven suối. Tôi
tập tễnh lê cái chân đau đi kiếm môn dóc cùng San.
Cái suối này đổ
từ đỉnh núi xuống nên rất dốc. Lòng suối đầy đá tảng trơn tuột.
Chúng tôithận trọng dò từng bước theo suối đồng thời phải hết sức chú
ý hai bên vách núi. Hễ cómôn dóc là phải bám vào cây, đạp chân
vàonhững mô đá mà leo lên hái. Hái mãi mà chỉ được vài nắm.
Tôi phớt cái chân đau, xôngbừa vào bụi, mặc gai mây cào, mặc dây
leoníu. San cũng xông xáo theo tôi, song anh hơithiếu kiên trì. San
cứ giục: “Về thôi, đủ rồi”. Tôi nhìn bó rau mà lắc đầu: “Đấy, 7
người ăn chứ ít đâu?”. San in lặng và lúi húi kiếm môn dóc. Tôi
vướng phải một dây leo hình múi khế, có 4 cạnh, rất giống cây củ
trắng (loại giống củ mài, củ to mà rất nhiều bột, ăn thơm,
ngon). Tôi mừng rỡ bảo San: “Có thể là củ trắng đấy”. San sáng
mắt lên: “Đúng không, nếu đúng thì lấy dao găm đào bằng được”.
Tôi lần theo dây, nó mọc ra từ một cái dây khác to tướng chứ
không phải mọc ra từ dưới đất. Thất vọng, làm gì có thứ của quý
ấy ở chốn rừng già này.Vẫn chỉ có môn dóc làm bạn với ta.
Hái suốt chiều chỉ
được hai bó môn dóc. Chúng tôi rửa sạch, tước cọng và chia đều
cho 7 người, mỗi người được khoảng nửa ăng gô. Đến khi lấy muối,
tôi giật mình: gói muối chỉ còn chút xíu. Mọi khi tôi vẫn giữ
muối, hôm qua đưa Điều nấu canh, lúc ấy gói muối còn khá
nhiều. Chúng tôi bực bội, ai ăn mà hết đi nhanh vậy?
Nhưng rồi cũng phải
nén lại. Lúc đói kém màdằn vặt nhau quá thì chỉ thêm khổ. Được, rồisẽ
phải lựa lời nói với nhau sau.
Tôi trộn cơm nguội
vào ăng gô canh loãng tọet, húp xì xụp, thấy ngon như ăn súp
vậy. Thực ra cái thứ rau rẻ mạt này khi nấu lên cứ hôi hôi mùi
bùn và từa tựa như cám lợn.
Tối, tôi đến tăng
của Thuyết lấy bi đông chếnước cho anh. Tình cờ tôi thấy anh còn
mộtgói ruốc bông (chắc anh xin được ở một trạmnào đó ngoài đường
dây Xã hội chủ nghĩa ).Thì ra anh vẫn cất kỹ và ăn giấu
một mình. Tôi thấy buồn quá. Tôi nhớ hôm xin được con dộc, chúng
tôi nấu kha khá cơm gọi là liên hoan. Tôi vẫn ăn với cái điệu
chậm rãi như ở nhà - tôi quen ăn chậm nhai kỹ. Điều đau dạ dầy
nên cũng phải nhai kỹ. Tất cả có 4-5 ăng gôcơm, nghĩa là mỗi
người được một nửa ăng gô, còn lại một ăng gô rưỡi là phần liên
hoanchung. Nhưng khi tôi và Điều ăn hết một ănggô thì 4 ăng gô kia đã
hết veo rồi. 5 anh bạn kia đã ăn hết cả phần cơm tội nghiệp gọi
là cơm liên hoan. Thật là dở mếu dở cười. Trong hoàn cảnh thiếu
thốn này, ai cũng mau đói, lúc ấy ăn uống dễ bị “quá đà”, lẹm cả
vào phầncủa đồng đội. Thật đúng như các cụ nói chínngười mười ý, mỗi
anh em trong đoàn có mộttính nết riêng. Người chăm kẻ lười, người
biết nhường nhịn kẻ lại không. Biết làm sao? Nhưng nói
chung, tiểu đội chúng tôi vẫnthường chia ngọt xẻ bùi cho nhau -từ mẩu
sắn,hạt ngô đến lá rau. Đồ đạc tư, anh em đều góp lại, mang
ra đổi chác kiếm cái ăn chung. Riêng tôi, giờ đây ba lô đã vơi
quá nửa, chỉ còn vài thứ thật cần thiết cho cuộc sống.
