Thứ Bảy, tháng 6 21

Bê Trọc ( Phạm việt Long ) 2

Ở CĂN CỨ
Từ 25/8/1968
Chân đau khiến tôi phải nằm suốt. Thật là phiền phức. Cô Nga - y tá - rất tận tình chữa vết thương cho tôi. Ngày nào cũng vậy, cứbuổi chiều là cô mang nước nóng đến rửa vếtchông và cái nhọt rồi bôi thuốc đỏ vào. Quamấy ngày, miệng vết chông khép kín lại và bọng mủ ở trong, nhức nhối. Cái nhọt cũng căng mủ. Nga nặn ra toàn máu đen và mủ. Sau đó, cô lấy panh cặp bông và thọc nó vào tận trong lòng vết thương để kéo máu mủ ra. Miệng vết chông đã liền thịt nên phải lấy panh chọc ra rồi luồn bông có tẩm thuốc vào.
Ngày nào tôi cũng phải chịu cái đau và ghêrợn kinh khủng khi rửa vết thương. Chiếc panh ngoáy vào lòng vết thương như bào từng thớ thịt tôi ra. Tôi cắn răng chịu đựng để khỏi phải la lên, để cô y tá yên tâm làm việc. Rồi tôi được tiêm hai lọ Pê-nê-xi-lin. Công hiệu lắm, vết thương dịu dần.
Cơ quan đang gặp khó khăn về lương thực. Anh em chạy nháo nhào đến các làng đổi bắp về. Ngày đầu chúng tôi được ăn ba bữa cơm. Sau đó xuống còn hai bữa: sáng 9 giờ ăn bắp,chiều 4 giờ ăn cơm.
Từ ngày 29 / 8, tôi bắt tay vào việc: soạn những bản tin khai thác từ những bức điệnbáo cáo và những tài liệu, bài vở từ các địa phương gửi về. Tôi ngỡ ngàng với phương thức làm việc này.
Ngày 2/9/1968
Chúng tôi đón ngày tết Độc lập tại cơ quan.Anh em đi đánh cá về làm một bữa liên hoan rôm rả. Chiều, sau khi nghe bài diễn văn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng tôi ngồi bàn luận về cuộc kháng chiến thần kỳ của dân tộc, củng cố thêm quyết tâm chiến đấu và chiến thắng.
Ngày 18/9/1968
Tôi đi A7 cõng gạo. Ở đây, cõng gạo về ăn là nghĩa vụ của mỗi người. Mỗi tháng cần đi cõng gạo ít nhất một lần.
Lại qua bến đò Giằng. Trời bỗng ập mưa rào.Rồi phút chốc nước lũ kéo về ầm ầm. Dòngsông bỗng trải rộng ra, nước đỏ ngầu, chảy điên cuồng, tung lên những con sóng bạc. Đò không thể qua sông được. Chúng tôi lùi về một dải cát, căng tăng mắc võng nghỉ.
Nhưng tai ác thay, vừa ăn cơm xong thì nướctự nhiên tràn đến, dâng cao dần. Lúc đầu, nước chỉ sâm sấp bàn chân. Phút chốc, nước đã lên tới đầu gối, lạnh ngắt. Chúng tôi cuống cuồng thu đồ đạc, kéo lên một dông cao. Rồi mò mẫm phát cây, kiến thiết chỗ ở. Ướt nhớp nháp. Rét run cầm cập. Vắt được dịp bò đến hút máu chúng tôi.
Sáng 19/9
Chúng tôi qua đò. Tôi gặp lại Xuân Quý, ngườicùng tập trung ở Hòa Bình với chúng tôi, đãrời miền Bắc trước chúng tôi ít ngày và hiện ở tiểu ban Văn nghệ, cùng công tác viết văn với chồng là Bùi Minh Quốc - tức Dương HươngLy. Xuân Quý đi cõng gạo về và đêm qua phải ngồi suốt bên bến đò, dưới trời mưa tầm tã.
Đi qua rừng loòng boong. Cây loòng boong từa tựa như cây hồng bì, có những chùm quả vàng, tròn căng. Quả loòng boong có 4 múi như quả hồng bì, song ngọt lịm và thơm lạ. Ở một múi, có một vết hằn, giống như vết bấm của móng tay. Loòng boong là đặc sản của miền Tây Quảng Đà này. Chúng tôi hái loòng boong ăn thỏa thuê. Rừng núi cũng tình nghĩalắm chứ.
Ngày 20/9
Tôi cõng 90 lon muối ra về. Chán quá, đểquên chiếc mũ trong gùi, lún sâu dưới muối, nên không lấy ra được. Nắng xiên vào gáy nhức nhối.
Ngày 21/9
Tôi mang muối vào làng đồng bào Thượng để đổi bắp cho cơ quan - cứ một lon muối ăn ba lon bắp. Làng này khá sạch sẽ. Trẻ em được học chữ dân tộc mình và hay hát những bài hát cách mạng.
Tôi thấy người ngây ngấy sốt. Có lẽ cảm nắng.
Ngày 23/9
Tôi cõng hơn 100 lon bắp về. Bến lội củachúng tôi trở nên sâu và nước chảy xiết vìmưa lũ. Tôi phải vác gùi bắp lên vai, chốnggậy lội qua sông. Nước sâu tới ngực, chỉ chựcquật ngã tôi. Hãy cẩn thận. Nhiều người đã chết vì cách vượt sông nguyên thủy này.
Ngày 24/9
Tôi đã bị vi trùng sốt rét tấn công. Đây là trận sốt rét đầu tiên mà tôi phải chịu. Đầu đau như búa bổ. Các khớp xương nhức nhối.
Bụng anh ách, lúc nào cũng thấy no một cáchkhó chịu. Uống ký ninh vào, tai bùng lên, bùnglên bùng bục. Mắt cảm thấy bị chói nắng, không nhìn rõ gì cả. Miệng đắng ngắt, không muốn ăn uống.
Cố gắng ăn tý cháo, song nuốt không nổi, cổhọng ghê lợm cứ bắt nôn mửa. Đêm, mắt chong đèn không sao ngủ được. Đầu cứ buốt thon thót.
Tới chín, mười ngày sau tôi mới khỏi sốt. Dậyđi lại thấy chân nặng trịch, người lảo đảo muốn ngã. Phạm Hồng động viên tôi: Ai ở Trường Sơn mà chẳng bị sốt rét nghĩa vụ, rồi sẽ quen đi và sẽ thấy bình thường!
Bây giờ là mùa mưa rồi. Những trận mưa ràoxối xả và kéo dài khiến các con suối trở nên dữ tợn, khiến những dòng sông tràn đầy nước, chảy ào ào, cuốn những cây gỗ trôi băng băng.
Chính trong mùa mưa dữ dội này, chúng tôi được lệnh chuyển xuống A7. Anh Hồng bảo tôi rằng ở căn cứ, di chuyển cơ quan là chuyện thường. Ở đâu lâu nhất là 3 tháng, có nơi chỉ một tháng, vì ở lâu dễ bị địch phát hiện, chomáy bay B.52 dội bom hoặc đổ quân tấn công.Chuyến đi đầy vất vả và đã gây tổn thất cho chúng tôi:
Điều đã bị chết, chết một cách vô lý. Mấy hôm trước đó Điều sốt rét.
Anh sang ở với tôi cho gần y tá để tiện tiêm thuốc. Sau đó anh khỏi nhưng sức vẫn yếu và phải hành quân. Tới dòng suối lớn chảy xuôi về A7, Điều tụt lại đi sau. Và điều không ngờ đã xảy đến: anh ngã ngửa, ngồi dựa vào ba lô, ngâm mình trong nước suối mà chết. Sớm hôm sau San, Thành... mang cuốc xẻng ra chôn Điều. Tôi cũng muốn ra tiễn đưa Điều, song công việc bận quá, không bỏ đi được.
Tôi bùi ngùi nhớ tới Điều, nhớ tới những câuchuyện tiếu lâm của Anh; Nhớ tới tài uốn lưỡicâu, cắt tóc của Anh; Nhớ tới những điều tâmsự của anh về gia đình; Nhớ tới lời hẹn của anh: ngày thống nhất về Nghệ An quê hươngAnh, Anh sẽ cho ăn cá thỏa thích. Anh đi ngày 30 / 4 và chết ngày 28 / 10 / 1968. Cũng trong chuyến đi này, một đồng chí ở Ban An ninh không may xảy chân ngã xuống cầu, lập tức dòng nước sông Thanh hung dữ cuốn anh đi, nhận chìm anh dưới thác nước khủng khiếp.
Công việc vẫn tiếp diễn. Chúng tôi chặt cây dựng nhà, đào hầm hố và làm chuyên môn. Những trận sốt rét từ nay đã điểm nhịp vào cuộc sống của tôi, ít ra mỗi tháng một lần.
Từ trung tuần tháng 11-1968, cơ quan hai lần lâm vào cảnh bế tắc về lương thực. Gạo gần hết rồi mà không sao moi được ở đồng bằng lên. Hồi này, địch buộc phải ngừng đánh phá miền Bắc nên chúng đánh phá miền Nam điên cuồng hơn. Phi pháo, B57, B52 thi nhauhoành hành. Ở Sơn Phúc, Lộc Thành, chúng càn quét liên tục, bịt mất đường lấy gạo của chúng tôi. Mức ăn phải giảm xuống, từ 2 lon xuống 1 lon rưỡi, rồi 1 lon một ngày. Anh em thi nhau xuống núi kiếm rau rừng, củ nưa về ăn cho đỡ đói lòng. Vùng này quá lạnh. Sương mù bao phủ suốt ngày. Cái rét và đói hành hạchúng tôi. Đêm, chúng tôi phải đốt lửa cho ấm.Nhìn lửa than, chỉ ước có củ sắn mà nướng.
Ngày 21/11/1968
Tôi và Hồng xuống Quảng Đà lấy một số đồđạc gửi đoàn Trọng Quyền mang vào. Tại đây, tôi được sống trong bầu không khí ấm cúng, vui nhộn của một tổ phóng viên, giống như khi sống ở Sơn La vậy. Hoàng Mẫn vẫn béo tròn và say mê in, phóng ảnh bằng ánh sáng mặt trời. Đinh Trọng Quyền vẫn sôi nổi và cởi mở. Trần Mai Hạnh, Thế Trung vẫn vui nhộn, hoạt bát và vẫn có những câu chuyện sinh động về các cô gái. Chỉ có Trần Biên - điện báo viên - là dao động, sợ chết, nay đã ra Bắc rồi. TrọngĐịnh đã hy sinh hồi cuối tháng 8 vì bị pháo trên đường công tác.
Nghỉ một ngày, sáng hôm sau tôi và Hồng rủnhau xuống Sơn Phúc mua một ít hàng. Chúng tôi chỉ có trách nhiệm xuống Quảng Đà. Song muốn thấy đồng bằng một chút nên liều đi. Đường xuống dần, trườn qua những đồi lúpxúp, cây cối thưa thớt. Qua một quãng rừng, tôi thấy có mấy hố bom lớn do B57 thả. Câycối tơi tả.
Bên đường có những mảnh quần áo rách và ởmột vài đám đất có nhặng bu đến - từ đó mùi hôi thối xông ra nồng nặc. Chắc có anh nào xấu số bị bom xé vụn ra. Chúng tôi tiến gần vùng ranh. Có những người mang hàng đi ngược chiều với chúng tôi. Họ cho biết tìnhhình rất căng. Bọn biệt kích ở núi Chóp Nónluôn kiểm soát con đường vượt ranh. Hễ phát hiện người là chúng bắn cối đến hoặc gọi pháo nã tới. Do vậy phải vượt ranh vào sáng tinh mơ hoặc sẩm tối. Chúng tôi định tranh thủ vượt ranh buổi trưa, tối đó mua hàng và sáng sau về sớm. Ai cũng ngăn chúng tôi: chớ nên liều lĩnh. Tôi và Hồng bàn cãi mãi: đi hay không đi. Một mặt mong được thấy đồng bằng, một mặt sợ xảy ra chuyện gì sẽ bị kỷ luật. Vừa bàn cãi vừa đi xuống. Sắp tới con đường dưới chân núi Chóp rồi. Đường vắng ngắt, không một bóng người, chỉ có những hố bom, những thân cây đổ ngổn ngang. Tôi bỗng nghe haitràng súng máy nổ ròn.
Ai bắn đấy? Hồng bảo hình như du kích bắnmáy bay. Một lúc sau, tôi thấy một cậu bộ đội trạc 18-19 tuổi tay xách dép hớt hải chạy tới. Cậu ta cho biết mình vượt ranh, bị bọn biệt kích phát hiện.
Chúng không nã cối mà bắn đạn thẳng tới. May mà không trúng.
Tôi và Hồng dừng lại bàn bạc: thôi, quay lênthôi kẻo chết uổng mạng, lại bị kỷ luật. Nếu là đi công tác thì dù ác liệt đến mấy cũng phải vượt qua, đằng này lại tự ý đi...
Chúng tôi quay lại, xa dần gò Đu. Tại đó có hai xác bộ đội nghĩa vụ bị biệt kích bắn chết cách đây đã lâu. Không ai chôn cả, giờ đây hai xác chỉ còn là hai bộ xương, lồng trong hai bộ quân phục mục nát.
Cuối tháng 12, địch điên cuồng mở cuộc càn lên nơi Khu đóng quân. Một thằng phản bội đã tiết lộ mọi điều bí mật. Thế là ngày đêm địchcho máy bay B52, B57 trút bom xuống các khurừng khả nghi, nhưng chẳng trúng ai cả. Pháo cũng bắn ì oành suốt đêm.
Tình hình căng, chúng tôi phải ngủ hầm. Có hôm nằm trên nhà, chúng tôi bỗng nghe tiếng rít xoáy vào không khí. Bom B57! Mọi người nhào xuống hầm. Tôi đang nằm trên võng,người quấn tròn trong màn, bọc võng, vậy mà cũng bật tới hầm từ lúc nào, không vướng víu gì cả. Bản năng sinh tồn của con người có mộtsức mạnh kỳ diệu thật.
Địch đổ quân ở A7 - giữa nơi cơ quan tỉnh Quảng Đà đóng.
Chúng dò dẫm mò theo đường, đã lên tới câygỗ vuông, rồi tới suối Nước Lớn, nghĩa là chúng chỉ còn cách chúng tôi vài tiếng đồng hồ.
Song chúng bị ta chặn đánh ở đó, diệt một số, nên chưa tiến thêm được bước nào.
Tiểu ban Văn nghệ mở cuộc họp tại Ban. BùiMinh Quốc và Xuân Quý đến nhà tôi. Chúng tôi chuyện trò về văn học, nhạc hát rất sôi nổi.Xuân Quý sắp đi công tác Quảng Đà, đang bận rộn chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Chúng tôi chuyện trò trong cái giá lạnh và trong cái đói quặn thắt lòng. Quốc sang Quân khu, lúc về được Thu Bồn cho ít gạo. Buổi tối, chúng tôi nấu cháo “liên hoan”: 1 lon gạo, 4 người. Cháo loãng có mì chính và muối, cộng thêm ít dầu xà lách, mà thấy ngọt ngào, bùi béo tợn. Chúng tôi xì xụp húp. Quốc nói rằng chưa bao giờ được ăn cháo ngon như vậy.
Gạo gần cạn kho rồi. Cái đói vẫn tấn côngđiên cuồng vào chúng tôi. Song, mọi người vẫn vững vàng, không một lời ca thán.
Chính trong lúc này, tôi bận rộn nhất: tuyên truyền cho thắng lợi của miền Bắc ruột thịt đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, tuyên truyền cho ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng 20 -12. Tài liệu rất nhiều. Chúng tôi say mê làm tin cả ngày lẫn đêm. Và cuộc sống của cơ quan vẫn vui tươi, lạc quan. Nơi ở được tổng vệ sinh thêm quang đãng. Nhà ăn được sửa sang lại với những dãy bàn, ghế ngay ngắn. Thanh niên chúng tôi sángvẫn tập thể dục đều đặn, vẫn viết báo tường,chỉ tiếc là không được ca hát vì gần địch quá, sợ chúng nghe thấy. Thay vào đó là nhữngcâu chuyện vui. Chẳng hạn, anh Trần Phát, còn gọi là Sáu Phát vì anh là con thứ sáu, đilạc, bí quá bèn bắn súng làm hiệu, mọi ngườitưởng địch đột kích... Thế là có mấy câu nhắcnhẹ anh:
Anh Trần Phát
Một hôm anh đi lạc
Anh rút súng bắn sáu phát
Khiến mọi người ngơ ngác
Đổ ra rừng nhao nhác
Ồ, hóa ra anh Sáu Phát
Một hôm anh đi lạc...
Thứ “thơ xà quần” - đọc vòng tròn, không baogiờ hết - kiểu này, ai cũng thích.
Hôm qua họp cơ quan, anh quản lý tuyên bốbắt đầu ăn một lon gạo một ngày và Ban quyết định đưa một đoàn vào A5 - cơ sở sản xuất ở hậu cứ - lấy gạo về cứu đói. Sáng ngày 18-12, đoàn chúng tôi ra đi. Mưa rả rích. Đường trơn tuồn tuột. Song phải đi thật khẩn trương, đi như chạy vậy. Tới nơi, chúng tôi khẩn trương giã gạo và vẫn ăn một lon gạo một ngày, song có sắn ghế nên vẫn no. Sắn ở đây bị chất độchóa học nên lụi hết, củ sượng như củ chuối và phải đào vất vả lắm. Ở đây, bọn Mỹ rải chất độc dữ quá. Từng cánh rừng bị trụi lá, phủ đầy một màu xám hoặc màu nâu vàng úa. Đứng trên núi cao nhìn xuống, thấy rừng cây xơ xác mà đau lòng quá. Có những rừng quế rất quý cũng bị tàn lụi cả, thật tiếc đứt ruột.
THƯ GỬI GIA ĐÌNH
Quảng Đà, ngày 26/11/1968.
Bố mẹ và các em yêu quý!
Không hiểu những thư trước con gửi về, gia đình có nhận được không mà vừa rồi cơ quan con điện vào hỏi chúng con đã đến nơi chưa? Con gửi lá thư đầu ở trong này vào cuối tháng8. Lẽ ra ngoài đó phải nhận được rồi mới phải chứ! Con rất sốt ruột và rất mong thư gia đình nên hễ có ai ra là con tranh thủ viết thư ngay.
Hiện con vẫn khỏe và công tác bình thường. Dạo này con đã quen với sốt rét nên không bịtrận nào nặng, chỉ thỉnh thoảng sốt 2,3 ngày rồi lại khỏi ngay thôi, khỏi thì lại khoẻ, lại làmviệc ngay được. Đặc biệt con ăn khỏe lắm, cóbao nhiêu cũng hết, nên luôn thấy đói.
Còn tình hình gia đình thế nào? Có gì bố nhờ bác Đào Tùng, anh Đỗ Phượng điện vào báotin cho con mừng. Nhưng điện vào chỗ anh Quyền, tổ phóng viên Quảng Đà, chứ không phải điện thẳng tới chỗ con đâu, từ đó các anh ấy sẽ nhắn lên cho con. Bố mẹ cũng nhớ đến số 47 Bát Đàn - Hà Nội tìm anh Trần Tô (mới ở Miền Trung Trung Bộ, chỗ anh Đống, ra) để gửi thư vào cho con. Hồi ra đi, con có gửi về nhà thẻ phóng viên của con, vào đây con thấy cần dùng, vậy bố mang đến anh Tô, nhờ anh ấy mang vào cho con nhé. Cái thẻ này chỉ gửi người trực tiếp mang vào thôi, không gửi theo bưu điện được.
Do cần khai lý lịch, con cần rõ quá trình hoạt động cách mạng của bố từ trước đến nay. Bố tìm cách gửi người mang vào cho con với.
Các em dạo này có khỏe không, học tập giỏikhông? Anh rất nhớ các em. Các em phải viếtthư ngay cho anh nhé.
Thôi, con vội viết vài dòng. Chúc bố mẹ, cácem khỏe mạnh.
Cho con gửi lời thăm cô chú trong cơ quan.
Con của gia đình
Việt Long
Hòm thư 3.105 Vinh Quang
TB:
Nếu gửi theo bưu điện thì mang đến cơ quancon hoặc Ban Thống nhất Trung ương nhờ chuyển.
THƯ GIA ĐÌNH
Hà Bắc ngày 8/12/1968
Long thân mến của mẹ.
Từ ngày con đi đến nay bố mẹ và các em mong tin con đỏ cả mắt, lần nào mẹ về Hà Nội cũng đến chỗ chị Sáu hỏi tin con mãi đến cách đây độ 2 tháng chị Sáu mới cho biết tin là con đã vào đến nơi an toàn rồi mẹ đỡ sốt ruột một ít.
Mẹ nói chuyện cái xe đạp cho con nghe, saukhi con đi thì cô Chung ngày nào cũng đến hỏi xe đạp mà vẫn không thấy về, sau cách đến 3 tháng anh Phối mới đem về cho và xe như thế là hỏng hết, lốp săm dính vào nhau vì bùn, xích bị rỉ không đi được, gác đờ xen không có, bê đan không có, còn gác đờ bu thì lại để ở một chỗ khác, mẹ phải đến lấy sau, nói chung là cái xe chỉ còn được mỗi cái khung thôi. Về mẹ phải sửa mất gần 2 chục mới đi tạm được và lốp bây giờ thì cứ đứt hết tanh, nhưng thôi con ạ, mẹ tính anh Phối đem hộ về như thế là cố gắng lắm rồi, mẹ chỉ tiếc là cái xe mới có hơn một năm mà nó hỏng quá sức tưởng tượng. Hôm ấy mẹ có gặp anh Phối và anh Phối nói là anh đổi vào Thanh hóa mà xe của anh Phối cũng chưa đem về được mà anh Phối phải đem xe về cho gia đình mình để con được yên trí và anh Phối cũng khoe mẹ về vấn đề vào Đảng của con. Anh Phối có cho mẹ xem cái giấy của chi bộ trên ấy nhận xét vềcon và có báo cho tổ chức để gửi vào cho con chả biết có nhận được không, anh Phối có nói là kết hợp với thời gian thử thách con đi ngoài này vào trong ấy tốt thì sẽ có triển vọng kết nạp.
Khi con đi thì cô Chung có gửi lên cho mẹ 30đ và cái bút máy nắp vàng của con rồi, và tất cả đồ dùng con gửi về mẹ nhận đủ rồi. Bố mẹ và cả gia đình rất thương con về bước trưởngthành của con quá vất vả nhưng mẹ nghĩ đấycũng là sự yêu cầu của con và cũng hợp với thanh niên thời đại này. Bố con về nhà lúc nào cũng nhớ đến con và cứ nhắc đến con luôn, mẹ thì hàng ngày nhìn lên ảnh con mà không sao cầm được nước mắt, mẹ nhớ bồn chồn cả người vì trước con còn ở Sơn La, tuy xa nhưng còn có hy vọng con được về chơi hay nghỉ phép, nhưng bây giờ thì không biết là thời gian nào mới gặp lại con được. Hôm bố mẹ mới đi Hà Nội về thì nhận được thư của con vào đầu tháng 12, cả nhà mừng quá, khi đọc thư con các em con và bố xúm quanh lại nghe thư. Mẹ đọc, mẹ không sao đọc được vì quá xúc động và thương con quá nhất là em Thủy và Lan nó cứ ngó mặt mẹ, nhưng dù sao bốmẹ và các em con cũng mừng là con đã vượt được chặng đường nguy hiểm và đã vào đếnnơi an toàn thế là cả nhà mừng rồi, còn việc ở trong ấy ra thế nào thì đấy là số phận may rủi thôi con ạ. Ở nhà thì mẹ lo cho con lắm lắm, còn các em con ở nhà học vẫn tốt, em Ngọc được khen là học sinh toàn diện, vừa được bình cho mua cái xe đạp Liên Xô con, mẹ mua cho em và hiện nay tạm để cho Việt đi còn xe của con thì để cho Phúc dùng, để em học thêm văn hóa sang năm thì em Ngọc cũng phải đi học xa rồi, còn anh Đức con thì vừa rồigửi cho bố cái đài lại không đủ giấy tờ, thành ra họ lại phải giữ lại và trả lại anh thế có chán không?
Trên nhà cụ bà, cậu Hiến vẫn bình thường, cậu Hiến mới về công tác qua Hà Nội mẹ cũnggặp. Hồi này ngoài này tạm yên ổn do đótrường mình có mấy trăm học sinh học ngắn hạn được về trường Mễ Trì học, còn trường thì vẫn ở khu sơ tán, bố mẹ cũng vẫn ở sơtán. Về phần con ở trong ấy hết sức giữ gìn sức khỏe và nhất nhất con làm gì hoặc đi đâu là phải hết sức thận trọng. Cẩn thận đấy con ạ, mẹ lo cho con lắm đấy.
Con cố gắng năng viết thư cho nhà đỡ sốtruột, như thế là thư con gửi hơn 3 tháng là nhanh đấy con ạ, chỉ cần con viết ít chữ thôi cũng đủ rồi, còn việc con đi thì mẹ có hỏi chị Sáu về vấn đề quyền lợi của gia đình nhưng chị Sáu bảo chả có gì cả vì con chưa có gia đình riêng, và chỉ có mỗi cái thẻ để đi khám bệnh thôi.
Thôi mẹ muốn viết rất nhiều nhưng sợ thư nặng quá còn để bố và các em viết nữa. Cuốithư mẹ chúc con khỏe mạnh, tiến bộ để ngàythống nhất gia đình được đoàn tụ vui vẻ.
Mẹ của con.
T107.BC13/9 - 8/12/1968
Con yêu dấu của bố mẹ!
Bố đã nhận được lá thư đầu tiên con gửi từ địa điểm công tác mới. Mẹ đọc thư, bố và các em chăm chú ngồi nghe, mừng mừng, thươngthương, mừng vì con đã vượt mọi khó khăn, nguy hiểm, thương con nhiều lắm. Chuyện nhà mẹ đã nói rồi. Nói chung bình yên, khỏe mạnh. Các em đều học tốt cả. Ngoài này từ khi giặc Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc, mọi người ra sức làm việc, đẩy mạnh công tác các mặt, đồng thời không ngừng nâng cao cảnhgiác.
Tình cảm đối với miền Nam càng thắm thiết con ạ! Có con hoạt động bên trong, cả gia đình thấy thắm thiết tình cảm Bắc Nam ruột thịt, có thể nói không ngày nào gia đình không nghĩ tới miền Nam, tới đứa con yêu dấu đang sống và chiến đấu trong sự chăm sóc nuôi dưỡng của đồng bào miền Nam. Mong con ra sức phấn đấu, đạt nhiều kết quả trong côngtác, xứng đáng là thanh niên của thế hệ HồChí Minh. Con hết sức chú ý tu dưỡng vươnlên Đảng.
Hoàn cảnh chiến đấu trong đó là điều kiện khách quan thuận lợi để con phấn đấu tốt. Đồng thời con hết sức chú ý giữ gìn sức khoẻ. Mỗi lần nhớ con, bố lại đem ảnh con ra xem,nhớ lại hồi con còn bé. Con là đứa con yêu quý nhất của bố trong các đứa con yêu dấu của gia đình. Bố yêu con, thương con, nhớcon nhiều lắm. Bố mong thư con, mong con khỏe mạnh, mong được tin con phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng. Bố, mẹ ở nhà ra sức công tác với tinh thần “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Tin thắng trận dồn dập làm nức lòng mọi người. Mong con góp phần xứng đáng cho thắng lợi đó.
Mong đến ngày thống nhất gặp con, đứa con yêu quý đã được tôi luyện trong khói lửa.
Bố của con.
Ngày 25/12/1968
Đúng Noel, bọn tôi nghỉ ngơi để hôm sau kéoquân về. Chiều đó, anh em kiếm được một congà, ít nếp làm bữa liên hoan nhỏ. Tôi nhớ lại cách đây đúng một năm, tôi đến thăm Phúc,đứa em trai kề tôi. Những ngày ấy thật ấmcúng. Hai anh em chụp ảnh, phóng ảnh và đibắn chim rất say mê. Tôi cũng nhớ đến côChung - em ruột mẹ tôi. Gian phòng của Cônhỏ bé, lúc nào cũng tràn ngập ánh sáng vàrất ấm cúng. Trước lúc ra đi, tôi thường đếnnhà Cô và được Cô hết sức chiều chuộng. Những bữa ăn, Cô dọn cho tôi những món tôi ưa thích nhất: bánh mì nóng hổi, ròn tan, bơ, pa tê, rau xà lách trộn dấm... Cô đùm bọc tôivới tình thương yêu của người mẹ. Hôm tiễn tôi đi lên trại 105 tập trung, Cô khóc, làm tôi vô cùng xúc động. Tôi nhớ người mẹ hiền hậu,người cha nghiêm nghị, lũ em ngoan ngoãn của tôi. Trong lá thư viết cho tôi, cha tôi đã viếtlên những lời đầy tình cảm, chan chứa yêu thương. Ông yêu quý tôi nhất nhà, song không hay biểu lộ tình cảm đó và đối với tôi rất nghiêm khắc. Giờ đây khi xa tôi, khi tôi đã mạnh bạo bước vào đời, Ông mới nói rõ tình cảm đó. Ông ước mong gặp tôi một lần nữa trước khi tôi đi B, song lúc đó gia đình tôi sơ tán tận Hà Bắc, tôi tập trung tại Hòa Bình, không thể về thăm, nên Ông không được gặptôi. Ông kể lại:
Khi tôi ra đi, đêm đến gia đình không ai ngủ được. Mẹ tôi nói: “Thôi từ nay đứa con duy nhất biết chăm lo việc gia đình đã đi xa”. Ngọc, đứa en gái thứ 5 nói: “Từ nhỏ anh Long đã dũng cảm rồi...”. Diệp, đứa em gái thứ sáu nói: “Anh Long học giỏi và rất giỏi văn, Diệp cũng muốn học theo anh”. Bé Lan, đứa em gái thứ 7 nói: “Lan rất thích hát cho anh nghe và thích anh dạy hát cho”. Còn bé út Thủy thì bảo: “Anh Long đúng là anh của Thuỷ, anh chụp cho Thủy nhiều ảnh rất đẹp”. Tôi hình dung rõ mồn một từng đứa em của tôi, đứa nào cũng rất đáng yêu. Phúc có tài câu cá, bắt ếch... và chỉ thích rèn rũa những con dao, cái nhẫn... Cậu ta đã trở thành công nhân nguội. Phúc lầm lỳ ít nói song đối với anh rất tận tình. Cậu ta biểu hiện bằng tình cảm chứ không biểu hiện bằng lời nói. Việt đang học lớp 10, học văn khá và rất thích đi làm công tác như tôi.
Ngọc cũng lầm lỳ, hiền như cục đất và rấtchăm việc gia đình, học giỏi và ngoan ngoãn. Ngọc làm bánh bao rất khéo, hôm tôi về nhà được ăn bữa bánh bao do chính tay Ngọc làm, rất ngon. Diệp mảnh khảnh, nhí nhảnh, hay múa hát. Diệp bộc lộ những cá tính rất độc đáo và tỏ ra có năng khiếu về văn. Tôi thường mong muốn được kèm cặp Diệp, hướng nó đi vào sâu con đường văn học. Lan béo tròn, mắt đen láy, tính tình lỳ sì, nhưng rất hay hát và hát rất hay, rất đúng nhạc. Lan thường ngồi hát cho tôi nghe suốt buổi theo “Yêu cầu của thính giả”. Lan có đức tính rất đáng yêu là biết chăm sóc bé Thủy một cách tận tình. Lan thường dẫn Thủy đi học và có khi Thủy dỗi không đi thì Lan dỗ dành rất ngon ngọt và kiên trì.
Còn cô út Thủy thì rất nũng nịu, hay hờn dỗi và đã biểu hiện tính cẩn thận. Tôi nhớ có lần tôi mở cửa tủ và quên không đóng lại, Thủy im lặng đến và nhẹ nhàng đóng lại rất cẩn thận. Lũ em mỗi khi thấy tôi về là chạy ùa ra đón,níu lấy tôi và Thủy bao giờ cũng dang tay ra đòi anh bế. Có những ngày chủ nhật, anh em quây quần bên nhau đàn hát rất vui vẻ. Tôi nhớ cha mẹ tôi rất hòa thuận và chăm sóc tôi rất chu đáo. Hồi công tác ở Hải Dương, chủ nhật tôi thường hay về nhà. Lần nào mẹ tôi cũng mua gà, vịt, gạo nếp... để bồi dưỡng cho tôi. Có thời gian tôi bận quá không về nhà được, bố mẹ tôi trông mong hoài. Con ngan mẹ tôi mua để chủ nhật liên hoan cứ được để dành suốt mấy tuần lễ. Khi tôi về, con ngan đã nặng thêm 4 -5 lạng, lúc ấy mẹ tôi mới thịt nó.Gia đình tôi sinh hoạt ấm cúng, hòa thuận vàđược bà con rất quý mến. Tôi nhớ bà ngoại,bà trẻ tôi đã từng tần tảo nuôi anh em chúng tôi từ nhỏ để cha tôi yên tâm đi kháng chiến. Hai bà luôn luôn sống vất vả, nghèo nàn, lận đận, song chăm sóc con cháu rất chu đáo với tình cảm đằm thắm. Tôi quặn thắt lòng nghĩ đến Cụ ngoại đã quá cố. Người lúc nào cũng vất vả. Có lần giã giò để bán nuôi chúng tôi, Cụ bị giã phải tay. Bàn tay Người dập nát, đẫm máu, song Người không hề kêu rên. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh cụ tôi người bé nhỏ, đội thúng bánh dày, giò chả ngược xuôi trên con đường Dốc Đỏ, Miếu cô, chợ Tam Cờ ởTuyên Quang để bán lấy tiền nuôi bọn tôi. Tôithường lon ton chạy theo Người trong những buổi chạy chợ đó. Tôi nhớ cô Tuyết tôi tính tình hiền lành, hay làm và không may bị giặc Mỹ sát hại. Gia đình bên ngoại tôi rất nghèo, song sống đùm bọc nhau và rất giàu lòng thương người. Anh em bộ đội đi ngang đường ghé nghỉ nhờ hoặc ở chiến khu với cha tôi về đều được săn sóc rất chu đáo.
Điều đặc biệt trong họ hàng nhà tôi bên ngoạilà rất nghèo nhưng rất gắn bó với bố mẹ tôi, với chúng tôi. Còn bên nội (trừ bà và ông nội tôi quá cố từ lâu) thì giàu có hơn song hơi xa chúng tôi. Gia đình bên ngoại tôi đều sống ở vùng tự do, tham gia kháng chiến, còn họ hàng bên nội phần lớn sống ở vùng địch kiểm soát, buôn bán để sinh sống.
Sáng 26/12/1968
Chúng tôi ra về, trên lưng mỗi người nặng mộtbao gạo. Tối hôm sau bọn tôi ghé vào một đơn vị bộ đội nghỉ nhờ. Ở đây cũng thiếu gạo, anh em ăn toàn sắn. Có một anh bộ đội trẻ bị phù phổi, thở phì phò và sẩm tối đó thì tắt thở.Chúng tôi nằm gần nơi để xác anh, thấy lạnhngắt. Người đồng chí ơi, anh quê ở đâu? Hẳncũng có một gia đình ấm cúng ở hậu phươngđang ngóng chờ anh! Đau lòng quá! Song làm sao khác được, cuộc kháng chiến này ác liệt quá, gian khổ quá, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh mọi quyền lợi cá nhân, kể cả sự sống của bản thân mình.
Chuyến đi đầy vất vả. Lúc này địch đổ biệtkích lung tung và cho máy bay bám riết hànhlang của ta. Do vậy phải đi rất khẩn trương.Chạy, chạy và chạy: Chạy qua bãi trống. Chạy vượt đường xe. Chạy vượt những khu rừng tan hoang vì bom B52, trơ trụi vì hóa chất độc. Lội qua sông cũng phải chạy. Khi chạy qua một khu rừng trống trải vì bọn Mỹ mới rải hóa chất độc, cây cối không còn một nhành lá, tôi vấp ngã tới hai lần. Bao gạo nặng trịch đè dúi lưng, dúi cổ xuống, song phải bật dậy ngay. Một chiếc Mô ranh hai thân rà sát ngọn cây. Nó bay thấp quá, thấy ở buồng lái nhô ra hai đầu giặc lái. Tôi phải núp vào một bụi lách nhỏ. Sao thấy trống quá, thân mình, bao gạo như phơi ra trước mắt bọn chúng vậy. Nó quần đảo mãi với cái đầu mum múp, với cái đuôi gọng bừa, với thân hình đen trũi xấu xí, trông thật đáng ghét. Nó mù, chẳng thấy gì hết.
Anh em đi đường cho biết bọn biệt kích mới nổ mìn clâymo (mìn định hướng, chúng tôi gọi tắtlà mìn mo) ở đội 6 - nơi chúng tôi sẽ đi qua. Nhưng không thể dừng lại được. Thời giờ là vàng ngọc.
Chúng tôi lặng lẽ tìm vào nơi đó. Ở một gốc cây kề bên đường, đất bị toác ra vì mìn nổ. Bên triền núi đầy vỏ đồ hộp do bọn biệt kích vứt lại. Rồi cũng qua nơi đó một cách an toàn.
Con đường chúng tôi đi, nay trở về đã kháchẳn. Bom B57 rải dọc theo đường, lấp cả lốiđi. Chúng tôi ngửi thấy mùi thối nồng nặc xôngra từ trong bìa rừng. Chắc có anh nào bịthương bò vào đó và chết tại đó.
Cơ quan lại dời về A9. Chúng tôi mang gạo về đó.
THƯ GIA ĐÌNH
Hà Nội, ngày 25/12/1968
Con thân yêu của bố mẹ!
Con ơi con! Hàng ngày bố mẹ hướng về miềnNam trông chờ tin tức, chờ tin con, chờ tinthắng trận. Thư con gửi tháng 8/1968 đã đến tay bố mẹ, đến tay cô Chung và các bà. Đọcthư con, lòng của mẹ hồi hộp. Các em con đều im lặng ngồi nghe. Mẹ dơm dớm nước mắt,phần thì thương con gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm, phần thấy mình lại được vinh dự có con tham gia tiền tuyến, bõ công nuôi dưỡng con từ nhỏ tới lớn. Bây giờ bố kể chuyện gia đình con nghe.
Gia đình ta vẫn bình yên, bố mẹ đều cố gắng làm việc, như hồi con còn ở ngoài này về thăm gia đình. Các em con ngày một lớn, ngày một ngoan thêm. Việt đang phấn đấu để cuối năm đỗ lớp 10 và vào đại học. Ngọc cũng đang phấn đấu học hết lớp 7 để vào được lớp 8 cấp III. Việt phấn đấu tương đối tốt, đặc biệt từ khi cậu ta được vào Đoàn. Ngọc cố gắng cả 2 mặt: học tập và đạo đức, Ngọc là học sinh xuấtsắc và là cháu ngoan Bác Hồ, được đi họp ở Huyện 2 lần.
Diệp vẫn nhí nhảnh như trước, học khá, rất mê đi xe đạp. Mẹ mới mua chiếc xe đạp thiếunhi Liên Xô cho Việt đi học. Ngọc, Diệp, Lantập đi cả ngày. Còn chiếc xe đạp Thống nhấtcủa con, mẹ đã nhận được rồi và em Phúcđang dùng.
Bố kể tiếp chuyện các em con:
Lan học giỏi, tương đối toàn diện, thường được xếp thứ 3, thứ 4 trong lớp. Thủy đang học lớp 1, em học cũng khá và có triển vọng.
Mẹ con vẫn làm việc như cũ, và vẫn bận cả ngày, giặt giũ cho các em bé, nấu cơm, nuôi gà v.v... Bố vẫn vậy, vẫn gắng đem hết sức mình ra để cống hiến cho cách mạng. Có điều con ạ, bố cảm thấy cũng yếu hơn trước vì tuổi đã 53 rồi, tuy vậy, bố vẫn cố gắng vượt mọi khó khăn mệt nhọc để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Con đã phấn đấu rất nhiều. Bố đọc thơ con cũng hình dung được con bố đã vượt được bao khó khăn nguy hiểm, con bốđã bước đầu thể hiện được Chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bố cảm thấy như con đang mở đầu một bản anh hùng ca. Con ạ! Cố gắng lên nữa, bố mong con đem hết nghị lực, ý chí,và quyết tâm để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụcách mạng đã giao phó cho con. Viết thư chocon, bố nhớ con lắm, hình dung lại cả lúc con còn thơ ấu quấn quýt với bố, hình dung lại hiện nay con đã trưởng thành và đang gắngsức cống hiến thật nhiều cho cách mạng.
Con ơi! nhớ con lắm lắm, mong con hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, ngày càng được gần Đảng và mong ngày thống nhất được gặp con..
Bố. Phạm Đức Hoá.
Hà Nội ngày 25/12/1968
Anh Long mến thương!
Nhận được thư của anh đã gần một tuần rồi,hôm nay nhân tiện có người vào chỗ anh côngtác em tranh thủ viết thư tới anh đây.
Đọc thư anh em mới hiểu hết được cuộc sốngđầy gian khổ và mạo hiểm của anh, thiếu thốntất cả từ vật chất đến tình cảm, song em tin rằng với anh, một người giàu nghị lực, mạohiểm và tràn đầy sức sống, anh sẽ vượt quađược tất cả những khó khăn trên và tạo chonó trở thành một cuộc sống bình thường như những thói quen thường ngày của mình vậy.
Viết thư cho anh đúng vào ngày Nô en, ngàymà cách đây mới có một năm anh đến thămem và chụp ảnh cho em ở trường mới.

Một năm trôi đi rồi thế nhưng những hình ảnhấy nó vẫn luôn luôn gợi lại trong trí nhớ của em tưởng như bình thường mà lại chứa đựngđầy tình thương.
Anh yêu quí. Cuộc sống hiện tại của em vẫntrôi đi một cách bình thường, những ngày chủ nhật được nghỉ em thường xuống cô Chung chơi.
Hôm vừa rồi em có tranh thủ về qua nhà chơi, các em đều khỏe và học giỏi cả, đặc biệt có cô Ngọc học giỏi nên được phiếu mua chiếc xe Liên Xô nhỏ. Bố mẹ đã mua cho các em rồi, các em cũng nhắc tới anh luôn.
Em hiện giờ vẫn công tác tại trường. Không phải đi sơ tán nữa.
Em cũng đang tranh thủ bắt đầu học thêm bổtúc văn hoá. Trong năm tới em có thể sẽ được tăng lên bậc hai. Hiện tại em đang chuẩn bị để thử nghề. Anh Đức hiện nay cũng đang đi thực tập. Cũng lâu rồi em không nhận được thư của anh ấy nên cũng không rõ tình hình.
Anh mến thương! vào công tác trong trong ấy chắc anh bận nhiều lắm phải không. Lúc nào rỗi anh có hay đàn hát cho nó vui không. Cuộc sống mới đến với anh chắc sẽ có nhiều nguy hiểm hơn.
Song cũng như bố mỗi lần nhắc đến anh haykể chuyện về anh cho các bác, các chú nghe,Bố rất vui sướng và tự hào có một người con như anh, biết hy sinh lợi ích riêng của mình vì lợi ích chung của Tổ quốc. Em tin rằng anh sẽ làm được tất cả những gì mà anh muốn đấy.
Thôi em tạm dừng bút ở đây nhé! Ước gì có một ngày nào cả gia đình mình sẽ sum họp và cùng chụp chung một tấm ảnh nhỉ.
Chúc anh đạt được nhiều thành tích trong công tác và chiến đấu.
Ôm hôn anh nhiều lần
Em của anh - Phúc.
Năm 1969
Ngày 1/1/1969
Năm mới đến với những ngày đầy gian khổ, ácliệt. Bọn địch đã đổ quân ngay A7, lập đồn ở đó và tung biệt kích đi lùng sục khắp nơi. Gạo đã có kha khá, song chúng tôi vẫn ăn dè sẻn, kiếm thêm rau, củ làm chất độn. Chúng tôi đi chặt hũ đót về nấu ăn. Cây đót giống cây dừa, ở ngọn có một khúc có lõi mềm, ngọt như củđậu.