Nằm trên võng lạnh,
để mặc cho cái đói dàyvò, tôi nghĩ miên man. Trong khó khăn, bệnh
cá nhân có điều kiện bộc lộ. Tiểu đội Một đốivới chúng tôi không
được tốt. Tiểu đội ấy toànlà anh em người địa phương, quen thông thổ
và có người quen nên kiếm được nhiều lương thực. Họ không hề
chia xẻ cho chúng tôi. Tới bữa, họ mang gạo, sắn, bắp, đỗ... ra
một chỗ và nấu ăn. Họ vẫn luôn luôn kêu thiếu thốn. Tôi nhớ có
hôm vào nơi tiểu đội Một ở giữa lúc họ ăn bắp rang, mùi bắp thơm
lừng, có anhcòn đang nhai dở bắp trong miệng, vậy mà vẫn có anh nói:
“Đói hỷ, chẳng có gì ăn cả”.Họ không chia xẻ cho chúng tôi, họ còn
giànhgiật của chúng tôi những của cải của toàn đoàn, đem đi đổi chác.
Chiếc lưới đánh cá, họ cho trường Kinh tài để lấy về bắp, đỗ
xanh, mắm cá - họ nói rằng họ gửi ở đó (!?). Gửi đó, ai sẽ
lấy và bao giờ lấy? Rồi bộ tông đơ cắt tóc, túi thuốc công họ
cũng chiếm cả.
Sinh hoạt lỏng lẻo
quá, chẳng họp hành, kiểm điểm gì cả nên thật khó phê bình, sửa
sai. Chỉthỉnh thoảng nặng lời với nhau thôi.
Buồn thật!
Ngày 19/8/1968
Cả ngày hôm nay
chỉ được một lon gạo thôi,nửa lon kia phải kiên quyết giữ lại.
Sáng, hỏi giao liên
còn đi mấy ngày nữa, anhtrả lời bâng quơ:
khoảng 3-4 ngày gì
đó. Chúng tôi xôn xao bànbạc. Đi 3-4 ngày nữa thì lấy gì ăn
đây! Chiều qua, chúng tôi gặp mấy anh ở giao bưu. Các anh vẽ
đường cho chúng tôi và bảo: cứ mạnh dạn đi, thể nào cũng gặp cơ
quan nào đó, may ra xin được gạo. Bây giờ chúng tôi xoay ra
hướng ấy: cứ mạnh dạn tách trạm, tìm đường đi. Thuyết vào
báo cáo với trạm điều đó. Trạm trưởng bắt chúng tôi phải ký giấy
cam đoan và gắt gỏng: “Nếu xảy ra chuyện gì thì các anh chịu
trách nhiệm!”.
Leo dốc với đôi
chân bủn rủn vì đói. Mắt hoa lên và mồ hôi vã ra như tắm.
Dừng lại nghỉ ở một cái suối lớn dưới chân dốc. Ở đây có rừng
giang, những cây giang vươn dài và ngoằn ngoèo. Chúng tôi rúc
vào các bụi giang và tìm kiếm: có măng! May mắn làm sao.
Đi một chặp, chúng
tôi gặp một con suối lớn và cứ lội xuôi theo suối miết. Nước sâu
tới đầu gối, giá lạnh, làm chân chúng tôi cứng đờ lại, mỏi rũ.
Ven suối mọc những dây lang rừng - giống dây khoai lang, lá ăn
giống lá khoai.Chúng tôi sà vào các bụi mà hái lá lang rừng. Với túi
rau và măng đầy ắp, chúng tôi hy vọng chiều sẽ được một bữa no.
Chân đau quá, tôi
tập tễnh đi sau. Bao giờđến. Và đến đâu?
Xế trưa, tôi theo
kịp đoàn. San đứng ở mộttảng đá đón tôi, mặt mày rạng rỡ. San
reo to: “Sao đi chậm thế? Đến nơi rồi. Gặp cơ quan rồi!”. Tôi
lặng người đi, ngỡ ngàng. Và niềmvui xáo động chạy thốc vào cơ thể
tôi như một dòng nước mát ngọt, làm tiêu tan mọi mệtnhọc, lo lắng.
Đây là trạm vận chuyển gạo củaBan Tuyên huấn, cơ quan mới của tôi.