Phải dùng rựa vạc từng bẹ đót, bóc dần chotới khi gặp hũ nó. Chặt một cây phải mấtkhoảng nửa tiếng, rất mất công. Nhưng nó là thức ăn ngon, bổ nên chúng tôi không quản ngại, thay nhau đi chặt.
Hàng ngày, Lợi hoặc Nga đi xa tới nửa ngàyđường để mót sắn, dong riềng hoặc hái rau vềcho tập thể. Đường đi phải qua sông Thanh nước chảy cuồn cuộn. Một cái cầu nhỏ bắc chênh vênh trên hai mỏm đá, có căng một dây mây làm tay vịn. Sáng sáng, Lợi hoặc Nga ra đi, chiều chiều, chúng tôi trông ngóng họ về an toàn. Có hôm gần tối rồi mà Nga chưa về, khiến anh em lo sốt vó. Mãi nhá nhem Nga mới về, cõng nặng một gùi sắn, rau mà vẫn cười hồn nhiên.
Nhìn thân hình nhỏ bé bị cái gùi to tướng đè nặng, anh em ai cũng thấy lòng se lại. Phụ nữ miền Nam cực khổ quá, nhiều khi phải cố gắng quá sức mình nên thân hình thường khô khan, cằn cỗi. Song sức sống trong lòng họ thì thật là mãnh liệt.
Trong phong trào cải thiện đời sống, anh em bắt tay vào câu cá Chình. Loài cá này không có vẩy, đầu múp, mắt híp, chuyên sống ở hang đá dưới nước. Người có kinh nghiệm quan sát kỹ mặt cát trước cửa hang có thể đoán biết trong đó có cá chình hay không, cá to hay nhỏ. Mồi câu nó là con cá niên còn sống. Cá niêngiống loại cá diếc, thịt rất béo. Móc lưỡi câuvào sống lưng con cá niên, thả xuống nước đểnó kéo lưỡi câu vào gần cửa hang. Cá chìnhrất háu ăn và dữ dằn, thấy mồi liền lao ra đớp. Thoa mở đầu và thu được kết quả khả quan: bắt được một con cá chình lớn. Nó dài thượt, phải kéo lê trên đất mang về. Nó nặng khoảng 6 -7 kg, chặt ra được hai thau lớn. Nó ngon một cách đặc biệt: thịt rất nạc, bùi, thơm và da dày, béo như mỡ heo. Theo kinh nghệm, cá chình để hơi ươn, thịt càng thơm ngon. Anh em reo mừng đón Thoa về như đón một người chiến thắng. Rồi ai nấy lụi cụi lấy dây thép uốn lưỡi câu chình - thứ lưỡi câu to tướng và có ngạnh dài, sắc. Thỉnh thoảng lại được một con chình, lại được một bữa tươi.
Tôi trở lại A7 để lấy ba lô, tài liệu. Khi vừa qua bến đò Giằng thì gặp Thành, Thoa hốt hoảng tới bến. Áo quần hai anh ướt sũng.
Thành không có mũ đội, tóc ướt bết. Thoa không dép, chân tập tễnh. Thành nói gấp gáp: “Quay lại, biệt kích phục ở đội 5 và đã bắn chết Bửu”. Chúng tôi đành quay về bến cũ. Anh em bàn nhau phải đi chôn Bửu. Sáng dậy sớm gọi đò, song anh em bảo vệ không cho qua, để còn xem tình hình. Sớm hôm sau, bọn tôi kiên quyết đi. Bửu đã nằm ngoài trời hai ngày rồi. Không thể để xác đồng chí mình phơi mãi như thế được. Bốn anh em tiến thận trọng theo đường 14.
Sắp đến đội 5, Hồng, Y và Tiện bứt dây mây - để buộc vào xác Bửu mà kéo, phòng địch gài lựu đạn dưới lưng. Tôi và Thành ghé xuống cơ sở sản xuất bỏ hoang kiếm cái cuốc và một cái thùng sắt để đào huyệt. Chuẩn bị xong, chúng tôi đi tới nơi Bửu hy sinh. Ở đó có một ngôi mộ mới - không biết anh em nào đã chôn Bửu rồi. Chúng tôi quay về cơ quan.
Nghỉ được ít ngày, tôi, Thành và Bông mang súng trở lại A7.
Kiên quyết bám địch bằng được mà lấy đồ đạc, tài liệu. Đường vắng ngắt. Rừng im lặng một cách huyền bí. Chúng tôi đi lặng lẽ, lăm lăm súng trong tay. Qua nơi Bửu hy sinh rồi. Bước chân đưa dần chúng tôi về A7. Tôi và Thành lần mò xuống hang đá ở chân núi, lấy đồ đạc lên. Ba lô mốc thếch, ẩm ướt. Khi trở về, tôi bị sốt, không ăn nổi cơm, vẫn gắng đi.Bọn Mỹ đang ở trên đỉnh dốc A7, còn chúngtôi thì đi viền theo sườn núi ấy.
Về ít ngày hết sốt, khỏe dần lại, tôi lại cùng Lợi, Sơn xuống A7 mang nốt gạo, tài liệu về. Lần này có bảo vệ dẫn đường. Chúng tôi tập hợp nhau lại thành một đội quân, có súng ống, có phương án tác chiến. Sớm hôm sau, chúngtôi tiến về phía A7. Đường còn in dấu giày của bọn biệt kích. Vỏ đồ hộp quăng bừa bãi. Con đường bị pháo bắn, nhiều đoạn nát bét. Khẩntrương thu dọn đồ đạc xong, chúng tôi vội vãxuyên rừng trở lại bến Giằng. Qua khu nhà của bộ đội thông tin bỏ không, chúng tôi lấy được nhiều dầu phụng, mắm cái do anh em bỏ lại. Tối, đến gần đội 5 thì dừng lại ngủ. Chúngtôi kiếm được sắn để luộc, có mắm, dầu ngonlành và cơm dẻo song không tài nào ăn nổi.Mệt quá! Trăng lên, sáng lạnh lẽo. Lạ thật, hôm nay lại im tiếng pháo. Sáng ra đi, mệt vôcùng. Không ăn nổi cơm trưa, tôi chặt hai câychuối rừng ăn tạm, thấy mát, ngọt, dễ nuốt hơn.
Anh em kiếm được trái mìn, đem ra sông Thanh đánh cá. Sông này nhiều cá và cá rất lớn. Khi mìn nổ, tung cột nước trắng xoá, thì cá cũng nổi trắng mặt sông. Chúng tôi hùng hục ngụp lặn bắt cá.
Có con nặng 5-6 kg. Hôm ấy được khoảng 30kg.
Rồi tôi bị sốt nặng. Trận sốt kinh khủng nhấtkể từ khi tôi vào đây. Không ăn uống được gì cả. Chị nuôi nấu cháo cá chình, ăn cũngkhông nổi. Nôn mửa suốt, toàn một thứ nước sền sệt, vàng khẹt.
Đêm ngủ mê sảng, những giấc mơ kinh khủng. Thấy bi quan về sức khỏe quá. Cơ quan lại sắp di chuyển. Tết cũng sắp đến rồi. Mùa xuân ơi, hãy mang lại cho ta sức sống mới đi!
Cơ quan liên hoan trước tết để di chuyển. Cóthịt gà, xôi đậu xanh, mỳ, canh bí đỏ... nhưngtôi ăn không vào - nuốt mấy miếng đã nôn oẹ ra.
Ngày 2/2/1969 - 27 tết Kỷ Dậu
Cơ quan di chuyển đã gần hết, chuyến đi nàylà chuyến cuối cùng. Không làm sao khác được, tôi phải hành quân. May được chia ít sữa, uống được một ít cho đỡ kiệt sức. Sáng, tôi dậy lấy một cốc cháo, hòa đường, sữa vào và hạ quyết tâm: phải ăn hết cốc cháo này. Nhắm mắt lại mà húp cháo, mà nuốt vội vàng cho nó khỏi chạy thốc trở lại. Và cốc cháo đã hết. Này, đừng mửa nghe, gắng đừng mửa. Giữ lấy số cháo ấy trong bụng như giữ sức khỏe mình vậy. Khoác ba lô lên vai, lảo đảo bước đi. Đường xá, cây cối nhòa nhoà vàquay cuồng, nghiêng ngả trước mắt tôi. Khát nước vô kể. Bi đông cạn nước. Tôi bụm tay vục nước suối uống. Nước chảy tới đâu thấy mát tới đó. Chao, mát, ngọt đến tận gan ruột. Mai sẽ tiếp tục chiến đấu!
Hành quân trong cơn sốt ly bì
Mệt quá hẳng buồn ăn uống chi.
Nhưng núi cứ ép hoài “ăn” dốc
“No” quá cho nên thở phì phì.
Ngủ một giấc, dậy thấy đỡ choáng. Họa sĩ Hồng Chinh Hiền cùng nghỉ lại với tôi (anh bị sai khớp chân), săn sóc tôi thật chu đáo.
Anh đem sữa của anh ra ép tôi uống. Rồi anh rang gạo, nấu một ăng gô nước đặc như cà phê, pha đường, sữa cho tôi. Tôi không muốnuống - sữa của anh đã hết rồi. Nhưng anhkhông chịu, bắt buộc tôi phải uống. Nằm trên võng, Hồng Chinh Hiền nói cho tôi nghe về các loại tranh, làm tranh sơn mài kỳ công thế nào... và đọc bài thơ anh mới sáng tác cho tôi nghe. Anh chuyên nghiên cứu về Tây Nguyên, có nhiều bức tranh mầu, ký Họa rất sinh động, có một số bài thơ hay. Tôi thấy khuây khoả dần. Chiều, đã tỉnh táo hơn, tôi ăn được ít cơm với cá - cá do anh em nhà in cho.
Ngày 13/2/1969 - 28 tết
Mùa xuân ở đây không có mưa phùn. Trời trong xanh. Nắng trải vàng tươi khắp núi đồi. Từng đàn chim bay chuyền, nhảy nhót hót líu lo nghe vui nhộn.
Cơn sốt lui dần, người khỏe lại.
Chim rừng hót rộn thật dễ thương.
Nắng rực núi đồi, mùa xuân trải.
Vai khoác ba lô lại lên đường
Chúng tôi đi ngược miết theo bờ sông Thanh. Sông này có nhiều đá, nhiều thác, nước chảy ào ào, réo sùng sục. Lại nhớ con sông Hồng những mùa nước. Đứng trên cầu Long Biên nhìn xuống thấy sông rộng bát ngát, nước đỏngầu, cuồn cuộn chảy với sức sống mãnh liệt. Mùa nước đến cũng là mùa hoa phượng vĩ nở đỏ rực trời, là mùa thi. Mấy đứa học sinh chúng tôi thường kéo ra bờ sông Hồng, ngồi trên các tảng đá mà học bài. Trời nước mênh mông, khoáng đãng khiến cho tâm trí thêm minh mẫn, học rất chóng thuộc bài. Song cũngđôi lúc để lòng mơ mộng theo dòng sông. Sóng nước dập dờn. Mỗi khi có một chiếc ca nô lướt qua, dòng nước lại rẽ đôi ra, chạy àoào vào bờ với những con sóng vồ vập. Sóngtrào lên các phiến đá, tung bọt trắng xoá. Chúng tôi để mặc nước bắn vào người mát lạnh. Có những buổi tôi cùng bọn thằng Giang, Hiến - mấy đứa bạn thân - chạy ào trên những bãi cát tràn nước, đạp nước bắn tung toé, té nước nhau ướt đầm đìa mà cười vang. Tuổi thơ ấu của tôi đã trôi qua bằng những ngày học tập rất mải miết; bằng những phút vinh dự lĩnh phần thưởng của nhà trường, bằng những ngày nô đùa hồn nhiên với bè bạn và bằng cả những ngày hè lao động cật lực trên các công trường nắng lửa. Giờ đây, tôi đã xa những ngày ấy, xa những nơi ấy, xa những người bạn thân ấy để vào chiến trường này góp thêm sức chiến đấu. Tôi đã đi qua bao dòng sông. Và nhiều dòng sông đã để lại cho tôi những ấn tượng khó phai mờ.
Rảo bước bên dòng sông Thanh ấy
Nghe nước đuổi nhau réo ào ào.
Ra biển gặp sông Hồng không đấy?
Có gặp, cho ta gửi lời chào.
Quặn thắt lòng, nhớ Hà Nội sao!
Lội băng qua sông Thanh, rồi chúng tôi đóng tăng nghỉ lại bên một dòng suối lớn. Đã khỏe hơn.
Ngày 15/2/1969 - 29 tết
Tiếp tục hành quân về nơi ở mới. Núi đồi trập trùng. Sao không có chút mưa phùn cho mátlòng ta, cho khuây nỗi nhớ thương nhỉ.
Xuyên rừng, chợt đụng phải một cành lá. Tôi dừng lại và bỗng lặng người, sững sờ. Mùa Xuân, mùa Xuân đây chứ đâu. Cành lá ấy đang nẩy ra những nhành lộc non tươi mơn mởn. Mùa Xuân gieo mầm sống và thúc đẩysự sống hãy vươn lên mãi!...
Lội suối, trèo núi, băng rừng
Là những công việc ta mừng đón Xuân.
Đường đi bao nỗi gian truân
Mà lòng nghe vẫn lâng lâng lạ thường.
Gửi về miền Bắc quê hương
Nỗi nhớ da diết, niềm thương vô vàn.
Mong ngày thống nhất Bắc Nam
Gia đình sum họp Xuân càng vui hơn.
Gặp mấy anh em cùng Ban mang gùi đi ngượclại - anh em ra suối lớn để bắt ốc, lấy chuối rừng về nấu ăn tết!
Đến nơi, vội vàng đóng một cái nhà tăng nhỏđể ở.
Đêm nay là đêm giao thừa ở miền Bắc. Tôi và Minh ao ước được chất một đống lửa rõ to để ngồi bên mà nghe đài Hà Nội. Song không thể được, căn nhà quá trống trải, đơn sơ, không thể đốt lửa lên được, bọn giặc trời có thể phát hiện ra ánh sáng... Một ước mơ nho nhỏ và giản dị vậy thôi cũng bị hoàn cảnh khắc nghiệt không cho biến thành hiện thực. Chúng tôiđành treo võng nằm đón giao thừa. Anh Minh là người phụ trách tổ Thông tấn chúng tôi. Anh đã có vợ và một con trai, vào Nam từ năm1960. Anh và vợ anh - chị Tú - có một chuyện tình thật cảm động: Khi anh đi B, chị công tác ở Thông tấn xã, nhưng kiêm cả phát thanh viên cho buổi đọc chậm của Đài Tiếng nói Việt Nam, để anh luôn được nghe giọng nói của chị khi chép tin cho cơ quan. Rồi chị gửi con thơ cho gia đình và vào Nam, cùng anh chiến đấu trên mặt trận tư tưởng ở cùng một chiến trường. Lúc này, chị đang ở cơ sở sản xuất, cách chỗ chúng tôi mấy buổi đường, nên hai vợ chồng không được cùng đón xuân...
Đêm đen mịt mùng. Không đèn lửa. Không mứt, chè...
Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi buổi phát thanh ca nhạc Hội diễn làn sóng. Anh chị em công nhân hát hay quá. Nhất là Bích Việt - công nhân mỏ Quảng Ninh - có giọng hát mượt mà, tha thiết, và Ngọc Bé, công nhân Hà Nội, có giọng hát mạnh mẽ, truyền cảm.
Mọi năm trước đây, những buổi tối giao thừa, gia đình tôi thường quây quần bên đài nghe hát, ăn mứt và chúng tôi thường tíu tít giúp mẹ đun nồi bánh chưng cho sôi lên ùng ục.
Đài truyền đi bài ký của Lưu Quý Kỳ. Bài có đoạn nói đến những người chiến sĩ hy sinh cả tết xuân, đón xuân trên đường hành quân, giữa rừng âm u... đúng hoàn cảnh chúng tôi quá. Miền Bắc yêu thương vẫn nhớ đến chúng tôi, vẫn ở bên chúng tôi, tâm sự với chúng tôi.
Đến giờ giao thừa rồi. Rừng già bỗng xao xuyến. Vào những năm trước đây, trong những giờ phút này, gia đình tôi đều thức dậy hân hoan đón năm mới và chờ nghe lời chúc tết của Bác Hồ, sau đó bố mẹ tôi chúc chúng tôi và mừng tuổi chúng tôi bằng những gói mứt, kẹo.
Lời Bác Hồ đã vang lên rồi. Giọng Bác vẫn ấm áp, hiền hậu, song nghe không được khỏe như các năm trước. Chúng tôi cầu mong Bác Hồ khỏe mạnh, sống lâu, mong ngày thống nhất Người vào thăm miền Nam chúng tôi!
Tôi nhớ lại đêm giao thừa năm 1964, lúc ấy tôi học lớp 10. Đêm ấy, tôi cùng mấy đứa bạn thân cùng lớp đón giao thừa ở Bờ Hồ, người đông nườm nượp, áo quần sặc sỡ, đèn điệnđủ màu rực rỡ, hoa nở khắp đường phố, khắpcông viên, pháo bông, pháo hoa sáng rực trên bầu trời đen sẫm... Cảnh nhộn nhip ấy trái hẳn với cảnh tĩnh mịch này. Ở đây chỉ có rừng câybạt ngàn và con suối nhỏ chảy róc rách. Đêmgiao thừa ấy, tôi làm một bài thơ nhỏ, nay tôi nằm nhẩm lại, song rất tiếc là đoạn cuối quên mất.
Đêm giao thừa
Đêm giao thừa
Bờ Hồ rộn rập.
Như sao sa
Đường ngập ánh đèn
Đua chen vàng xanh đỏ...
Rực rỡ muôn màu
Cầu Thê Húc đèn kết sáng long lanh như ngọc.
Đêm giao thừa
Không mưa cũng mát
Gió hát
Hoa cười
Đèn rạng soi
Hoa ngời thêm sắc.
Mặc kẻ lại
Người qua
Hoa
Rực tươi
Vẫn cười tinh nghịch
Vui thích
Ngắm ánh đèn
Cười duyên cùng công sự...
Đêm giao thừa
Gió đưa nhè nhẹ.
Khẽ
Tung bay
Tà áo thướt tha
Như hoa
Tươi
Những nụ cười duyên dáng.
Sáng
Như đèn
Những cặp mắt nhung đen.
Ửng lên
Hồng đôi má
Những bước đi
Hối hả
Rộn rã
Phố phường
Vương vương
Làn tóc
Đèn Hồ Gươm như ngọc long lanh.
Đêm giao thừa
Pháo nổ
Ròn tan
Xác pháo tràn mặt đất
Vương vất
Trên hoa
Bay qua
Hè phố
Nở nụ cười
Hồng tươi
Phủ ngời
Nắp
Những hầm hào mới đắp...
Đêm giao thừa
Đêm đưa tin chiến thắng.
Đài phát thanh hãy nói to hơn
Tiếng nói căm hờn và phấn khởi:
Quân dân miền Bắc vừa giành thêm thắng lợi.
Đã nhận chìm một tàu Mỹ hung hăng
Mò ra Bắc đêm 30 hòng cắn trộm!
Tiếng chuông giao thừa
Thánh thót
Ngân nga
Vang xa
Vọng lại
Êm ái
Ngân mãi trong lòng
Mênh mông
Mười
Hai
Tiếng
Trái trên cành
Lá xanh
Thôi đùa gió Hồ Gươm nín thở
Giây phút trang nghiêm
Lòng đất vang lên
Tiếng Quốc ca hùng tráng
Đài phát thanh giành vinh dự truyền đi tiếng nói Bác Hồ...
Chỉ mấy phút thôi
Mà những tiếng
Những lời
Đẹp nhất
Đã tràn ngập lòng ta!
Tiếng quốc ca
Lời Cha
Tin chiến thắng
mang lại đất nước này sức vươn lên mãnh liệtcủa mùa Xuân.
Ngày 15/2/1969 - 1 tết Kỷ Dậu
Sáng, chúng tôi dậy sớm đón năm mới. Ai nấychỉnh tề trong bộ quân phục, tập họp ở sânnghe lời chúc tết của các đồng chí lãnh đạo.Rồi chúc lẫn nhau, đọc thơ, ca hát... Sau đóăn bữa cơm mừng năm mới. Đây, bữa liên hoan của chúng tôi ấm tình rừng núi: cơm gạo trắng do đồng bào miền Băc tiếp tế, nồi canh ốc ngọt lừ nấu với bắp chuối rừng. Anh em húp ốc nghe chùm chụp, rất vui tai. Rồi Họa sĩHồng Chinh Hiền mang tranh ra trưng bày. “Phòng triển lãm” ngoài trời với những bức tranh mầu hay ký họa sinh động làm rực tươi thêm cảnh núi rừng.
Tết chúng tôi nghèo quá: không thịt, xôi, không mứt, kẹo và rất đáng buồn là không có bánh chưng xanh. Chiếc bánh chưng lúc này đối vói tôi rất đáng yêu, không chỉ vì hương vị thơm ngon của nó, mà chính vì nó chứa đựng nhiều tình nghĩa. Tết đến, gia đình nào chả có bánh chưng. Bánh chưng mang tính dân tộc nhuần nhuyễn, chứa đựng cái ấm cúng của gia đìnhsum họp, gợi nhớ quê hương, tổ tiên ông bà.Lúc này đây không phải tôi thèm bánh chưng, mà là nhớ, nhớ da diết, nhớ như nhớ người thân yêu.
Tôi ngồi say sưa viết bài thơ mừng năm mới:
Niềm tâm sự cùng xuân
Xuân ơi!
Xuân hãy dừng chân
Ghé thăm nhà ta với
Thăm căn nhà đơn sơ ta vừa dựng vội
Để có chỗ nằm và có chỗ đón xuân.
Hãy thông cảm cho người trong cuộc hành quân
Yêu Xuân lắm, song không có gì mà tặng.
Nơi đây giữa rừng già trầm lặng
Xuân hãy đến đi
Đến với những tâm hồn
Cháy bỏng nhiệt tình
Tha thiết yêu thương.
Yêu tất cả, nên rời xa tất cả.
Rời xa mái rạ, xóm ngõ yên lành.
Rồi xa làng quê với luỹ tre xanh.
Rời xa gia đình
Nơi có người cha già nghiêm nghị
Nơi có những người anh, người chị, người mẹ dịu hiền
Nơi có đàn em nũng nịu yêu thương
Để lên đường
Cùng cả nước làm cuộc hành quân vĩ đại.
Đường hành quân, ta đi, đi mãi.
Không biết nghỉ ngừng trong cuộc tổng tiến công!
Xuân ơi!
Hãy dừng chân chút nhé
Ghé thăm căn nhà nho nhỏ đơn sơ.
Thăm những tâm hồn cháy bỏng ước mơ.
Thăm những con người dạn dày gian khổ.
Hãy ghé võng ta ngồi
Và cùng ta tâm sự.
Kể chuyện ta nghe Xuân miền Bắc thế nào?
Ôi quê nhà, ta nhớ làm sao!
Ta xa quê hương gần trọn năm rồi đấy.
Ta nhớ rõ ra đi ngày ấy
Tạm biệt quê hương trong một buổi chiều hè.
Cũng ở núi rừng
Xao xác tiếng ve
Ta bắt đầu cuộc hành quân gian khổ.
Qua những mảnh đất quê hương dạn dày bom lửa:
Thanh hóa
Nghệ An
Hà Tĩnh
Quảng Bình
Lúc đó quê nhà lúa đang độ lên xanh.
Lúa vẫy chào ta, dập dờn sóng dậy.
Tạm biệt đất mình với mùa hè nắng cháy.
Ta đặt chân sang đất nước Triệu Voi.
Đội một mùa mưa nước ngập đất trời.
Vượt những con sông ào ào thác lũ.
Vượt đỉnh Trường Sơn quanh năm mây phủ
Vượt những cầu treo chót vót ngọn cây
Mê mải hành quân
Đi suốt đêm ngày
Ta lại vượt đỉnh Trường Sơn lần nữa
Để về miền Nam chiến trường rực lửa.
Đây Công Tum rừng núi điệp trùng
Đây Quảng Đà dậy sóng tiến công
Ta say đắm hòa mình trong đất nước.
Cùng đội ngũ điệp trùng, mạnh chân ta bước.
Với bút, mực này ta hăm hở xung phong
Viết những dòng tin tiếp sức tiến công
Và ta lại chịu thêm nhiều gian khổ....
Có những hôm trời mưa như thác đổ
Cõng gạo xuyên rừng, vượt núi, băng sông.
Có những khi đói quặn thắt lòng.
Có những buổi sốt rét run cầm cập.
Và nhiều nữa những khó khăn dồn dập
Đã thử sức này, ta đã vượt qua.
Giữa chốn chiến trường, ta hiểu thêm ta
Và lại thấy yêu mình thêm chút nữa.
Cũng chính trong những ngày gian khổ.
Ta biết quý thêm những thứ quý trên đời.
Giữa chốn núi rừng thiếu thốn rau tươi
Ta thêm quý từng lá rau rừng chân thật.
Giữa những cơn đói làm lòng ta quặn thắt,
Ta quý thêm vị đậm đà của hũ đót, củ nưa.
Giữa cái lạnh lùng của đêm tối, rừng mưa,
Ta thêm quý ngọn lửa hồng ấm áp.
Giữa những lúc máy bay thù quần rát,
Ta quý thêm từng bóng cây xanh
Những rừng cây nặng nghĩa, nặng tình
Đã ấp ôm ta, che mù mắt giặc.
Giữa kẻ thù lòng lang dạ sói
Ta thêm yêu tình đồng chí sắt son
Từng bọc đùm nhau trong những phút sống còn
Từng ấp ôm nhau chia bùi, sẻ ngọt.
Từng chiến đấu với gan vàng, dạ thép.
Cùng một quyết tâm: địch mất, ta còn...
Nắng đã dậy rồi
Rực rỡ núi non.
Vui rộn rừng cây
Từng đàn chim ríu rít
Bao tâm sự trong lòng, làm sao nói hết.
Xuân ơi Xuân, Xuân có hiểu lòng ta?
Cảm ơn Xuân đã đến thăm nhà,
Mời Xuân lại cùng ăn cơm, Xuân nhé.
Ăn bữa cơm đơn sơ, bình dị.
Với bắp chuối rừng và canh ốc trong veo.
Có nữa chi đâu, giữa chiến khu nghèo.
Xuân ăn nhé, rồi cùng ta bước tiếp
Theo đội ngũ trùng trùng, điệp điệp
Bão dậy, sóng trào nổi dậy, tấn công
Nào, sẵn sàng Xuân nhé Xung phong!
Hãy xốc tới Ta quyết giành toàn thắng!
(Xuân Kỷ Dậu 1969)
Cuộc sống trở lại nếp bình thường của nó. Chúng tôi lại chặt cây, chặt lá dựng nhà. Nơi này khá nhiều cây cọ. Tôi trèo tuốt lên ngọn cây, chặt được khá nhiều lá cọ về lợp nhà. Căn nhà của tổ Thông tấn xã chúng tôi xinh xinh, nằm sát bờ suối, con suối nông nhưng rộng, lòng bằng phẳng, toàn cát, nước trong vắt.
Khu vực này có khá nhiều thú rừng. Có hôm đi trực, tới một đoạn suối, tôi gặp một con nai lớn với cặp sừng nghênh ngang đang lần xuốngbờ suối. Thấy tôi, nó giật mình kêu “tét” mộttiếng và chạy bổ lên rừng. Có hôm, anh Thốnggùi về một gùi thịt voi, cả cơ quan được ăn “thí xác” (có nghĩa là ăn thỏa thuê, không hạn chế).
Thịt voi toàn nạc, ăn không ngon lắm nhưng lành, có thể thay cơm.
Có hôm anh em bắn về được hai con dộc lớn, bắt theo một con dộc con. Con dộc con quanh quẩn bên xác mẹ, không biết sợ là gì.
Nhưng khi con dộc mẹ bị cạo sạch lông, thuivàng, thì nó kêu lên mấy tiếng “chóe... chóe...” rồi leo lên tít ngọn cây...
Từ tháng 3 năm 1969.
Hồng Chinh Hiền chuẩn bị ra Bắc. Anh ra đódựng tranh, dự triển lãm rồi sẽ vào. Tập thơ“Đá trắng” của anh cũng sẽ hành quân theo anh để vào một nhà xuất bản ngoài Bắc. Thuyết cũng quay 180 độ! Anh ta cáo bệnh thấp khớp, chạy vạy xin được bệnh án để ra Bắc. Thực ra là do tư tưởng dao động, sợ gian khổ, ngại ác liệt, hy sinh. Được bổ nhiệm làm Phó Văn phòng, lẽ ra phải chăm lo đời sống chung, nhưng anh ta chỉ lo cho cá nhân. Có những lần cáo ốm để khỏi đi cõng gạo, anh báo cháo, nhưng xuống tận bếp nói với anh nuôi: “Nấu cháo cho chú phải lấy đủ tiêu chuẩn gạo của bữa cơm, ghế thêm ít sắn đảm bảo dinh dưỡng chống sốt rét nghen!” Anh tathu vén đủ thứ, đi làm cách mạng mà như đi buôn vậy. Hết đổi chác cái này lại xin xỏ cái khác, lấy của anh em từ cái bọc võng tới đôi bít tất, tấm dù hoa... và chạy vạy mua sắm đủ thứ: khi vào, anh ta chỉ có một cái đồng hồxoàng, nay có đồng hồ Mô Va Đô, nhẫn vàng,đài bán dẫn... (con người thật tàn nhẫn, mấy viên sâm mà bán cho đồng chí mình tới 2000 đồng, gấp 40 lần phụ cấp hàng tháng của tôi ).
Chỉ được cái bẻm mép, tán một tấc đến giời và thân hình úc núc, được anh em đặt cho biệt danh Tư Băm. Ở Thuyết tập trung cao độnhững biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Anh em ai cũng chê trách Thuyết.
Cuối tháng 3, tôi nghe tin Xuân Quý đã hy sinh ở Quảng Đà.
Hy sinh ngày 8-3, đúng ngày Quốc tế phụ nữ.Bọn Pắc Chung Hy phục kích và đã bắn chếtchị trong một đêm tối tại tỉnh Quảng Đà.
Tôi ngậm ngùi nhớ tới chị, nhớ tới khi còn ở trường 105 Hà Nội, chị rất hồn nhiên mangmáy ảnh đến hỏi chúng tôi về cách sử dụng.
Chị là một con người có quyết tâm cao, cónhiệt tình cách mạng lớn.
Khi hành quân từ Bắc vào, chị sức yếu, ba lô nặng nhưng dứt khoát không nhờ ai mang hộbớt, lúc mệt quá, đau vai, đau chân quá lại lén ra khóc một mình. Chị miệt mài viết, đồng thời luôn xung phong trong những công việc gùi cõng nặng nhọc. Khi phân công chị đi Quảng Ngãi, chị xin đi Quảng Đà - đó là trọng điểm của chiến trường, rất ác liệt, song cũng nảy sinh nhiều anh hùng. Chết như Trọng Định, Xuân Quý là cái chết vinh quang. Còn sốngnhư Thuyết là cái sống nhục nhã.
Thời gian này, tôi có điều kiện làm chuyên môn nhiều hơn.
Cùng anh Minh giải quyết toàn bộ tin tức từcác nơi gửi về - rất phấn khởi, say mê. Thỉnh thoảng cũng tham gia gùi cõng, kiếm củi, rau.
Giữa tháng 4, tôi vào Trà Mi sản xuất. Làmquen với con rựa phát rẫy. Nắng Trà Mi đãthiêu cháy da thịt tôi và làm cho tôi cảm sốt luôn. Thật buồn, thời gian này đau ốm nhiềuquá, không tham gia lao động được mấy. Mà công việc thì hết sức bận rộn, anh em hết sứcvất vả. Có hôm, con suối gần nhà chúng tôibỗng đầy cá trôi xuống - có những con ngắcngoải, có những con vừa mới chết. Hình như phía thượng nguồn, bọn địch bắn pháo lân tinh, cá bị ngộ độc.
Tôi hụp lặn cả buổi, bắt về hai thùng cá lớn. Anh em có thêm chất tươi. Nhưng tôi bị một trận cảm nước khủng khiếp. Đầu nặng trịch, đau như búa bổ. May quá, anh Bông - cùng đơn vị sản xuất với tôi - biết nhể cảm. Lạ thật, anh chỉ bóp, vuốt trán tôi một lát rồi dùng mảnh sành nhể mấy nốt giữa trán, nặn ra chút máu đen sì, là đầu tôi thấy nhẹ bẫng. Tuy vậy, cũng phải nằm bết 2 ngày mới bình phục.
Bắp của chúng tôi rất tốt, cho nhiều trái lớn và lúa mì cũng xanh tốt.
Đầu tháng 7, tôi và Vượng đi bệnh xá. Vượngrất yếu và mang tới 4 thứ bệnh: thấp khớp,viêm đại tràng, trĩ, sốt rét. Song,Vượng dứt khoát trụ bám ở chiến truờng, không trở ra Bắc để thành B quay. Còn tôi chỉ bị suy nhược vì sốt rét nhiều. Giữa lúc này thì địch càn Trà Mi. Chúng đổ quân lên thôn Ba, thôn Tư, Cầu Chìm, Nước Oa. Chúng tôi không thể về nơi sản xuất được. Rất áy náy, song không còn con đường nào khác, đành lên tiểu ban Văn nghệ nằm chờ.
Tại đây, chúng tôi ăn sắn phát ngán vì quá ít gạo. Tôi vùi đầu vào đọc hết số sách văn học mà tiểu ban cho mượn. Lâu quá rồi không được đọc sách, nay đọc nhiều thấy nhức đầunhưng rất say mê.
Tôi tham gia cõng gạo với tiểu ban, giữa đường bị sốt. Anh em Văn nghệ săn sóc tôi rấtchu đáo, nhất là Thanh Đính. Anh hát cho tôinghe nhiều bài hát hay. Trong gian khổ, anh vẫn quần áo chỉnh tề và lúc nào cũng lạc quan, nhiệt tình biểu diễn phục vụ bộ đội, thương binh. Với cây đàn ghi ta, anh có thể hát ở bất cứ nơi nào khi bộ đội yêu cầu: trênđỉnh dốc lúc ngồi nghỉ gùi cõng, trên thuyền lúc vượt sông, bên bếp lửa sau cơn sốt rét... Bùi Minh Quốc cho tôi xem tập thơ của anh “Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ”. Sống trong không khí này tôi thấy thật vui và khao khát được đi thực tế, được viết.
Anh em báo tin anh Hồ (làm ở báo Vĩnh Linh, cùng vào đoàn với Xuân Quý), được phân công về báo Cờ Giải phóng, đã chết ở Nước Ngheo - cơ sở sản xuất của Báo. Anh rất gầyyếu song rất cố gắng. Bệnh sốt rét ác tính đã hủy diệt anh. Anh Nhị bảo rằng lúc anh Hồ chết, ở hậu môn anh, ruột thòi ra tới gần gang tay! Thế là mới một năm vào đây, trong số người cùng vào hoặc đã vào trước tôi ít ngày đã có 4 người hy sinh: Trọng Định, Xuân Quý, Minh Điều, Phạm Hồ và 5 người trở lại miền Bắc: Thuyết, Xuân, Bá, Trình, Kiên.
Giữa tháng 7, tôi và Vượng về Trà Mi.
Trời bắt đầu có những cơn mưa giông dữ dộivào buổi chiều.
Trà Mi còn nặng vết tích địch tàn phá: nhà cửa bị chúng đốt cháy hết, trâu, bò bị bắn chết thối khắp vùng. Nhà cửa của bọn tôi cũng bị đốt trụi. Bọn địch phá phách không còn gì, từ cái cần câu cá đến cái giỏ cá, nong phơi thóc chúng đều đốt. Tuy nhiên, lương thực, của cải của chúng tôi nhờ cất giấu kịp nên không tổn thất gì. Bọn địch đóng quân ở cách chỗ chúng tôi một ngày đường, hòm đạn, vỏ đạn vứt bừa bãi. Anh em dũng cảm bám sát cơ sở sản xuất, giành giật với địch từng con gà con heo.
Nhà không có, chúng tôi đóng tăng ở. Thời vụsản xuất rất khẩn trương, phải làm cho kịp. Hồinày không có gạo, ăn toàn bắp, song anh emrất phấn khởi, hăng hái.
Cuối tháng 7, tôi được chỉ thị về Ban để làm công tác chuyên môn. Lúc này hay mưa, lụt,sức tôi yếu, lại đi một mình, nên lo quá.
May sao, khi lên đường, tôi đã khỏe lại và gặp nhiều bạn đường tốt, kết hợp cùng đi nênvượt qua mấy ngày đường một cách nhẹ nhàng.
THƯ GIA ĐÌNH
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 1969
Long thân yêu của bố mẹ.
Bố mẹ vừa nhận được thư và ảnh của con rồi, nói chung là tất cả thư con gửi về gia đình đều nhận được cả mà bố mẹ cũng gửi rất nhiều thư cho con mà chả biết con có nhận được không, con nói gửi áo len và bút về chỗ bác Đào Tùng nhưng bác Tùng lại đi Quy - Ba vắng vậy mẹ phải đến hỏi gia đình bác vậy. Hôm ngoài tết cô Chung đem gửi anh Tô cho con thuốc ký ninh độ hơn trăm viên và lọ sâmviên, còn gì nữa mẹ không nhớ và cả giấy khai lý lịch của bố cho con, chả biết con có nhận được không.
Bố mẹ và các em con ở ngoài này nhớ và thương con lắm, nhất là tết vừa rồi cả nhà cứ nghĩ đến con thành ra ăn tết không vui vẻ gì, mẹ biết là con sẽ phải thiếu thốn và gian khổ đến chừng nào, nhưng mẹ tin là con sẽ vượt được tất cả những gian khổ ấy mà tiến lên. Bốmẹ thấy con nói bị sốt rét. Đấy là mối lo ngại nhất cho mẹ, vì mẹ nghĩ đến những khi con nằm đang lên cơn sốt mê man mà ở giữa rừng thì ai trông nom con, đành rằng có tập thể nhưng nó cũng đến mức độ nhất định thôi, không thể bằng ở nhà được. Thứ nhất là mẹ lo lúc con đang sốt mê man mà giặc đến bắn phá thì có biết đường mà chạy không, mẹ cứ nghĩ vơ vẩn thế đâm ra nghĩ ngợi lung tung và thương con da diết. Thật là con bắt đầu ra tựlực được ngày nào là mẹ bắt đầu lo cho con ngày ấy vì rằng con toàn bước vào đườngchông gai nguy hiểm cả. Cái sợ nữa của mẹ là lo cho con bị cơn sốt rét ác tính thì chẳng thuốc nào cứu được cho nên con cố xin thuốc mà uống mà nếu may con có nhận được chỗ quinine mẹ gửi cho có chữ Q là tốt nhất đấy. Con uống nó trước khi ngồi vào ăn hay ăn một bát rồi uống thì nó đỡ ù tai nhé. Uống mộtngày 2 viên thôi.
Còn việc gia đình vẫn khỏe cả, các em convẫn khỏe cả, học vẫn tốt. Việt đang có hướngcủa nhà trường là cho vào đại học Văn hay Vô tuyến điện nếu vào được đại học. Dạo này em lo học lắm, đến 15/5 này là các em con đều thi cả. Nói chung là các em con học được cả, em Phúc tết vừa rồi cũng lên nhà và đang học bổtúc 9. Em vừa được thử tay nghề xong, mẹđưa cho em cái xe đạp của con cho em sử dụng, còn Việt thì mẹ mới mua cho cái xe đạp thiếu nhi Liên Xô 200đ, đến hè ra nếu Ngọc lên lớp 8 thì cũng đi xe đạp ấy.
Các em con biết đi xe đạp cả rồi, chỉ có Thủy là chưa biết đi thôi vì còn bé quá. Anh Đức con đến tháng 12 này thì về rồi. Bố con độ mấyhôm nữa thì đi tham quan Liên Xô độ 2 tháng. Cô Chung vẫn ở chỗ cũ. Nhiều khi mẹ muốn gửi quà vào cho con mà chả biết gửi gì vả lại chả biết họ có nhận cho không hay là có đến tay con không, mẹ phân vân quá lại thôi.
Nhận được thư và ảnh của con, các cô cácchú ở cơ quan đều mừng chung cả với giađình nhà ta và đều xem thư vả ảnh của con cả. Mẹ nghĩ không biết đến bao giờ con mới được về và gặp gia đình để lúc ấy mẹ sẽ nấu cho con ăn tất cả những món gì con thèm. Cuối năm anh Đức về, như thế là lại thiếu con. Nếucon có nhà có phải vui không? Con xem trongấy có lá na thì con lấy mà vò ra lọc nước mà uống chữa sốt rét tốt đấy.
Bây giờ mẹ khuyên con là con phải giữ gìncẩn thận, đừng xông pha nhiều, nếu mà là nhucầu công tác thì không nói, nhưng ngoài ra thìcon phải giữ gìn cẩn thận. Mẹ thấy con giankhổ bao nhiêu mẹ cũng không ngại bằng chỉ sợ không sống được, chứ nếu sống được thì sau này cái gì cũng có cả. Hôm nay mẹ thấy chú Triều giáo viên bảo có đồng chí trong Quảng Đà sắp vào. Vậy mẹ vội viết thư gửi vào cho con biết tin gia đình ngoài này. Dạo này giặc Mỹ không bắn phá nữa, nhân dân tạm yên ổn, vui vẻ, nhưng riêng mẹ cứ nghĩ đến con thì mẹ sốt ruột lắm. Trường ta vẫn ở sơ tán, chỉ có một số về Mễ Trì thôi.
Thôi, bố mẹ và các em chúc con khỏe mạnh,cố gắng vượt mọi gian khổ chờ khi đoàn tụ gia đình vui vẻ.
Mẹ Hạnh
Hà Nội ngày 2/5/1969
Anh yêu mến của em!
Xa anh đã gần một năm rồi, mới ngày nào anh em mình còn quây quần bên nhau thế mà bây giờ anh em mình đã phải xa nhau hàng trăm cây số rồi nhỉ?
Nhận được thư và ảnh của anh, em vui sướngvô cùng. Ngắm những chiếc ảnh anh chụp em tưởng như anh vẫn đang ở gần bên em, vui tươi và đang nhìn em trìu mến.
Anh Long mến, đọc những dòng chữ thân thuộc của anh, em đã tưởng tượng được phần nào những gian khổ mà anh đã trải qua, không biết giờ đây anh đang nghĩ gì nhỉ? Em thường hay nghĩ như vậy, và cứ mỗi khi nghĩ tới anh là em lại thấy nhớ và thương anh vô cùng, thế rồi hình ảnh anh và những kỷ niệm khi anh emmình cùng ở với nhau trong căn phòng nhỏ bémà em ở, những buổi tối phóng ảnh tới 11 giờ đêm hay những khi ngồi uống cà phê trongquầy hàng giải khát, lại hiện lên trong tâm tríem.
Trong thời gian xa anh, em học bổ túc vănhoá. Hiện nay, em đã học hết học kỳ I của lớp 9 anh ạ, trong thời gian này em bận hơn trước rất nhiều, nên mặc dù có xe đạp song em rất ítđi chơi. Công việc hàng ngày của em vẫn bìnhthường như trước, song chúng em làm việc bây giờ đông vui hơn trước nhiều. Phòng em bây giờ có 6 người nữa ở, nên cũng đỡ buồn hơn trước nhiều. Em mới được thi lên bậc, kết quả đạt loại khá nhưng cả xưởng chỉ được xét cho tăng lương có 10% thôi nên cũng chưa biết em có được tăng hay không?
Đã lâu em không về nhà, song bố mẹ thì lên họp luôn. Bố có lẽ khoảng giữa tháng này sẽ đi thăm quan Liên Xô, các em nhắc đến anh luôn, chúng nó sắp được nghỉ hè và đều học khá cả. Cuối năm nay anh Đức sẽ về nước, và tết này sẽ ăn tết ở nhà rồi, ước gì anh lại đượcvề ăn tết với gia đình thì vui biết mấy anh Long nhỉ.