Anh Hoài ở báo Tiền Phong xem giấy và nhận đón chúng tôi, những
người ở tiểu đội Hai. Còn tiểu đội Một thì phải đi nữa, phải đi
tìm cơ quan Giao thông. Anh trưởng đoàn đồng ý để chúng tôi về
thẳng cơ quan. Khi chia tay, toàn tiểu đội chúng tôi dốc ruột
nghé ra được ba lon rưỡi gạo, đưa hết cho tiểu đội Một. Số rau,
măng kiếm được, tôi cũng đưa hết cho Báu.
Chúng tôi mang số
cơm phần của buổi chiều ra liên hoan. Anh em ở trạm vận chuyển
mang cho chúng tôi một đĩa mắm cái - đĩa mắm cónhững con cá đỏ
tươi, bay mùi thơm phức. Ănxong, chúng tôi chia tay nhau: Điều, San,
Thành về đội Điện ảnh; tôi, Vượng, Nhị, Thuyết được anh Hoài dẫn
về ban Tuyên huấn. Bắt tay nhau, sẽ gặp lại nhau, nhưng sao
bịn rịn quá.
Sáng, chúng tôi cùng
đi với anh Hoài và mangtrên lưng sự no ấm: mấy chục lon gạo, mỗingười
một hộp sữa nước.
Trưa đó chúng tôi
dừng lại hái lang rừng luộcăn với cơm. Rồi lại pha sữa chia nhau
uốngrôm rả.
Chúng tôi xuôi theo
đường 14. Con đường bằng nhưng nhiều lau lách.
Chiều, trời mưa lâm
thâm, bầu trời u ám và hơi lạnh. Chúng tôi nghỉ lại ở một ngôi
lều nhỏ bỏ không dọc đường. Mưa, vẫn mưa rả rích.Chúng tôi đốt lửa
cho ấm áp. Hãy ngủ đi, sáng mai dậy sớm để qua đò.
Nhưng cái chân đau
quấy nhiễu tôi dữ quá. Vết chông kín miệng nhưng bọng mủ phía
trong, nhức nhối. Chân phải lại mọc một cái nhọt lớn, nhói
buốt. Hai “báu vật” ấy hành làm tôi sốt nóng suốt đêm.
Ngày 21/8/1968
Dậy từ ba rưỡi
sáng. Vừa bước xuống đất, tôibỗng choáng váng. Mắt tối sầm lại, nổ
đom đóm. Mồ hôi toát ra lạnh ngắt. Ôi cái chân, cáichân hành quân của
tôi!
Thuyết xếp ba lô
hộ tôi và tôi phải ráng mang ba lô đi. Đường đọng những vũng
nước bẩnthỉu. Lau lách um tùm cản lối đi. Trời tối thui. Phải bấm đèn
pin dò từng bước. Đầu óc tôi choáng váng.
Muốn ngã gục xuống.
Gắng lên, gắng lên đi! Bươn qua quãng đường rậm rì lau lách,
chúng tôi tới bờ sông - bến đò Giằng đó. Ở đây lắmmuỗi mát quá. Thứ
muỗi mát nhỏ xíu đến nỗikhông nhìn thấy, rất tai ác, cứ chui vào
đầuđốt vào chân tóc, đốt vào cổ vào tai. Ngứa ran lên. Rậm rật
khó chịu. Mọi người phải lấy khăn mặt đập liên hồi để xua đuổi
chúng. Tiếngkhăn đập phần phật cùng với tiếng nói chuyện rì rầm lan
trên mặt nước mờ đục hơi sương, đang sáng dần lên theo ánh bình
minh, tạo thành bản nhạc toàn những nốt trầm huyền ảo. Không có một tiếng
chim hót.
Qua đò, chúng tôi
bước trên con đường mòn nhỏ xíu, lau lách phủ kín. Chúng tôi
tiến vào bãi sông. Bãi bằng phẳng, phủ một lớp cát trắng,
bên một dòng sông nước trong xanh, bên những bụi cây rù rì cành
mềm mại, duyên dáng.
Ăn cơm xong, tôi
thấy người chuyếnh choáng. Không muốn đi nữa. Anh em bảo tôi
dừng lại đây. Nghỉ ở đây ư? Giữa con đường lạ này. Tôi lưỡng lự.
Ở lại một mình liệu có vượt nổi sự yếu đuối không? Còn hôm nay
thôi sẽ đến cơ quan. Gắng lên đi!