Thôi em dừng bút ở đây nhé, em sẽ viết thư thăm anh luôn nhé. Địa chỉ của em vẫn như cũ.
Chúc anh luôn mạnh khỏe và may mắn trong công tác.
Phạm Quang Phúc.
Hà Nội, ngày 17/6/1969
Long thân yêu của bố mẹ.
Bố mới gửi một thư cho con qua tay một bác công tác ở Quảng Đà ra Bắc lại mới vào chả biết đã đến tay con chưa, như thế là mẹ nhận được thư của con viết từ hôm tết, cả nhà nhận được thư và ảnh của con mừng quá, nhưng mãi từ đấy đến nay chưa nhận được thư của con thì gia đình lại sốt ruột quá, và mẹ thấy con bị sốt rét thì mẹ rất lo và thương conkhông thể nào nói được hết, còn mẹ có nhờ cô Chung gửi thuốc ký ninh và lọ sâm viên và số lặt vặt qua anh Tô cho con chả biết con có nhận được chưa mà gia đình rất mong cả thư nữa, nói chung là gửi rất nhiều mà chả biết con có nhận được không?
Các em ở nhà đã thi xong tất cả và đều lên lớp. Năm nay chọn chất lượng học sinh khá kỹ do đó nói chung các lớp chỉ lấy vào khoảng 60% thôi nhưng các em con đỗ cả thế là may lắm rồi, mẹ lo nhất là Việt và Ngọc nhưng đều tốt cả, vậy mẹ báo tin cho con mừng.
Còn gia đình nhà vẫn khỏe cả, trên bà và cậu Hiếu cũng gửi lời thăm con và động viên con làm công tác cho tốt, còn anh Đức con đến cuối năm thì về, anh con học vào loại khá do đó được thưởng thêm mỗi tháng 60 Mác. Còn con chả biết có bao giờ có dịp đi họp mà được ra Bắc không? Mẹ thấy họ cứ được ra vào luôn, mẹ thèm quá.
Trường ta vẫn ở sơ tán, chỉ mới có một ít sinh viên về Mễ Trì thôi.
Hôm mẹ gặp thằng Giang, nó cũng hỏi thăm con và mẹ cho nó một cái ảnh của con, dạonày nó cũng gầy lắm, mẹ gặp nó mẹ lại nhớ đến con nhiều quá. Con cố gắng giữ gìn sức khỏe và con xem nếu có lá na thì lấy vò sống rồi vắt nước uống cũng chữa sốt rét tốt đấy con ạ. Cơn sốt của con có bớt đi không hay vẫn như khi mới vào.
Cô chú Phương vẫn khoẻ, cô sắp cho tất cảcác em về dưới này rồi, cô định gửi bật lửa cho con nhưng chưa gửi được.
Thôi đã khuya rồi mẹ dừng bút, chúc con lầnnữa khỏe mạnh, để có ngày sum họp gia đình.Kể viết cho con thì viết mãi cũng không hếtđược nỗi nhớ thương con được, mỗi lần viết thư cho con mẹ lại thấy nhớ con và vừa buồnvừa lo nữa.
Mẹ Hạnh
Ngày 31/7/1969
Trở về Ban với sự đón tiếp vui vẻ của anh em. Có lẽ tôi thiểu não lắm - với cái thân hình gầy yếu sau nhiều trận sốt, với cái đầu tóc bù xù,với chiếc áo cộc tay 3 túi toạc ở lưng. Bởi vậy anh em cười bảo tôi: “Này, cậu đi thay đồ xem có bảnh choẹ ra chút nào không chứ. Trai làng Tuấn mà thảm vậy sao?”. (Làng Tuấn là biệt danh của Ban Tuyên Huấn Khu). Tôi cười.Không lo, trông vậy nhưng còn dư sức chiến đấu.
Lại bắt tay vào những việc quen thân: làm chuyên môn, đóng góp củi cho nhà bếp.
Tới 3/8, tôi bị quật ngã bởi một cơn sốt chí tử. Chưa bao giờ tôi bị sốt nặng như lần này. Không ăn gì được. Ăn chút gạo rang cũng không tiêu hóa nổi. Bụng binh bích. Mửa suốt,toàn một thứ nước vàng khè. Lại kèm đau bụng đi ngoài. Lần sốt này đặc biệt hơn mọi lần trước là chân tôi cứ cứng đơ ra, đau nhức,không co duỗi được.
Nằm thượt trên võng mà buồn không sao chịu nổi. Nhưng may thay, đây là khu A, bệnh viện rất gần. Anh em đi báo bác sĩ đến tận nơikhám và cho thuốc. Thuốc rất phong phú: đủ các loại trị bệnh, trợ sức tới thuốc bổ.
Mãi tới 11/8 tôi mới khỏi sốt. Tuy nhiên nhờthuốc và có đường, sữa bồi dưỡng nên sức khỏe bình phục tương đối nhanh.
Khu bộ chúng tôi có bệnh viện C là chỗ mà toàn thể cán bộ chúng tôi trông cậy vào về mặt sức khỏe. Ngoài việc chữa bệnh tại chỗ, bệnh viện còn cử các bác sĩ đi lưu động đến các cơ quan Khu chăm sóc sức khỏe cán bộ. Nữ bác sĩ Phi rất thân thuộc với cơ quan tôi. Người gầy gầy nhưng hoạt bát, chị hay nói chuyện vui. Chỗ tôi có anh Đặng Phò, Trưởng Tiểu ban Báo Cờ giải phóng, hay nói tiếu lâm và trêu đùa anh em. Anh đã đặt câu vè Ka tê, Sê cô, Sô ny, Phi phi, Ra đi để chỉ hiện tượng anhem đau yếu phải đến bệnh viện cho bác sĩ Phi khám, có giấy chứng nhận yếu sức khỏe, được ra miền Bắc điều trị, trước khi đi, anh emthường may quần áo bằng vải ka tê, mua đồnghồ Sê cô và đài Sô ny. Hôm ấy, anh gọi bác sĩ Phi là “Phi phi”, lập tức anh nhận ngay được lời đáp “Phò phò” và đành chịu thua. Nhưng bác sĩ Phi lại bị chúng tôi căn vặn về bài của bác sĩ viết trên báo Khu là lá sắn bổ hơn trứng bột, thách thức bác sĩ ăn lá sắn thay các chất đạm động vật, bác sĩ lúng túng, không lý giải nổi. Thôi, thế là hòa!
Rồi, tôi lại đi làm nhiệm vụ cố hữu ở chiến khu là cõng gạo.
Chúng tôi ra tận bến xe chuyển gạo về. Thậtbất ngờ, đến giữa đường, anh em xin được bắp cải, đậu vàng. Tuy ít thôi, song cũng đủ bữa canh. Từ ngày xa miền Bắc, đến nay đã hơn một năm tôi mới gặp lại thứ rau cao cấpđó. Ăn mà thấy mát tận tim gan và lại thấy nhớ miền Bắc vô cùng.
Con đường cũng đầy tình nghĩa. Rừng ổi bạt ngàn với chi chít quả chín rất rộng lòng mời chúng tôi thưởng thức; những cây vả núc nỉu quả chín, cho chúng tôi nhiều mật ngọt và thơm phức; rừng măng ken dầy, không tài nào bẻ hết được... Tất cả những thứ đó góp phần bồi dưỡng sức khỏe và động viên tinh thầnchúng tôi rất nhiều. Trên con đường này, qua sông Bung, Trà Kíp, A Ró, Bến Xe... đầy những dốc cao, song chúng tôi đi không ớn lắm.
Cơ quan lại rục rịch di chuyển. Chuyến đi nàysẽ nặng nề lắm đây.
Trong những ngày này thì Vũ Đảo từ Phú Yênra Ban họp.
Anh nguyên là phân xã trưởng phân xã Việt Nam Thông tấn xã tại Hà Nội, cùng tập trung đi B với tôi và hiện phụ trách tổ phóng viên ở Phú Yên. Trải qua hơn hai tháng đi đường,gặp đói kém, Vũ Đảo có sạm đi. Anh bị mất dép khi chạy vượt đường 19, phải dùng vải bó chân đi suốt từ Bình Định ra gần đây mới kiếm dược đôi dép xỏ vào chân. Râu ria anh đâm ra tua tủa. Anh cho biết đi đường bị mất bộ dao cạo nên cái thứ râu quai nón chết tiệt ấy cứ tự do phát triển.
Tôi vội đưa anh bộ dao cạo: “Thôi cụ ơi, cạo ngay đi, trông cứ như biệt kích ấy” và tôi tặng anh luôn bộ dao. Gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, hàn huyên đủ chuyện. Đảo kể lại nhữnggian khổ mà anh đã vượt qua. Các anh ởtrong đó khổ hơn bọn tôi nhiều và rất đói.
Có khi hàng tháng phải ăn củ nưa thay cơmhoặc ăn sung ghế cơm.
Và trong những ngày gian khổ đó, một tổn thấtlớn đã đến: Nhân cao đã bị chết vì ốm và đói. Nhân là công nhân ảnh, tính tình hiền lành, chăm chỉ và sống với anh em rất chân tình, ai cũng yêu mến.
Trong những ngày đói kém, tuy sức yếu, song anh vẫn cắn răng chịu đựng, không kêu ca một lời và vẫn hăng hái gùi cõng máy, di chuyển đến nơi mới. Rồi anh bị ốm nặng, nằm liệt. Hai má anh chảy xệ, bệu ra như má người già. Cơ thể suy nhược lại bị vi trùng sốt rét và cái đói tấn công, Nhân đã qua đời. Thôi, anh đã vĩnh viễn phải xa người vợ trẻ hiền hậu và 2 đứa con dễ thương, vĩnh viễn nằm lại nơi chiến khu gian khổ này. Ở chiến trường này, cái chết đến với con người ta dễ dàng quá. Ai có thể đảm bảo rằng mình sẽ thoát khỏi tay thần chết. Tôi cũng vậy thôi, tuy luôn hy vọng ở ngày chiến thắng, luôn có lòng tin một ngày mai sẽ trở về quê hương, song vẫn phải đinh ninh một điều: cái chết đang rình mò, cái chết có thể vồ trúng mình. Có điều người ta quen đi, dạn dầy với sự thực phũ phàng đó. Lòng vẫn thảnh thơi không một chút bi quan.
Tối đó chúng tôi đãi khách bằng một bữa cháoốc, cá. Cá và ốc do chúng tôi be suối, tát bắt được hồi chiều. Đảo ăn cháo một cách ngon lành. Tuy nhiên, anh chưa quen hút ốc nênlúng túng. Anh em đều tỏ ra thông cảm về sự lúng túng đó và xúm lại bày cách hút ốc cho anh...
Rồi bắt đầu những chuyến chuyển gạo. Tôi khỏe rồi, hăng hái tham gia những chuyến công tác đó.
Ngày 2/9/1969
Họp tổng kết thi đua của cơ quan đúng ngàytết độc lập. Anh em phát biểu nhiều. Nói chungđều thấy được những thành tích đạt được. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rõ tư tưởng cầm chừng còn phổ biến - cầm chừng và nghỉ ngơi, chưa thật xốc tới mạnh mẽ. Còn một vấn đề nữa đặt ra: giữa chuyên môn và gùi cõng, làm sao cho cân đối. Hình như nhiều người còn quá thiên lệch về mặt gùi cõng, đánh giá khả năng, thành tích con người qua gùi cõng là chủ yếu, coi nhẹ chuyên môn. Anh gùi thêmnửa ang hoặc một ang gạo, có lẽ sẽ được nổi tiếng liền. Còn anh nghiên cứu viết lách chấtlượng ra sao, ít ai để ý đến. Mồ hôi đẫm lưng áo, ai cũng thấy, nhưng mồ hôi nhỏ giọt trong óc, mấy ai biết đến. Điều đó rất nguy hiểm. Nếu chúng ta không làm chuyên môn, khônglàm công tác tư tưởng, thì chúng ta tồn tại ở ban tuyên huấn này làm gì? Có đồng chí sản xuất cả năm trời, không biết gì đến chuyênmôn. Điều đó không thể thông nổi.
Đó là vướng mắc trong tư tưởng nhiều anh em. Tôi cũng vậy. Tôi không ngại hy sinh, gian khổ, tôi chỉ sợ không làm được nghiệp vụ.
Nếu không vì sự nghiệp viết lách phục vụ cáchmạng thì tôi vào đây làm gì kia chứ? Tuynhiên, phải nhận thấy một điều là trong hoàn cảnh chiến trường khó khăn này, không thể chỉ biết đến chuyên môn. Sao lãng việc gùi cõng kiếm ăn, anh sẽ đói liền. Và như vậy, anh không thể nhịn ăn mà làm chuyên môn. Anh hãy quan tâm đến điều đó, nếu không, anh sẽ trở thành con người không tưởng, phi thực tế.Vấn đề là ở chỗ cân đối - cân đối giữa chuyên môn và gùi cõng. Cả hai việc đều phải tốt. Mọi người cần tham gia cả hai việc, đừng để tình trạng người thì hùng hục gùi cõng, bỏ chuyên môn, người thì chăm chắm việc chuyên môn,sao nhãng việc gùi cõng. Ở cơ quan này, nhiều đồng chí vin vào việc chuyên môn mà tránh gùi cõng, một công việc nặng nhọc. Tuy nhiên, có một số anh chuyên môn kém, chỉ thích gùi cõng và sản xuất, một việc nặng,song ít phải suy nghĩ và được ăn no. Đứngtrên hai thái cực ấy, 2 “phái” đều cho mình là giỏi, đều khinh thường “phái” kia, đó là một sai lầm lớn...
Cơ quan đổi được một con heo lớn để liênhoan ăn mừng tết độc lập, mừng thắng lợi củahội nghị. Con heo béo quá, khổ mỡ dầy cảgang tay. Ăn no, ăn chán mà không hết. Saungày liên hoan này nhiều người bị heo “vật”: sốt, đi ngoài suốt, người sọp đi, mặt mũi hốc hác. Anh Đảo cũng bị như vậy. Anh bảo rằng người anh lao đao, lâng lâng như đi trong khoảng không vũ trụ vậy.
Ngày đầu, tôi ăn vừa phải nên cầm cự đượclâu, ăn được mấy bữa nữa mà không ớn vàkhông bị phản ứng gì tai hại cả. Người cũngkhỏe khoắn.
Ngày 4/9/1969
Sáng sớm, chúng tôi mở đài nghe tiếng phát thanh viên đọc buồn và trang trọng: “Mời các bạn nghe buổi phát thanh đặc biệt.” Tôi nằm lặng trên võng. Điều đau đớn đã đến: Bác Hồ đã qua đời, Bác Hồ không còn nữa! Trong nhà có tiếng khóc nấc lên. Tôi bàng hoàng, sửng sốt, đau đớn. Thôi, thế là miền Nam khôngđược đón Bác về thăm khi kháng chiến thắng lợi nữa, tôi không còn được gặp Bác nữa!
Trong những ngày đau thương này, chúng tôi dốc sức ra làm việc. Chúng tôi vào Thường vụ Khu ủy để làm tin tức về tang lễ Bác và cáchoạt động biến đau thương thành hành động cho nhanh, kịp thời. Có thể nói chúng tôi làm việc suốt ngày: sáng, trưa, chiều, tối - làm việc tới khuya. Song ai cũng cảm thấy chưa đủ, chưa bù đắp được một phần nhỏ cho sự tổn thất lớn lao này.
Sau những ngày làm việc cao điểm, chúng tôi trở về cơ quan. Ở đây, anh em dành ngôi nhàđẹp nhất làm chỗ thờ Bác. ảnh Bác được lồngtrong khung đen - có đèn, có trầm nghi ngútkhói suốt ngày đêm. Chúng tôi thay phiên nhau túc trực bên bàn thờ Bác.
Trời mưa sập sùi suốt.
Chúng tôi lao vào việc chuyển gạo: từ kho Lam về cơ quan, từ cơ quan tới sông Nước Mỹ. Một đợt mưa lớn làm cản trở việc của chúng tôi. Mưa sầm sập suốt ngày đêm. Nước xối ào ào. Con suối chỗ nhà bếp của chúng tôi vốn bé tí, nay cũng lênh láng nước, chảy ào ào. Còn con suối lớn phía ngoài thì nước lồng lên, gào thét dữ dội.
Đêm, nằm nghe nước cuốn những tảng đá to lăn lục cục mà rợn cả gáy. Mưa, mưa miết, mưa miết.
Chuyến chuyển gạo vào sông Nước Mỹ thật đáng nhớ. Khi trời vừa tạnh, chúng tôi ra đi. Nhưng khi chúng tôi vừa lên đường, thì trời ập mưa xuống. Mưa quá dữ dội. Những giọt mưa nặng và lạnh ngắt như trăm ngàn mũi thuốn cứ vun vút lao xuống, thuốn nát mặt đất. Đất tơi ra và bị những bàn chân dẫm lên nát bét, nhầy nhụa, trơn tuột. Đường đông đặc người đi: bộ đội chuyển gạo, đoàn văn công, đoàn dũng sĩ, chiến sĩ thi đua mới dự hội nghị về. Hàng trăm con người dầy xéo một con đường mòn xuyên rừng. Cõng gạo nặng trên lưng, tôi cắn răngbước đi, cố cho khỏi ngã. Nhưng xuống dốc thật khổ. Dốc đó, đầy một thứ bùn đỏ quạch, nhầy nhẫy. Bùn chảy thành dòng xuôi theo dốc. Bùn ngập tới cổ chân. Tôi đưa chân vào suối bùn kỳ quặc ấy mà dò dẫm đi. Không còn đủ ma sát giữ cho bước chân - nó cứ trơn tuộtxuống. Phải vận dụng mọi cách để khỏi ngã: chống gậy thật chắc để đu người xuống, bám vào cây để tụt dần xuống, bò xuống. Nhưng chủ yếu là lối đi dật lùi: quay lưng xuống dốc, tay bám vào các cành cây, dây mây bên đường, chân bám chắc mặt đường mà bướcxuống hoặc trượt xuống.
Giữa khi đang hì hụi xuống dốc như vậy, tôibỗng nghe tiếng một cô gái nào đó cười vangvà tiếng chân bước gấp gấp. Cô gái vụt quatôi như một làn gió, làn gió biết cười và nói líu lô. Cô gái mặc quân phục và vác khẩu AK. Quần áo cô không bị lấm mấy mặc dầu cô bước đi rất nhanh, như chạy xuống dốc vậy. Tiếng cười, nói vẫn cứ vang rừng núi và xa dần, xa dần.
Xuống được đến chân dốc thì gần 5 giờ chiềurồi. Vội vã đóng tăng, và kiếm củi nấu cơm.Không sao kiếm ra chút củi tốt để đun.
Chỉ có củi tươi. Những cành cây gẫy chưa kịpkhô đã mục rồi. Trời, cái không khí ẩm xì này. Chúng tôi chẻ củi, rồi lấy giấy đốt. Hết mấy chục tờ giấy mà bếp mới bắt đầu bắt lửa. Phải thi nhau chúi mũi vào mà thổi. Phải lấy vung nồi làm quạt lùa gió vào bếp. Bếp khói um lên, cháy thoi thóp. Mắt chúng tôi cay xè. Mãi tới 8 giờ tối cơm mới chín. Sáng, 5 giờ nấu cơm. Vẫn cái bếp sài đẹn ấy. Vẫn cái lối cháy nghẹtthở ấy. Cũng 3 giờ sau cơm mới chín. Khói um lên, bao trùm rừng cây. Giữa lúc ấy, một chiếc Moranh bay qua, rất thấp. Chúng tôi bảo nhaunếu nó thấy và vòng lại thì lập tức phải chạy ngược suối lên. Nhưng nó cứ bay đi - nó mù trước đám khói mù mịt của chúng tôi. Bãi nghỉ ồn ào lên, không phải vì máy bay mà vì một việc tệ hại: Một bác sĩ của Bệnh viện C cõng một gùi sữa hộp, đến lúc thu dọn để chuẩn bịđi mới phát hiện bị mất một hộp sữa bộtHuygo. Không hiểu chàng nào thèm ăn quá đã lẻn vào đầu võng moi gùi lấy hộp sữa? ở chiếnkhu, gần đây đã xuất hiện một số hiện tượngxấu. Có một số bộ đội không chịu nổi gian khổ, ác liệt, đã bỏ ngũ. Trong số họ, có ngươì lấy vợ là phụ nữ dân tộc thiểu số, có người vào rừng ở. Một ít kẻ xấu trong số này thường lẻn đến các bãi nghỉ để trộm cắp. Có nhiều trường hợp bị mất cả gùi gạo, cả thùng mắm. Nhiều khi đi gùi cõng, chúng tôi phải buộc gùi vào đầu võng để phòng xa.
8 rưỡi mới đi - đi trong cơn mưa tầm tã.
Ngày thứ 3, chúng tôi nghỉ ở khu nhà thôngtin. Ở đây có củi khô đàng hoàng. Nhưng cáinồi thật chết tiệt. Khi chúng tôi nấu cơm thì nó dở trò: thủng một lỗ to dưới đáy. Bắc lên bếp, ánh lửa xuyên qua lỗ thủng đó, sáng rực như ánh sáng phát ra từ cái gương lõm ở đèn pin. Nước đổ vào chưa kịp sôi đã cạn. Gạo trương lên - góc không bị chảy cơm chín phềnh phềnh, góc bị chảy gạo còn cứng nguyên.Cuối cùng, chúng tôi phải sới sang ăng gô nấumới chín.
Gần sáng, cả khu rừng đang chìm trong giấc ngủ mê mệt, bỗng giật mình vì một tiếng động long trời. Không phân biệt là thứ tiếng gì. Mãi sau mới biết đó là tiếng cây đổ. Một cây cổ thụ cao to ở sườn núi bị long gốc do mưa sói moi hết đất đã đổ ập xuống, phát ra tiếng nổ như sét đánh. Ngọn cây đè lên một căn nhà nhỏ, trong đó có một anh bộ đội. Chúng tôi chỉ cònnhìn thấy hai đầu võng buộc ở hai đòn ngang.Toàn thân anh bị thân cây đè lút xuống nềnđất!
Sau những ngày vật lộn với dốc, bùn, với cáitrơn chết dẫm và với những cơn mưa tầm tã,chúng tôi tới được kho gạo ở sông Nước Mỹ - rồi quay lại cơ quan để lấy ba lô, “cuốn” đi luôn.
Cơ quan lúc này chỉ còn tôi và hai anh Lý, Lê. Khu rừng già với những ngôi nhà lá kè trở nên vắng vẻ, lạnh lẽo vô vùng. Chúng tôi đi dạo khắp các nhà, thấy sự ẩm ướt đã chiếm lĩnh mọi chỗ: bàn ghế mốc meo, cửa, vách bị mối xông mục nát. Hơi ấm của con người làm rừng cây thêm sức sống. Thiếu nó, rừng cây lạnh lẽo hẳn đi. Thấy lòng bâng khuâng lạ...
Ba anh em kéo nhau ra suối bắt ốc. Dòng suối này trước đây nhiều ốc, nhưng rồi hết đi một cách mau chóng kể từ khi cơ quan Khu về ở đây. Thế mới biết sức tiêu thụ thực phẩm của chúng tôi thật ghê gớm. Nhưng thiên nhiên bù đắp lại sự hao hụt ấy cũng nhanh vô kể. Nước lũ đã cuốn hàng trăm nghìn con ốc từ các suối nhỏ về dòng suối lớn này. Để khỏi bị vỡ vỏ vìnước cuốn đập vào đá, bầy ốc đua nhau rúcvào các hốc đá bên bờ. Chúng tôi cứ việc lùa tay vào các hốc đó lấy ra hàng chục con ốc - mỗi con to hơn ngón tay cái. Bắt được mấy túi ăng gô ốc như vậy, chúng tôi đem về đập vỡvỏ, đãi sạch sạn, lấy thịt làm lương khô. Ngồicặm cụi cả buổi, tỷ mẩn đập từng con, rồi gỡ vỏ, lấy thịt, quả thật là kỳ công.
Sẵn có một ít mỡ và ốc đó, chúng tôi bầy vẽ làm bánh xèo. Gạo được cho vào lon sữa giã thành bột. Rồi cũng đúc bánh kêu “xèo xèo” ra vẻ. Và ăn cũng ngon - tuy nó mang tính chất tảng bột rán thì đúng hơn là bánh xèo.
Còn có một điều thú vị nữa là có 4 chú chuột bị rơi vào 2 thùng thiếc (trước đựng gạo, nay bỏ không). Anh Lý đem 2 thùng ấy hơ lên lửa. Thùng nóng rẫy, các chú chuột chạy quanh tìm lối thoát thân.
Rồi các chú cũng chịu, nằm lăn ra chết. Chúngtôi lột da, mổ bụng sạch sẽ rồi đem 4 chú ướp với muối, mì chính, đường, sau đó đem rán vàng lên. Thế cũng thành một món thịt quayhấp dẫn.
Cuối tháng 10, chúng tôi lên đường. Lương khô tương đối tươm tất: có ốc và thịt hộp - chủyếu là ốc.
Tôi mang quá nặng - ngoài đồ đạc cá nhâncòn thêm tài liệu và đồ đạc của đồng chí đi vắng.
Khi cách sông Thanh một ngày, chúng tôi nghe B52 rải bom phía đó, chắc là gần, vì nơi chúng tôi ở đất rung ầm ầm.
Trong chuyến đi này tôi đánh mất cái đài củacông - đó một điều đau xót, khiến tôi day dứt, ân hận mãi, cũng chỉ vì cái tật lơ đãng mà nên - lúc nghỉ để cái đài vào thành đất bên đường, lúc đi quên lấy!
Đi đường, mấy anh em cũng chú ý cải thiệnbữa ăn. Anh Lý, Lê chịu khó đi câu và được nhiều cá trầu, có thêm chất tanh. Tôi kiếmđược nhiều măng giang - thứ măng này nấu kỹthì chuyển sang màu vàng ươm và rất ngọt, kho với cá thì tuyệt. Tôi còn bắn đưọc hai consóc và một con chim cu xanh khiến anh em rất thú vị.
Tới nơi mới lại lao vào chặt cây, kiếm lá dựng nhà, làm bàn ghế và đào hầm. Tiểu ban chúng tôi dựng được hai căn nhà khá lớn.
Khu rừng chúng tôi ở rất lạnh và ẩm. Cácphiến đá và các thân cây đều bị phủ đầy rêu. Lạnh buốt thấu xương. Đêm ngủ phải đốt mộtđống lửa to giữa nhà.
Sau đó yên tâm ngồi làm chuyên môn. Tin tứckhá nhiều, đặc biệt là tin tố cáo tội ác địch -trong đó chúng tôi làm mạnh việc tố cáo vụ thảm sát Sơn Mỹ (Quảng Ngãi). Tôi sang quânkhu gặp Võ Cao Lợi và Đỗ Thị Tuyết - hai nạn nhân sống sót sau vụ thảm sát này - để khai thác thêm tài liệu. Tuyết bị sốt rét nặng, rên la suốt, kể cho tôi nghe chuyện một cách vất vả. Phải động viên cô bé hết sức, phải phục vụ côbé nữa: bưng cháo, lấy nước... để cô bé gắngcung cấp tài liệu. Rồi cũng viết được một tin đi sâu khá hữu ích.
Biên tập mấy bài về gương chiến sĩ thi đuakhá thú vị - đã nâng được bài lên, gọn hơn, sinh động hơn.
Đến cuối tháng 12, tôi tham gia gùi cõng lươngthực. Phải lên tận Văn Nải lĩnh sắn khô và bắp hạt, vừa đi vừa về hết 13 ngày.
Suốt từ xã Mai lên Văn Nải, tôi thấy rừng cây đều bị trơ trụi vì chất độc hóa học do bọn Mỹ rải. Nương rẫy của đồng bào cũng bị chất độc phá hoại. Do vậy, đồng bào rất đói. Họ đi xa cảngày đường để mót về một gùi sắn. Đồng bàovừa đói, vừa thiếu muối. Chúng tôi san sẻ cơmcho mấy đứa bé và cho đồng bào muối - do vậy cũng suýt thiếu muối ăn. May ghé qua cơ quan Dược, được ăn nhờ thức ăn và xin một đồng chí bộ đội được ít muối nên mới đủ ăn tới nhà.
Nóc ông Đủ xã Văn Nải - nơi chúng tôi nhận lương thực - ở vùng cao. Lên dốc hoài, hết mấy ngày mới tới. Không khí ẩm ướt, lạnhbuốt quanh năm ngày tháng. Đồng bào phải đốt lửa suốt ngày.
Rời khỏi bếp là lạnh cóng tay chân, không chịunổi. Vậy mà đồng bào ở đây rất thiếu quần áo. Nhất là bọn trẻ con - phần lớn ở truồng.
Nóc quá bẩn. Nền đất đầy bùn nhão nhọet, đầy rác, phân heo.
Bầy heo thả rông đạp nát nền đất. Bước khỏinhà, đạp lên thứ bùn đó, lạnh cả người.
Về tới sông Tranh, chúng tôi bàn cách bơi quacho gần. Thật là vô lý nếu cứ bị lệ thuộc vào bến đò: phải đi xuống một giờ rồi mới chờ qua đò, sau đó phải đi 4 tiếng đường dốc mới tới chân dốc - nó nằm ngay bờ bên kia. Vào mùanày, nước sông Tranh khá lớn, chảy cuồn cuộn, dòng nước xanh lè, khi ào qua các thác đá thì tung bọt trắng xoá... Vào mùa nước, năm nào cũng có người chết đuối ở quãng sông này.
Trời nắng chói chang. Chúng tôi lội qua sông Nước Vin rồi tới bãi đá bên bờ sông. Những tảng đá lớn nối tiếp nhau, xếp đầy hai bờ sôngvà tràn cả xuống sông. Nước réo ào ào, khiếnchúng tôi thấy rờn rợn. Vượng và Chính bơi qua trước. Không ngờ nước cuốn dữ đến thế. Vượng bơi không, bị cuốn trôi vài chục thước rồi mới vào bờ được. Chính mang theo gói đồ đạc, bị nước cuốn băng băng. Chính gắngnhào vào bờ, gắng kéo bọc đồ vào theo. Cònnước, nước cứ xoáy tít, kéo trở ra. Vật lộn với nước mà không nổi, Chính đành phải thả bọcđồ trôi theo dòng nước, rảnh tay mà bơi vàobờ. Sau đó, Chính chạy dọc theo bờ sông đếnchỗ nước lặng mới bơi ra lấy bọc đồ được.
Nắng chói chang. Nước vẫn cuốn ào ào. Trên trời, hai chiếc Moranh hai thân thay nhau quần lượn. Mặc. Chúng tôi vẫn cố vượt qua sông. Chúng tôi nối dây võng căng qua sông. Từng bao gạo được gói ni lông kỹ, cột vào một đầu dây. Phía bờ bên kia, Vượng, Chính ra sức kéo. Những bao gạo rẽ nước sang ngang mộtcách dũng mãnh. Người cũng vượt sang bằng cách đó một cách dễ dàng. Duy chỉ có anh Dũng là gặp tai nạn. Anh không bước xuống nơi chúng tôi chỉ mà cứ lao thẳng xuống cái bậc đá dựng đứng trước mặt. Anh rơi tũm xuống dòng nước - nó đang chảy cuồn cuộn.Lý và tôi vội nắm lấy tay anh, lôi lên. Cằm anh va vào đá, bị sứt một miếng, đổ máu đỏ lòm. Dũng trạc 40 tuổi, tính tình hơi lẩm cẩm. Anh hay quên, hay hỏi những câu hỏi rất vớ vẩn. Đặc biệt, anh ví von mới bật cười, không bao giờ sát hợp cả. Lạnh, anh bảo lạnh như cứt.
Đứa trẻ con đẹp, anh bảo đẹp như dòi, nhưkhỉ...
Về nhà nghỉ được một ngày, hôm sau lại điBằng Da cõng gạo.
Gạo không có, phải xuốnng Trà Mi sắt sắn. Dòng sông Trường vẫn trải lòng rộng rãi và nông cạn ở thôn Tư. Có điều đáng buồn là đồng bào ở đây quá đói - đói vì biếng sản xuất. Bà con quá tệ, đi nhổ trộm sắn và xúctrộm lúa của các đơn vị sản xuất khá nhiều.Chỉ một buổi chiều, chúng tôi mất khoảng 5, 6gùi sắn.
Năm 1970
THƯ GIA ĐÌNH
Hà Nội, ngày 5-1-1970
Anh Long thân mến!
Hôm nay em cầm bút viết thư cho anh, trướctiên em hỏi thăm sức khỏe của anh có đượckhỏe thì em mừng, chúng em và bố mẹ vẫnđược khỏe mạnh. Nhà ta chuyển xuống Hà Nội sau ngày Bác mất, bây giờ chúng em đã đi học cả, cậu Hiếu xuống Hà Nội công tác hơn một tháng, bây giờ cậu lại về Hà Giang rồi. EmThuỷ, em Lan và em đều học ở trong làngPhùng Khoang. Thủy năm nay lên lớp hai. Lan lên lớp 3, còn em thì học lớp 6. Chị Ngọc đáng lẽ chị học lớp 8 nhưng chị thi đỗ trường năng khiếu ngoại ngữ, bây giờ chị ở huyện Từ Sơn, thỉnh thoảng chị được nghỉ dài ngày thì chị lại về nhà, mà bây giờ chị béo lắm, còn anh Việt bây giờ anh ở Trường Đại học Tổng hợp văn, ngày chủ nhật nào anh cũng về nhà được, bây giờ anh ở trong Hà Đông, anh cũng chỉ vừa thôi chứ chưa béo lắm, còn anh Phúc anh đi Liên Xô được độ hai tháng nay rồi, anh Đức cũng sắp về nước rồi nếu như bình thường thì anh có thể ăn tết được ở nhà nhưng bây giờ có thể độ tháng 2,3 anh mới về được. Cô Chung bây giờ cũng được khoẻ, thằng Quang, Chiêu bây giờ về ở với cô rồi còn Tiến vẫn ở trên nhà. Thư em viết đã dài, còn để giấy chocác em viết nên em tạm dừng bút ở đây, cuối cùng em chúc anh mạnh khoẻ, lập nhiều thànhtích.
Em của anh
Phạm Bích Diệp
Phạm Thúy Lan
Anh Long kính mến của em!
Em là Lan, hôm nay em viết thư hỏi thăm sức khỏe của anh, anh có khỏe không, còn vềphần em thì em học cũng tiến bộ nhiều, nhàmình đã được chuyển về Hà Nội chỉ mong đếnngày anh về để đón anh.
Thôi cuối thư em chúc anh mạnh khoẻ, công tác tốt.
Em của anh
Phạm Bích Thủy
Em Bích Thủy hỏi thăm anh Long. Em chúc anh mạnh khoẻ.
Em vẫn được khoẻ, học tập tiến bộ. Em đanghọc lớp 2. Em nhớ anh lắm lắm. Mong ngàyđón anh về.
Em
Ngày 4/2/1970
Ở nhà chuẩn bị đón xuân mới. Năm nay cơquan chuẩn bị vật chất khá đầy đủ: có heo,nếp, kẹo... Điều thú vị nhất là cơ quan tổ chức gói bánh chưng. Vượng đảm nhận việc đó. Trên chiếc bàn to trong nhà, chúng tôi chất đầy nếp, đậu xanh, thịt, lá... trông thật vui mắt. Vượng ngồi gói bánh một cách say sưa, tự hào. Quả thật anh đáng tự hào ở cái tài gói bánh chặt chẽ, vuông vắn của mình.
Đêm, chúng tôi chất lửa nấu bánh. Nồi bánh sôi sùng sục, sùng sục và ánh lửa bập bùng làm căn nhà trở nên vui và ấm.
Ngày 5/2/1970
Đêm nay là đêm giao thừa. Toàn tiểu ban tuyên truyền chúng tôi ngồi quây quần bên bếp lửa trò chuyện, đón giao thừa. Có bánh bích quy, cà phê hẳn hoi. Trong hoàn cảnhchiến trường này, thế là sang lắm.
Chúng tôi vui tết, song lòng không khỏi đượm buồn khi nhớ tới Bác Hồ. Giao thừa này là giao thừa đầu tiên chúng tôi không được nghe Bác chúc tết, đọc thơ mới. Nghe đài truyền lại lời Bác chúc tết năm ngoái, cảm thấy Bác vẫn sống, vẫn đang tươi cười...
Ngày mồng 1 và mồng 2 tết
Chúng tôi đón Tết Nguyên đán trong không khí bận rộn, khẩn trương vô cùng. Họp suốt sáng, tối mùng một và sáng mùng 2. Chủ yếu là bàn việc sản xuất. Vấn đề lương thực vẫn luôn là vấn đề trọng yếu. Phải tích cực sản xuất, tự túc lương thực, nếu không sẽ đói ngay. Phải coi sản xuất ngang chuyên môn. Với tinh thần khẩn trương đó, ngay trưa mùng 2 tết, chúng tôi tỏa đi các ngả đường:
cõng gạo, sản xuất. Tôi vào nóc ông Chanh tham gia sản xuất ở cơ sở một.
Ngày 9/2 đến 30/2/1970
Đây là cơ sở mới nên gặp nhiều khó khăn.Thiếu đủ thứ, từ lương thực, thực phẩm đến nơi ăn chốn ở.
Tham gia phát rẫy 2 ngày rồi lại đi cõng gạo. Gai góc cào rớm máu cả hai bàn tay.
Chúng tôi cõng gạo ở Sơn Ba. Đường đi dọctheo sông - hai bên bờ có những cánh đồnglúa rộng dài tít tắp, trông đến sướng mắt.
Đợt này tôi đã đưa mức cõng gạo lên 40 kg - giá như sức khỏe cứ phát triển theo chiều hướng đi lên thế này thì đáng mừng lắm.
Từ ngày 10/3/1970
Bắt đầu những ngày phát rẫy dai dẳng. Trời nắng ong ong, nóng điên người. Phơi mình dưới trời nắng, chúng tôi dùng rựa phát cây, dứt dây. Những bụi mâm xôi rậm rì, đầy gai, bò ngùng ngoằng, cào nát hai bàn tay chúng tôi. Chúng tôi phải dùng cây dài làm đòn bẩy,đánh vòng, đi từ phía sau bụi mâm xôi đánhxuống. Nhờ vậy, gốc nó phải phơi ra cho chúng tôi chặt.
Vắt cũng thi nhau hút máu. Ngày nào máu cũng đổ vì vắt. Rồi còn ruồi mòng đốt nữa. Thứ ruồi này to, đốt buốt thon thót. Cơ thể mỏimệt, đau nhức. Chân, tay mụn xưng đỏ tấy. Phải có ý chí chiến đấu - cứ vươn tới, vươntới, lấn dần với cái mỏi mệt. Và rồi cũng qua đi. Đây, một ngày mới lại đến. Ăn cơm sáng trong ánh đèn dầu leo lét. Xách rựa ra rẫy trong cái lành lạnh của sương sớm. ánh bình minh đón ta. Nó sáng lên với ánh sáng hơi xanh dịu hoặc Ửng hồng, lan tràn trên các đỉnh núi. Mặt trời đỏ mọng như quả mâm xôi chín gặp chúng tôi khi nhô lên khỏi ngọn núi phía bên trái rẫy. Và những đám mây dầy đặc bao giờ cũng đem lại cho tôi một cảm giác khoan khoái, mênh mông... Mây trắng đục như sữa tràn đầykhông gian, đầy ắp các thung lũng, tràn phủ cảlưng những ngọn núi cao, làm ngập lút cả những ngọn núi thấp. Đứng trên núi nhìn về phía xa ấy, trông như một dòng sông nh mông. Mây tạo thành dòng sông lớn, có những đoạn uốn lượn duyên dáng, có cả ngã ba bát ngát.
Những mỏm núi nhô lên xanh xanh như những hòn đảo nổi giữa sông. Rồi ta bước vào rẫy vàbị rẫy bưng lấy tầm mắt. Đó: cây, lau lách, gai góc, dây dợ đó, hãy xông tới mà chặt, mà dứt, mà cào. Con rựa, con rựa có cái mấu khoằm khoằm ở đầu tha hồ tung hoành. Rồi trưa đến với cái nắng cháy da. Ăn cơm trưa ngay tại rẫy. Xong, nghỉ tạm bợ dưới bóng cây, trên nền đất lởm chởm cho dãn xương cốt một chút rồi lại dậy làm. Khi mặt trời khuất sau những dãy núi trùng điệp và bầu trời chỉ còn sáng với ánh sáng thoi thóp, chúng tôi ra về. Len qua những khu rừng, khe suối, vượt qua vài cái dốc nhỏ rồi về nhà. Nhào vào nước rửa ráy hoặc tắm ào, rồi mài rựa, rồi ăn cơm trong ánh đèn dầu. Tối đến với những buổi họp bàn công việc, những giờ học văn hóa say sưa.Đấy, cuộc sống sản xuất của chúng tôi cứ diễnra đều đặn, bình thản như vậy.
Ngày 19/5/1970
Nhanh thật, đã sản xuất 3 tháng rồi. Ba thángqua đi với những ngày lao động khẩn trương vô cùng. Cuộc sống hối hả xốc tới như con tàuđã mở hết ga. Hầu như ngày nào cũng vậy,chúng tôi làm việc ít nhất là 9 giờ đồng hồ, có khi tới 10, 11 giờ. Tối cũng ít nghỉ sớm -thường là 21 giờ vì còn học văn hoá, họp.
Những ngày dọn rẫy thật đáng nhớ. Phơi mình dưới cái nắng lửa suốt ngày, không một bóng cây nhỏ. Vác những cây gỗ cháy nham nhở vứt khỏi rẫy hoặc xếp gọn lại. Dùng rựa cào cây nhỏ, dây dợ cho sạch. Chao, lúc ấy tro bụi tung lên mù mịt, thộc vào mồm, mũi nồng nặc. Đến ngột lên vì tro, vì nắng, nóng. Rồi trỉa lúa, bắp.
Tất nhiên là với phương thức rất nguyên thủ y: dùng gậy thọc lỗ rồi tra hạt, lấp đất. Kể cũng lạ thật, làm thế vậy mà lúa ngô vẫn vươn lên xanh tốt - đặc biệt là ngô.
Không bao lâu bắp đã được ăn. Trái bắp to,mẩy hạt, ngọt ngào.
Có những buổi đi coi rẫy, tôi bẻ những trái bắp non quăng vào đống lửa. Khi lớp vỏ ngoàicháy gần vào trong, là lúc bắp chín. Bắp dẻo,thơm, ngọt lừ, tôi chỉ ăn 3 - 4 trái là no căng, thay cho bữa cơm.
Thật là sung sướng khi được hưởng thành quả lao động do chính tay mình làm nên. Bắp được thu về, chật nhà cửa. Chúng tôi lột bao rồi chất lên dàn, tối đốt lửa sấy. Lẽ ra có thểphơi, song lũ máy bay lượn dữ quá, sợ chúngphát hiện ra.
Ngày 9/6/1970
Chúng tôi vừa thu hoạch bắp vừa làm cỏ lúa.Trời hay mưa chiều - cứ xế trưa là trời chuyển mình, mây dồn lại đen kịt và rắc mưa xuống. Có khi mưa suốt buổi, ủ ê, buồn tẻ.
Giữa những ngày mưa giông dữ dội này, tôi nnhận được một tin thật đau lòng: vừa qua, trong đợt chuyển gạo, cơ quan chúng tôi bị hy sinh 3 đồng chí: Đinh Thành Lê, Kiều Thị Nghị và Bình. Ngày 4/6, Lê, Bình, Nghị và Minh chuyển gạo từ sông Giang lên. Tới Trà Lãnh, Bình bị bọn địch từ máy bay trực thăng HU1A bắn chết bằng một quả rốc két. Trong khi máy bay vẫn quần lượn và đổ quân, 3 người còn lại hỳ hục tìm cách chôn cất Bình. Xong, Lê và Nghị lại chỗ để bao gạo để sửa soạn, chuẩn bị đi. Minh còn nán lại sửa mộ cho Bình. Bất thần anh nghe 2 tràng đạn nổ liên hồi, đạn bay riuríu qua đầu. Anh vội nhảy vào rừng, luồn xuống suối và chạy thoát với bộ quần áo lót trên người, cái ăng gô hỏng xách trong tay. Anh chạy như trong cơn mê sảng, tay luôn nắm chặt chiếc ăng gô hỏng.