Tôi tập tễnh đi
sau đoàn. Những con vắt quáiác cứ bu vào hai vết đau của tôi
mà hút máu. Máu, máu loang ra đỏ cả bàn chân, đỏ sẫm lại. Đầu
tôi choáng váng lắm rồi. Ngồi tạm xuống nghỉ một chút. Người
nóng bừng và chìm trong cơn mê sảng kinh khủng. Đầu óc quay
cuồng,lâng lâng như bay trong khoảng không vũ trụ. Cố gắng lắm, tôi
mới đứng dậy được và lại chuyệnh choạng bước đi. Ba lô nặng như
đá tảng. Lại ngồi bệt xuống bên đường, gục đầu vào hai đầu gối
mà thiếp lịm đi. Có gì cứ kêu ong ong hai bên tai, và lạ lùng
quá, có mộtmảng mầu vàng khè cứ xuyên thẳng qua đôi mắt nhắm nghiền
của tôi, phủ kín cả óc tôi. Tôimơ màng nghe có tiếng gọi:
“Này anh! Này anh!”.
Trước mắt tôi nhập nhòa hình ảnh một anh thanh niên Thượng đóng
khố, vác cây súng trường. Anh ta bảo: “Có gạo không? Đổi
thịt khô”. Tôi lắc đầu. “Cócơm không? Đổi cơm cũng được”, anh ta chỉ
vào túi ba lô tôi khẩn khoản. Tôi lại lắc đầu.Anh ta bỏ đi.
Tôi cũng xiêu vẹo bước theo.
Qua một bãi cỏ
tranh bằng phẳng, trống trải vàchói chang ánh nắng. Phải đi nhanh
qua. Lũ Moranh (máy bay trinh sát) có thể đến bất ngờ, thấy anh,
nó sẽ sà xuống bắn hoặc gọi pháo bắn tới cấp tập. Vượt khỏi bãi
tranh lại chui vào một khu rừng thưa. Chúng tôi dừng lại ăn
cơm trưa. Hoài lấy ít gạo đổi đưọc ít thịt nai khô. Đi với anh,
chúng tôi - những lính mới- thấy yên tâm. Quê vùng Trị Thiên -
Huế, vào đây trước chúng tôi mấy năm, Hoài rất chuđáo với chúng tôi.
Với giọng nói nhẹ nhàng vàấm áp, anh hỏi han chúng tôi về chuyện
hànhquân, chia xẻ với chúng tôi phần ăn của mình.
Chúng tôi nhen lửa
kho thịt. Kể cũng liều mộtchút. Máy bay có thể phát hiện ra khói.
Cơm có thịt, song
miệng tôi đắng ngắt, ăn thấynhạt nhẽo vô cùng. Lần đầu tiên tôi không
ănhết phần của mình.
Lại đi. Gắng lên,
gắng lên, còn vài giờ nữa thôi sẽ tới nhà.
Chúng tôi tách khỏi
đường 13, rẽ ngoặt về bêntrái, lội qua một con suối, vượt một bãi trống.Cây
cối ở đây xơ xác, úa vàng vì chất độc hóa học. Có vài cây đót
cao vót, phơi ra những tầu lá khô queo, in bóng đen sẫm trên nền
trời xanh.
Đường men theo bờ
sông, trườn lên những vách đá hóc hiểm.
Phải níu lấy dây
mây, cây cối hai bên đườngmà leo lên, tụt xuống.
Bãi lội đã hiện
ra trước mắt tôi. Con sôngThanh gập gềnh những đá, nước chảy ào ào,
bỗng trở nên hiền hòa khi chảy qua khúc sông bằng phẳng, toàn
cát vàng. Tôi lội qua dòng nước mát lạnh, thấy tỉnh táo lại đôi
chút. Anh em mang dâu da đưa tôi ăn. Những quả dâu da đỏ chót,
ngòn ngọt, chua chua thật hấp dẫn.
Lội ngược theo một
suối con, chúng tôi rẽ vàocơ quan. Cơ quan đó, với những ngôi nhà
lásơ sài, không có giường, chỉ có mấy chiếc bànghép bằng thân cây.
Anh em xúm đến chào đón chúng tôi rồi đưa chúng tôi vào một căn
nhà trống trải - nhà Văn phòng đây, chúng tôi nghỉ ngơi tại đó.
Tôi căng võng nằm
và thiếp đi trong cái đaunhức nhối nơi hai bàn chân.