Cứ chạy bừa trong rừng mà cũng về tới cơquan, khi ấy râu anh bạc hết. Còn Lê và Nghị, hai người đồng chí thân yêu của chúng tôi,vĩnh viễn nằm lại đó, giữa đường xuyên núi lạnh lẽo. Thật đau lòng, khi mọi người đến chôn thì thi thể Lê và Nghị đã trương lên, không mang đi được. Đành phải tấp ni lông rồi lấp đất, giữ nguyên vị trí và tư thế của 2 ngườilúc tắt thở: Lê nằm nghiêng gần bụi lách bênvệ đường, Nghị nằm ngửa giữa đường.
Tôi nhớ Đinh Thành Lê, một con người rất hiền hậu và siêng năng. Anh hay tâm tình với tôi - từ chuyện gia đình, vợ con tới chuyện vănthơ, báo chí. Anh là người rất dễ xúc động.Dạo Hồng bị gió độc ngã ngất, anh đã oàkhóc! Vợ anh ở miền Bắc, bị chết vì bệnh ung thư, anh khóc, khóc mãi và anh tâm sự rằng có lúc tưởng không sống nổi nữa, anh đãmang súng ngắn vào rừng định tự sát, song lạithôi. Cuộc sống chiến đấu đã vực anh dậy, anh bước qua đau khổ mà đi lên. Anh lao vàocông tác với những bài báo, bài thơ đầy tìnhcảm, với những ngày sản xuất, gùi cõng vất vả. Tôi nhớ mãi những ngày cùng anh và anh Lý chuyển cơ quan. Hồi ấy, 3 anh em đi saucùng. 3 người sống với nhau gắn bó như anhem mà tôi là em út. Lê thường cặm cụi đi mò ốc, câu cá, thường lúi húi thổi lửa nấu cơm. Đi đường tôi sốt, Lê và Lý làm hết thảy mọi việc: lo dựng lều, kiếm củi, rau, nấu ăn và dành chotôi cả đường, sữa của mình.
Mới đây Lê có viết thư cho tôi và động viên tôi rất nhiều. Vừa qua, khi đi cõng gạo, gặp người về chỗ tôi, Lê gửi lời thăm và hẹn sẽ viết thư dài, kể nhiều chuyện vui cho tôi nghe. Thư chưa kịp viết kể chuyện vui thì Lê đã ra đi, đểlại nỗi đau xót quằn quại trong trái tim tôi!
Tôi nhớ Kiều Thị Nghị, một thiếu nữ rất hồnnhiên, sôi nổi và đầy nghị lực. Tôi thường gọiNghị bằng họ của em “Kiều” và coi Kiều nhưem tôi - Kiều bằng tuổi đứa em trai kề tôi. Lúc nào Kiều cũng hoạt bát, vui vẻ. Nụ cười rất tươi có điểm hai lúm đồng tiền nhỏ, luôn đem lại cho tôi niềm vui - ngay cả trong lúc khó khăn vất vả. Đôi mắt Kiều đẹp như mắt bồ câu và rất trong sáng. Cái nhìn lúc nào cũng như lấp lánh, lấp lánh những niềm vui làm xáo động lòng người. Tuy sống ở rừng núi bị sốt rét hủy hoại nhiều, Kiều vẫn có vẻ đẹp phảng phất của một phụ nữ châu Âu.
Tôi nhớ Kiều những lúc cùng phát rẫy, hai anhem thường đi chung một lối. Tối về sưởi chungmột bếp lửa. Em thường đòi tôi dậy học và dậy hát. Nhớ những buổi trưa nằm võng nghe emđọc những truyện ngắn trong tập văn nghệ giải phóng. Đặc biệt, tôi rất nhớ những chuyến gùi cõng đầy vất vả cùng Kiều. Những lúc ấy Kiều luôn tỏ ra là người có nghị lực phấn đấu mạnh. Hồi cõng hàng ở nước Oa, Kiều rẽ vào kho cõng dầu, còn bọn tôi cõng bắp, hẹn gặp nhau ở sông Tranh. Tới sông, chúng tôi dăng tăng, ăn cơm và đợi mãi mà vẫn chưa thấy Kiều đến. Anh em đoán Kiều gặp khó khăn gì đó, chắc là ngủ lại kho. Nhưng tới khi trời nhòa tối và lất phất mưa thì mọi người ngạc nhiên thấy Kiều cắm cúi cõng thùng dầu đi tới. Đúng là Kiều gặp khó khăn: thùng bị chảy. Xoay sở mãi tới 4 giờ mới có thùng thay, song Kiều vẫn quyết tâm đi. Tôi ngồi nhìn Kiều ăn cơm - những hạt cơm lạnh ngắt - với chút xì dầu mặnchát, cười nói vui vẻ mà thấy lòng trìu mến lạ.
Kiều đi sản xuất trước tôi 2 tháng. Khi tôi vào, gặp Kiều và Nhơn trỉa bắp ở gần rẫy Nóc ông Chanh. 4 người giở bánh chưng ra ăn rồi cùng xén tỉa, dọn xong rẫy đó. Kiều ơi! Cái rẫy bắp em trỉa đó, giờ bắp đã chín rồi. Khi cõng bắp về, anh không khỏi ngậm ngùi nhớ tới em. Anh nhớ khi về cơ quan, em hẹn khi nào ăn bắpnhớ để phần em với. Anh mong có ngày emvô, bắp non đó em tha hồ nướng mà ăn. Giờ đây bắp trỉa đã ra trái vàng rồi, mà em không trở lại, mà em mãi mãi đi xa!...
Anh nhớ khi cùng Kiều đi cõng gạo Sơn Ba,em rất cố gắng bước kịp theo anh và Tạo.Đường bằng, em nói đi quá tức chân nên đichậm. Những lúc ấy anh muốn chờ em, song đường dài quá, trời sắp tối, anh phải bước nhanh cho kịp để em lấy đó làm đích mà bước tới. Đi trước, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn bóng em lúi cúi bước theo phía xa, nhòa nhoà trong ráng chiều đen đỏ, ngập chìm trong cái vắng lạnh mênh mông, anh thấy thương em lắm.Anh về trước, còn em ở lại mang thêm chuyếngạo nữa. Sáng đó, nhìn về hướng em đi, thấymáy bay quần và bắn dữ, anh lo cho em. Một mình thân gái dặm trường. Một mình một cõnggạo, vượt sông, vượt con đường 5 trống trải và vắng vẻ, liệu có sao không em? Song, em đã vượt qua được tất cả. Anh vui mừng khi chuyển gạo chuyến sau, anh được cùng em đi. Hôm đó em có kinh, song em không hề phàn nàn gì và vẫn ráng mang gần 40 kg gạo theo kịp anh em. Đường qua nhiều sông, anh cố gắng tìm thuyền hoặc tìm chỗ cạn lội qua cho em khỏi ướt. Buổi trưa nắng, anh chú ý dừng lại những nơi có thể dừng để em giặt giũ quần áo. Anh cố gắng giúp em cho em đỡ vất vả, song làm sao bù đắp được những gian khổ mà em - cũng như các chị em khác ở miềnNam này - phải chịu đựng. Có lẽ em hiểu được điều đó nên em rất bình thản vượt qua mọi gian khổ. Nhiều lúc anh bật cười khi ngồi nghỉ chờ em, em cõng gạo đến, mồ hôi nhỏ giọt trên trán mà vẫn nói đùa: “Tưởng anh đi nữa không nghỉ. Anh cứ đi đi, em chẳng sợ đâu!”. Cũng có lúc em gắt gỏng đôi chút, song chỉ độc một câu: “Bực mình quá đi!”. Những lúcấy anh thường trêu em:
“Tưởng bực người, chứ bực mình thì kêu lên làm gì cho khổ”. Và em lại cười. Em cũng haytrêu anh, đặc biệt là hay nhại tiếng miền Bắccủa anh. Anh nói “sông Tranh”, “nhất trí” mà phát âm sai vần “Tr”, em liền hỏi lại: “sông Chanh hả anh? Nhất chí hả anh?” làm anh bật cười.
Hôm em trở về Ban, anh đi cõng gạo và cùng đi với em một buổi đường. Bữa cơm trưa hôm đó, anh em mình ăn ở đỉnh dốc trên nước Lon, giáp sông Tang. Thức ăn cũng chỉ là ít xì dầu trộn muối rang, củ nén. Giờ đây, mỗi khi ăn thứ lương khô đó, anh lại nhớ tới em nhiều. Ăn rồi chúng ta chia tay nhau. Anh bắt tay em vàhẹn ngày gặp lại. Ngờ đâu em ơi, bữa cơm đó là bữa cơm tiễn biệt, cái bắt tay đó là cái bắt tay cuối cùng, tạm biệt mà thành vĩnh biệt. Em đi một mình về Trà Niêu và lo phải ngủ rừng một mình, sợ cọp. Cọp không có, không hại em, song giặc Mỹ giết mất em! Cái loài cọp dữ đó giết hại bao người đồng chí thân yêu của tôi rồi.
Nghị ơi, cái bình đông nhựa của em - cái bình đông từng đựng nước cho hai anh em mìnhuống chung - bọn biệt kích Mỹ cũng lấy lê đâm thủng rồi em ạ. Thật tan nát lòng anh!
Tấm đi mưa của em thủng mấy lỗ, anh dángiùm em, giờ đắp cho em đó. Em đã gặp lại gia đình chưa? Hình như không em nhỉ, vì gia đình em bị giặc lùa vào khu dồn rồi mà. Nằm dưới lớp đất mỏng, dưới trời mưa dữ dội này, có lạnh lắm không em? Giông tố cuồng loạn trong lòng anh!
Nghị ơi, anh mong rằng khi về ban, anh sẽ gặp lại em, sẽ lại chép cho em bài hát, sẽ cố dạy em học văn hóa để em lên được một lớp cùng với anh em khác, vậy mà em đã đi xa rồi, xa mãi. Bài hát em là hoa Pơ Lang anh chép cho, em đã thuộc chưa và có mang theo không? Tiếng nói của em vang mãi trong lòng anh!
Khi viết thư cho bạn, em viết: “Cố gắng xứngđáng với quê hương hơn nữa!..” Em ạ, em đãxứng đáng với quê hương rồi đó.
Anh nguyện sống sao cho xứng đáng với em, với sự hy sinh của em.
Khi em đi vào cõi vĩnh hằng, cũng là lúc em sống trong trái tim anh mãnh liệt nhất. Khôngngày nào anh không suy tưởng đến em.
Không ngày nào anh không nhắc tên em! Em đã đi qua 21 mùa xuân của cuộc đời, và giờđây, em sẽ đi vào mùa xuân bất tận của tâm hồn anh!
Ngày 12/6/1970
Cầm đến tấm tăng, anh lại nhớ đến em nhiềuNghị ạ. Tấm tăng của anh bị đứt đường chỉ nối giữa, em đã ngồi cắm cúi khâu lại đó. Nhìn những đường chỉ quấn quýt, anh lại nhớ tớiđôi tay khéo léo của em. Nhớ hôm em đứngcắt, may quần áo ở chỗ sản xuất này.
Lúc em về Ban rồi, anh định gửi nhờ em may cho anh một cái áo, song em đi quá xa mất rồi.
Anh đi qua bãi dong riềng bữa hai anh emmình đào củ đó, thấy nghẹn ngào lắm Nghị ơi.Em có nhớ không, bữa đó rừng núi đã hết ánh mặt trời. Song cùng em đào dong, trước cáivui tươi hồn nhiên của em, anh vẫn thấy nósáng láng vô cùng. Giờ đây bãi dong đó đãnứt mầm mới, lên rất xanh tốt. Còn em, sao em không trở lại?
Những hình ảnh của em cứ sống lại trong anhmãi. Đó, em đang ngồi chèo đò ở sông nướcMỹ đó. Hôm ấy cơ quan di chuyển, khi quasông thiếu người chèo đò, em đã hăng hái ngồi đằng mũi chèo. Đôi tay em khoan thai đưa mái chèo đẩy chiếc thuyền lướt tới giữa dòng sông cuồn cuộn nước chảy, còn trênmiệng thì điểm một nụ cười vừa bối rối vừabẽn lẽn trước những câu nói đùa của anh emkhác. Em đã từng tâm sự với anh, quê em ở miền biển thuộc huyện Sơn Tịnh, cha em làmnghề cá. Em bảo khi nào thống nhất anh vềquê em chơi, em sẽ cho ăn cá biển thỏa thích. Vậy mà em ra đi đột ngột quá, đi không hẹn ngày về. Cha, mẹ em chắc đang trông tin đứa con gái độc nhất của mình. Nhớ ghé về thăm gia đình em nhé!
Nhớ Nghị, tôi nghiền ngẫm về những thực tế mà mình đã trải qua, trong đó có những kỷ niệm với Nghị, viết một truyện ngắn như sau:
Cõi mơ Hòa
T ới chiến trường vào cuối mùa khô năm 1968. Đã bắt đầu có những cơn mưa rào xối xả, nhưng không kéo dài. Khi Hòa cùng 5 anh em khác vượt khỏi cánh rừng loòng boong, xuống hết một con dốc ngắn thì thấy một con sông trong xanh, lấp loáng dưới ánh nắng xế gay gắt. Mọi người đều ồ lên sung sướng. Sau những ngày đi xuyên những cánh rừng bịt bùng, mắt bị bưng bít bởi màu xanh bạt ngàn của lá, của cây, nay đứng trước con sông rộng với bờ cát trắng lấp lánh và bầu trời trong xanh vời vợi, ai cũng thấy tâm hồn như được chắp cánh bay lên. Chỉ riêng Hòa vẫn lầm lì, cắm cúi bước. Mãi đến khi đôi chân anh chạm phải dòng nước mát lạnh, anh mới bừng tỉnh. Vết thương ở mu bàn chân nhói buốt. Cách đây hơn một tuần, khi luồn vào rừng kiếm nấm, anh chẳng may đá phải mũi chông ba lá của đồng bào Kadong. Thật tệ hại, chưa đếnchiến trường, chưa tham gia chiến đấu mà đã bị thương! Nhưng điều làm Hòa day dứt hơn là anh không được điều về đơn vị chiến đấu. Trạm đón tiếp Quân khu phát hiện anh là sinh viên trường Đại học Giao thông nên điều anh sang Trung đoàn 230 thuộc Cục Hậu cần,chuyên trách công tác giao thông...
- Chào hết mấy anh nghen!
Hoà giật mình ngước nhìn lên. hóa ra lội quasông, bước lên bờ từ hồi nào rồi. Bây giờ,nghe tiếng chào lạ tai, Hòa mới để ý thấy một cô gái mặc áo đen đứng bên một gốc cây sấu to tướng đang chào hỏi. “Giọng nói gì nghe chát như ổi xanh vậy!” - Hòa thầm nghĩ,nhưng vẫn làu bàu đáp lại:
- Không dám, chào cô!
Khi mọi người đã quây quần bên gốc sấu, người giao liên nói với cô gái:
- Cô Nghị nè, tui giao cho cô đủ năm lính mới toanh đó nghe.
Giấy tờ đây. Nhận được chớ?
- Chớ sao! - Cô gái đáp gọn lỏn.
“Chà, sao mà ăn nói cộc cằn”, Hòa xét nétnhìn Nghị. Dọc đường hành quân, trong những đêm dừng chân ở bãi khách, Hòa hay la cà vào nhà khách của trạm giao liên thăm dò tình hình “vùng đất mới”. Trong những câutruyện vui bên bếp lửa rực hồng, Hòa thường được nghe mấy anh lính cũ đùa đùa thật thật.
- Cậu hỏi khu Năm à? Hay đấy. Nhưng phảicái giọng nói con gái khu Năm chát lắm. Màmấy cô lại hay hút thuốc rê nữa. Chính vì vậy mới có câu: “Tiếng đồn con gái Quảng Đà,mất mùa thuốc lá chết ba ngàn người”.
Còn chính Hoà, mới tuần trước thôi, cũng đã gặp một cô hút thuốc như vậy. Hôm ấy, Hòa đang ngồi nghỉ thì một cô gái xăm xăm bước tới:
- Cho tui mượn con dao!
Hoà chưa hiểu cô cần dao làm gì, nhưng vẫnrút con dao găm buộc cạnh túi cóc ba lô cho cô gái mượn. Cầm con dao, cô gái lẳng lặng tới khúc cây đổ bên đường. Cô rút trong túi ra một xấp lá thuốc, xếp chồng lên nhau, cuộn chặt thành một thỏi to bằng cán dao. Xong,một chân đạp lên thân cây, một tay cầm thỏithuốc tì lên thân cây, tay kia cầm dao, cô gái ra sức thái. Hồi lâu sau, thỏi thuốc đã biến thành những sợi thuốc quăn queo, đen sẫm. Cô đưa trả Hòa con dao, rồi lại xin một mảnhgiấy, cuốn một điếu thuốc to bằng ngón tay cái, hút ngon lành.
Những câu chuyện và hình ảnh ấy đem lại choHòa ấn tượng không đẹp về con gái khu Năm.Lại thêm nỗi bực bội về chuyện công tác, Hòathấy hết sức khó chịu với cô gái có cái tên Nghị - tên con trai này.
Cái chân đau đã làm khổ Hoà. Miệng vết thương đã kín lại, nhưng bên trong lại làm mủ, nhức nhối. Cả bàn chân trái tấy đỏ, nóng như gạch nung. Vào đến đơn vị, chỉ kịp chào hỏi mọi người một lượt, Hòa đã bị cơn sốt quật ngã. Anh mắc võng, phủ bọc, nằm li bì. Chiều hôm ấy, đang mê man trên võng, Hòa nghe tiếng gọi:
“Nè anh! Nè anh!” và thấy cái võng mình bịgiật giật. Mở bọc võng, Hòa bắt gặp ngay khuôn mặt nghiêm nghị của cô gái dẫn đường hồi chiều hôm qua. Anh bực bội định phủ bọc võng lại, thì cô gái đã giữ lấy:
- Dậy anh, em coi vết đau chút.
Cô gái cầm hộp dụng cụ y tế. Thì ra cô là y tá.
Hò a ngồi dậy, đầu nặng như chì. Cô gái ngồi xổm dưới đất, lấy tay nắn nắn chỗ sưng ở bàn chân Hoà.
- Trời, làm gì mà mạnh tay vậy?
- Vậy mà mạnh à? Ngồi im em rửa nghe!
Nghị lấy panh cặp bông, nhúng nước nóng, chà đi chà lại trên miệng vết thương. Hòa sởn gai ốc. Nghị giữ chặt chân Hò a , dùng panh khơi miệng vết thương cho bật mủ ra. Hòa thấy buốt đến tủy sống, song cố cắn răng im lặng. Nhưng nào đã xong. Nghị lại lấy panh cặp bông, thọc vào miệng vết thương, thọctheo vết chông, như thông nòng súng. Hòa thấy như bị bào từng thớ thịt ra. Anh hất tung chân.
- Trời! - Hòa kêu lên, nhưng không phải vìđau, mà vì vừa làm một việc tai hại: cái hất chân của anh làm đổ cả hộp dụng cụ y tế, văng cả máu mủ vào người Nghị. Anh đợi một tiếng gắt. Nhưng không, cô gái chỉ khẽ lắc đầu, nhặt nhạnh những lọ thuốc nằm lăn lóctrên nền nhà rồi lại cắm cúi xức thuốc, băngcho Hoà.
Nằm kín trong tấm dù rồi, Hòa thầm nghĩ: “Nóinăng khô khan, nhưng lại không bẳn gắt, cũng lạ”.
Mất gần một tuần, vết thương mới sạch mủ, Hòa chưa đi làm đường được. Anh được phân công ở nhà giúp chị nuôi. Buổi sáng, Nghị đưa anh cái gùi đan bằng mây, bảo: “Anh đi kiếm môn thục nghe!” - hóa ra Nghị cũng là chị nuôi? - Hòa thầm hỏi rồi lẳng lặng xách giỏ đi. Công việc làm Hòa say mê. Những cây môn thục có cọng dài, lá to láng bóng mọc thành từng cụm rải rác khắp rừng.
Dọc đường hành quân, Hòa chưa ăn môn thục, nhưng đã nghe anh em kháo nhau: “Môn thục là vị thuốc bắc, bổ lắm!”. Hòa suy luận: “Là cây thuốc, chắc bổ ở củ. Vậy lấy củ thôi, chứ lấy lá làm gì cho nặng?”. Thế là Hòa vặt sạch cọng, lá, chỉ để củ lại. Anh mải mê lầntheo các bụi môn thục, hì hục nhổ nhổ, vặt vặt. Mãi đến gần trưa anh mới hăm hở bước về, như vừa lập được chiến công. Đặt cái gùixuống cái giàn cây ngoài sân, Hòa gọi:
- Cô Nghị ơi, lấy môn mà nấu này!
- Ủa, anh làm chi mà kỳ vậy? Môn thục chỉ ăn được cọng thôi, anh bỏ cọng ở đâu, để em đi lượm về.
- Trên kia kìa! - Hòa làu bàu trả lời và chỉ tay về phía cánh rừng non trên dốc.
Bước qua suối rồi, Nghị quay lại dặn:
- Em đang nấu mắm trên bếp. Anh coi nó sôi thì lấy dá hớt bọt nghe!
- Được rồi! - Hòa trả lời cụt lủn rồi vào bếp.
Nồi mắm kho bắt đầu sôi, đùn bọt lên. Hòa ngó quanh bếp: chẳng có cái rá nào hết. “Quái, tại sao lại lấy rá hớt? hay là cô ta bảo mình lọc mắm bằng rá?”. Bếp lửa cháy phừng phừng. Nồi mắm sôi bùng lên, ngầu bọt. Hòa chưa kịp nghĩ phải làm gì thì nó đã trào ra, dội xuống bếp xèo xèo. Tro bụi bốc mù lên. Hòa vội bắc nồi mắm xuống. Chợt nhớ có cậu Vinh bị sốt nằm trên nhà, Hòa chạy vội lên.
- Này, lấy rá hớt mắm là sao hả cậu? Cô Nghị bảo mình lấy rá hớt nồi mắm sôi, mà mình tìm mãi không có rá cậu ạ!
Chợt hiểu, đang sốt đùng đùng, Vinh cũng cười sặc sụa:
- Trời ơi, cô ấy bảo lấy cái vá, tức là cái muôi, để vớt bọt ấy mà. Tiếng trong này thường lẫn V với D, ông tướng ạ!
Chạy trở vào bếp, Hòa càu nhàu: “Thật ăn không nên đọi, nói không nên lời, rõ ngán!”.
Chẳng bao lâu, Hòa đã làm quen được với cuộc sống mới. Đơn vị của Hòa là trung đội Sơn Hải có nhiệm vụ làm và sửa đường, bắc cầu cho xe đạp thồ đi. Đơn vị đóng quân ởđoạn cuối của đường thồ.
Hướng Bắc, nó vươn mãi tới con đường ô tôđỏ lói chạy ngoằn ngoèo bên các sườn núi. Hướng Nam, nó bị dòng sông Thanh chặn đứng lại. Từ đây, người ta không dùng xe đạp thồ nữa, mà dùng thuyền vận chuyển hànghoá, vũ khí cho các đơn vị chiến đấu. Hòa đã nhiều lần xem xét, nghĩ cách bắc cầu qua con sông này để nối đường thồ dài mãi ra, nhưng chưa được. Sông quá rộng, một bên là bãi cát, một bên là vách đá dựng đứng, không có thế để bắc cầu. Giữa những ngày ấy thì Hòa bị gục: cơn sốt rét đầu tiên đã tấn công anh.
Nghị đưa thuốc ký ninh cho Hòa uống. Mới chưa hết một liều, Hòa đã thấy tai bùng lên, bùng lên lục bục như nồi bắp hầm. Nhìn vào đâu, Hòa cũng thấy như bị chói nắng. Miệng đắng như ngậm mật gấu, Hòa không ăn uống gì cả. Nghị ép Hòa ăn cháo, nhưng Hòa nuốt không nổi. Cổ họng luôn luôn ghê lợm, bắt Hòa nôn mửa suốt.
Đêm, mắt chong chong, không ngủ được, đầu buốt thon thót. Mãi, cơn sốt không lui. “Chết chăng?” - Hòa lẩm nhẩm. Nhớ tới chục ống ký ninh mà mẹ đã cẩn thận đựng trong một ống tre nhỏ dắt vào thành ba lô lúc Hòa ra đi, Hòa bảo Nghị:
- Tôi có thuốc, cô tiêm hộ nhé!
Nghị nói:
- Không được đâu, mới sốt phải ráng uống thuốc, chớ có tiêm.
Hoà rên rỉ:
- Trời ơi, ác độc vậy, không tiêm giúp, để tôi chết à?
Nghị cười ngặt nghẽo:
- Chết dễ vậy sao anh ơi! Thôi đưa thuốc, em cất dùm, khi nào sốt ác tính hãy tiêm!
Quả thật, cơn sốt phải lui. Nhưng người Hòa mềm oặt. Hòa nằm bẹp trên võng, tưởng không thể cất nổi cái đầu nặng trịch lên.
Nghị luôn luôn đến giật võng Hoà:
- Đừng nằm nhiều, bết người đi. Dậy cho thanh thản chút coi!
Hoà lại phải ngồi lên. Đầu váng. Mắt hoa. Hòacau có nhìn Nghị, nghĩ thầm: “Làm gì mà ámdữ vậy?”. Không để ý đến thái độ khó chịu của Hoà, Nghị lại giục:
- Anh xuống võng, đi lại cho nó quen chút nào!
Cứ thế, dường như ngày nào Hòa cũng không được nằm yên vì Nghị “ám”. Nhưng cũng lạ, anh thấy sức khỏe hồi phục khá nhanh...
Một hôm, Hòa được phân công ở nhà giúp chịnuôi. Nghị rủ:
“Sáng nay, anh và em đi cải thiện cho anh em nghen!”. Hòa tán thành, nhưng chưa biết “cải thiện” bằng cách nào! Sau khi dọn dẹp bếp núc, Nghị bảo Hòa cầm rựa, mang gùi cùng mình ra khu rừng đót. Rừng khu Năm có những cây đót thật kỳ diệu. Thân, lá trônggiống hệt cây dừa, nhưng lại không có quả như dừa. Quả của nó mọc thành buồng, giống như buồng cau, mỗi quả chỉ bé bằng đốt ngón tay. Thử ăn vào quả đót mà xem - ngứa móc họng ra. Vậy mà đồng bào dân tộc lại biết cáchtrích cuống buồng để lấy ra thứ nước tự lênmen, biến thành rượu ngon tuyệt: thơm, ngọt, nồng nàn vị rượu nếp. Nghị nói rằng ở giữa ngọn nó có một cái lõi mềm, ăn ngon như củ sắn (tức củ đậu ở ngoài Bắc), gọi là hũ đót. Để lấy được hũ đót, phải vạc vỏ dần dần từ ngoài vào.
Hai anh em lên tới rừng đót lúc mặt trời đã vượt khỏi ngọn cây cao nhất rừng. ánh nắngcố len lỏi qua những tán lá dày của rừng, tỏa hơi ấm xuống, nhưng vẫn không xua nổi cáiẩm lạnh muôn thủa của rừng già. Những cây đót mọc rải rác đó đây, chịu lép dưới những bóng cây cổ thụ ngút ngàn. Nghị bảo Hòa chọn một cây mọc nghiêng bên sườn núi, dễ chặt, còn mình chọn một cây nằm lưng chừng dốc. Hòa hăm hở chặt. Rựa thật sắc, nhưnggặp thứ gỗ dai, xốp, nên không ăn ngọt xớtđược. Hơn nữa, cái mũi khoằm của rựa luôn luôn làm vướng víu, nhiều khi khiến con rựa bật ngược trở lại.
Thỉnh thoảng dừng tay, Hòa vẫn nghe tiếng rựa của Nghị phồm phộp bập vào thân đót, nghe không dồn dập, nhưng cần mẫn, đềuđặn. Hòa càng chặt mạnh hơn. Mồ hôi túa raướt sũng lưng áo. Hòa quyết lấy được hũ đóttrước Nghị. Chẳng bao lâu, Hòa đã chặt đứt phăng ngọn đót, làm nó rơi đánh rầm xuống, lăn hai ba vòng rồi mắc kẹt ở gốc một cây trường. Hòa reo to:
- Xong một cây rồi, cô Nghị ơi! - rồi hăm hở chạy đến chỗ ngọn đót.
Nhưng Nghị lại cau mày:
- Trời ơi, ai lại chặt lìa nó ra, làm sao vạc được vỏ?
Hoà bối rối:
- Vậy phải bỏ à?
Nghị bảo:
- Thôi, ráng vạc dần vỏ mà lấy hũ, đừng bỏ phí mà phải tội với rừng.
Hai người hì hục lôi khúc ngọn cây đót lên chỗ bằng. Nghị lấy rựa róc lớp vỏ ngoài - tay này róc, tay kia kéo. Những lớp xơ lằng nhằng níu kéo lớp vỏ như muốn đánh vật với con người. Nhưng dần dần, hết lớp này đến lớp khác bị lột, để hiện ra cãi lõi trắng phau.
Nghị khéo léo vạc nốt những đoạn xơ ở đầu,lấy được một hũ đót to bằng cái bi đông. Cô lấy rựa, xắt một miếng nhỏ, đưa cho Hoà: “Anh ăn thử coi!”. Hòa bỏ ngay miếng đót vàomiệng, nhai rau ráu: ngọt và mát lịm.
Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, nhưng không đủsức xuyên thủng lớp mây mù dày đặc của bầutrời tháng mười. Rừng đã thoáng đãng ra, nhưng vẫn ẩm ướt, bốc lên mùi lá cây mục ngầy ngậy, nồng nồng. Không khí lành lạnh. Nhưng Nghị và Hòa vẫn thấy nóng ran.
Họ vừa hạ xong cây đót thứ tám. Những hũđót nằm lăn lóc trong gùi; những chỗ bị bầmvập đã ngả màu cánh gián. Nghị bảo: “Ta nghỉtrưa, rồi xuống suối bắt ốc, về nấu cơm chiềulà vừa”. Cô xăng xái đeo gùi, rảo bước theotriền dốc về phía suối. Hòa ngoan ngoãn bước theo. Bây giờ anh mới để ý thấy Nghị có dángngười săn chắc, với những bước đi thoăn thoát mà vững vàng. Cô rảo bước trên con đường trơn nhẫy mà không hề trượt ngã. Đến bờ suối, Nghị đặt gùi lên một tảng đá. Dòng suối, mặc dù phải luồn lỏi giữa khu rừng, vẫn đón được những tia nắng hiếm hoi của bầutrời đầu mùa mưa, hắt sáng lên gương mặt Nghị, làm ngời lên đôi mắt to, lấp lánh của cô.Nghị bảo Hòa lượm củi, nấu cơm, còn mình thìlội xuống suối kiếm ốc, cá. Hòa lại ngoan ngoãn làm theo. Tìm kiếm mãi, Hòa mới lượm được một nhúm củi khô. Nhưng không sao. Chỉ cần chừng ấy làm mồi là đủ. Hòa đã học được ở Nghị cách đun bằng củi trường tươi. Cây trường có vỏ đỏ, bị chặt thì ứa ra thứ nhựa đỏ như máu.
Gỗ của nó thẳng thớ, dễ chẻ, có thể tướcmỏng như đóm tre. Thứ đóm ấy mau khô, chỉcần dựng cạnh bếp lửa một lúc là đốt đã cháy đùng đùng. Bây giờ, bên bếp củi, Hòa đã có một lô đóm củi trường.
Đốt xen lẫn với những cành tre khô, củi trườngnổ tí tách, bắn ra những hoa lửa trông đến là vui mắt. Vừa nấu cơm, Hòa vừa chăm chúnhìn Nghị đang lom khom dưới suối. Đã nhiều lần Hòa tự hỏi:
vì sao Nghị có thể sống một cách vô tư như thế giữa một cuộc sống gian nan là vậy? Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình Nghị, Hòa giải đápđược một phần.
Nghị sinh ra trong một gia đình ngư dân ởvùng biển Sơn Tịnh, sâu trong vùng kiểm soát của ngụy quyền Sài Gòn. Những năm tuổi thơ của Nghị gắn liền với những nỗi nhọc nhằn khi biển động, lúc trời nắng lửa, với những trận gió cát mịt mù. Nhưng cái dữ dằn của thiên nhiên lại không dày vò Nghị bằng cái dữ dằn của con người. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Nghị phải đi ở cho một người bà con xa. Tiếng là người nhà, nhưng bị bóc lột chẳng kém người dưng nước lã. Mới hơn chục tuổi đầu, Nghị phải làm đủ việc, từ vá lưới, làm mắm, phơi cá tới nấu cơm. Một tiếng nói yêu thương, Nghị không hề được nghe. Suốt ngày chỉ cắm cúilàm lụng, để rồi thỉnh thoảng giật thót mình khinghe tiếng quát của bà thím và lâu lâu lăn lộn một lần trong trận đòn oan của ông dượng.Rồi quê Nghị được giải phóng. Một không khí khác lạ đã tràn đến vùng biển này.
Cũng là cuộc sống lao động, nhưng Nghị thấy mọi người cư xử với nhau thân ái hơn, hay quan tâm đến nhau hơn. Nghị được sinh hoạt thiếu nhi, được học hát, thật vui. Khi quân Giải phóng rút về căn cứ, Nghị trốn gia đình theo một đơn vị hậu cần. Từ đấy, Nghị phải nếm trải những gian lao mới, nhưng cũng được biết thế nào là bình đẳng và thương yêu. Dạo ấy, cuộc sống ở vùng căn cứ thiếu thốn lắm. Đơn vị hầu hết là những người lính trẻ quê ở miền Bắc, làm nhiệm vụ vận chuyển hàng từ miền Bắc vào. Cõng trên lưng súng đạn, lươngthực, thực phẩm, quân nhu để tiếp tế cho cácđơn vị chiến đấu phía trước, nhưng họ chỉ sống bằng những thứ tự túc được. Bữa ăn chủ yếu là sắn, rau rừng với mắm cái và thường thì không đủ no. Nghị thường được các anh dành riêng cho xuất cơm không độnsắn, với vài con cá nhỏ xíu bắt được ở suối, “để có sức mà lớn” - như các anh thường nói. Anh trung đội trưởng còn cho Nghị cả cái võng dù, ấm mà nhẹ, anh được cấp khi rời hậu phương, thay cho tấm võng nilông mỏng, lạnhlẽo. Tối tối, các anh lại mở đài cho Nghị nghe - các anh bảo rằng đó là tiếng nói thân thương được truyền đi từ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa. Rồi các anh dạy Nghị học.
Khi thì học vào lớp buổi tối, bên ngọn đèn dầu leo lét. Lúc lại học truyền miệng ngay trên rẫy, khi đang làm cỏ cho ngô. Sống giữa núi rừng thâm u nhưng trong tình thương yêu của đồngđội, Nghị vẫn lớn lên, khỏe mạnh cả về thânthể và tinh thần. Bởi thế, nhiều khi Nghị nói rất chân thành: “Đi làm cách mạng sướng hơn ởnhà nhiều”. Cũng bởi thế, cô vượt qua sự vấtvả, đói cơm, lạt muối mới nhẹ nhàng làm sao.Đồng thời, cuộc sống khắc nghiệt đã luyện cho Nghị thói quen sống nghiêm khắc - nghiêm khắc với chính bản thân mình.
Mải suy nghĩ, Hòa không biết Nghị đã đến bênbếp từ lúc nào.
Cô bày lên tấm lá chuối bốn con cá nhỏ đã làm sạch, một nắp cặp lồng ốc đã chặt trôn và một cái bắp chuối. Cô hồ hởi:
- Em chiêu đãi anh Hòa một bữa cơm Xã hội chủ nghĩa nghen!
Hoà giật mình bứt khỏi dòng suy nghĩ:
- Chà, Nghị giỏi quá, làm sao lại bắt được cả cá thế này.
- Giỏi chi đâu anh, liệng đá rầm rầm xuốngsuối, cá sợ rúc vô hang, lùa tay bắt đại được mấy con cá mù thôi mà.
Hai anh em vừa ăn cơm bên con suối róc rách tiếng nước chảy vừa thủ thỉ tâm sự. Đến bây giờ Hòa mới thấy rằng Nghị thật giàu tình cảm. Hình như hằng ngày, do công việc dồn dập,do những căng thẳng của cuộc sống mà tình cảm ấy không có dịp được bộc lộ ra. Còn bâygiờ, trong cái tịch mịch của rừng già, bên tiếngsuối róc rách, hình như dòng tình cảm vốn trànđầy của cô gái mới lớn ấy mới có dịp được khơi nguồn, tuôn chảy dào dạt. Nghị kể vềcuộc sống cơ cực của mình ở quê, những trậnsốt rét kinh khủng khi mới lên chiến khu, bướcđường trưởng thành khi được sống giữa một đơn vị quân đội. Tại đó, cô đã được anh em dạy cho từ mù chữ lên lớp bốn, rồi lại được đi học lớp y tá ngắn ngày. Tại đó, cô bắt đầu làm quen với những cuốn sách văn học có giá trị như Ruồi trâu, Thép đã tôi thế đấy, Những người khốn khổ, Đội cận vệ thanh niên... Cô ngừng kể và hỏi:
- Ngoài đó, Xã hội chủ nghĩa sướng lắm hảanh?
Hoà chưa kịp nói gì thì Nghị đã tự trả lời:
- Sướng thiệt đó chớ. Nội chuyện được đi học,được hiểu biết, đã sướng hết chỗ nói rồi. Mànghe nói anh học cao lắm hả?
- Cũng đang dở dang đại học, cao gì đâu.
- Em thì mới đang bì bạch lớp tư. Em chỉ mong ngày mai thắng lợi rồi, sẽ được học lên đại học thôi...
Cứ thế, Nghị vừa hỏi lại vừa tự trả lời và say sưa nói tới “ngày mai chiến thắng”. Cái ngày mai ấy như một con chim dẫn đường luôn luôn bay ở phía trước, cất tiếng hót lảnh lót chào đón Nghị.
Cơm nước xong, hai anh em cùng đi bắt ốc.Vào những ngày này, rừng đã bắt đầu bị những cơn mưa xối xả đầu mùa tấn công.
Những dòng suối đang trong vắt bỗng đục ngầu, nước dâng cao, trôi ào ạt. Nước chảy băng băng, cuốn theo đủ thứ nằm trong lòng nó: từ rác rưởi đến sỏi cát và cả những con cá, con ốc nhó bé. Để khỏi bị nước cuốn đập vào đá vỡ tan tành, bầy ốc khôn ngoan men vào bờ, chui tụt vào trong các hốc đá. Khi nước rút, chúng vẫn cố thủ ở đó để đề phòng những trận mưa khác. Bây giờ, hai anh em chỉ cần đi dọc mé nước, luồn tay vào các hốc đálà có thể vốc ra từng vốc ốc.
Thứ ốc đá này chỉ to bằng đầu ngón tay cái, nhưng nấu canh ngọt phải biết. Mà cách ănmới lạ chứ: chặt trôn, bỏ vào nồi nấu lẫn với rau, khi ăn thì bốc từng con mà hút lấy thịt từ trong vỏ ra.
Mùa mưa đã thực sự đến rồi. Bầu trời xámngắt, lúc nào cũng mọng nước. Mưa tầm tã, cơn này chưa kịp dứt, cơn khác đã sầm sập đuổi tới. Con suối nhỏ hiền lành phía dưới nhà bếp bỗng rộng ra dữ tợn. Đêm, nằm nghe tiếng mưa xối trên lá cây mà buồn nẫu cả ruột.
Xen vào tiếng rì rầm của mưa là tiếng nướcsuối cuốn ào ào, sùng sục, lại có cả tiếngnhững hòn đá ông sư lăn theo nước cùng cục,cùng cục nữa. Mùa mưa kéo theo bao nhiêu khó khăn cho cuộc sống ở chiến khu: giao thông tắc nghẽn, lương thực thiếu hụt, bệnh tật bùng ra.
Đơn vị đã cạn gạo rồi. Những bao sắn khôđược chuyển từ nơi sản xuất về cũng nhanh chóng rỗng đi. Đường xuống đồng bằng bị kẹt do nước sông Thanh dữ quá. Phải đi ngược ra phía Bắc, lĩnh gạo ở trạm “Xã hội chủ nghĩa”. Khu Năm có hai loại trạm giao liên:
trạm “Giải phóng”, bắt đầu từ đoạn đường cắt ngang Khâm Đức trở vào, do lực lượng của Mặt trận Dân tộc giải phóng phụ trách. Còn từ đó trở ra do đoàn 559 Quân đội nhân dân Việt Nam phụ trách, mà không biết ai đã đặt cho cái tên thật đáng yêu: Trạm “Xã hội chủ nghĩa”.
Nghe nói sắp được ra trạm “Xã hội chủ nghĩa”nhận gạo, Nghị nằng nặc đòi đi. Nhưng Nghị đang sốt. Nghị nài nỉ trung đội trưởng: “Anh Tuyên, em sốt nghĩa vụ đó mà, bớt liền thôi. Cho em đi với. Em đi ra cho biết trạm “Xã hộichủ nghĩa” là thế nào”. Với Nghị, những chữ “Xã hội chủ nghĩa” sao hấp dẫn và thiêng liêng nhường vậy. Chưa một ngày ở miền Bắc, Nghị chưa hiểu Xã hội chủ nghĩa cụ thể ra sao. Nhưng cứ thấy miền Bắc cử con em mình - những chàng trai mạnh khoẻ, thông minh, có học thức - vào cùng đồng bào quê hươngchiến đấu, cứ thấy miền Bắc luôn luôn chi việncho chiến trường từ vũ khí đến lương thực, thực phẩm, Nghị cũng mường tượng được ở đó con người sống tốt đẹp thế nào. Đó là ngọn lửa trong đêm, là tiếng hú gọi của đồng đội giữa rừng hướng Nghị đi tới. Đó là niềm tin, là hy vọng, tạo thành sức mạnh giúp Nghị vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống chiến khu.
Nhưng, đúng ngày lên đường cõng gạo thì Nghị bị quỵ hẳn.
Lần này, cơn sốt đến dữ dội quá, khiến Nghịkhông gượng dậy được.
Trước lúc lên đường, nắm bàn tay giá lạnh của Nghị, Hòa động viên: “Cố uống thuốc cho khoẻ, về anh sẽ có quà Xã hội chủ nghĩa cho em!”.
Đến ngày thứ chín, Hòa và anh em mới cõnggạo về. Cách nhà nửa ngày đường, gặp cậu Vinh đi lên Tiểu đoàn bộ, Hòa hỏi thăm mới biết rằng Nghị đang sốt bê bết, có chiều nguy kịch, đã uống thuốc liều cao lắm rồi mà không bớt. Giàu nghị lực như Nghị mà bây giờ cũng phải nằm bết trên võng. Không thể đưa Nghị đến bệnh xá Trung đoàn được, vì phải băng qua sông Nước Mỹ, nước lớn quá.
Mà thuốc tiêm thì cả đơn vị không còn một ống nào... Nghe nói đến đó, Hòa giật tay Vinh:
- Sao, cậu bảo phải có thuốc tiêm à? Trời ơi, chính Nghị giữ hơn chục ống thuốc của mìnhchứ đâu. Sao không lấy mà tiêm cho Nghị?
- Có ai biết là Nghị giữ thuốc tiêm trong mình đâu...
Hoà xốc gùi gạo, bươn bả đi. Những ý nghĩ u ám cứ bao phủ đầu óc anh. Có kịp không hả em? Anh về lấy thuốc tiêm cho em có kịp không đây. Trời ơi, nếu em có làm sao thì anh ân hận biết chừng nào! Anh có quà Xã hội chủ nghĩa cho em đây - một đôi dép nhựa Hải Phòng có quai hậu, hai chiếc cặp ba lá. Đứa bạn đồng hương của anh tặng anh để anh tặng em đây... Nghị ơi, cố chờ anh nhé!
Tới nhà, quăng vội gùi gạo lên giàn, Hòa chạyxồng xộc lên lưng dốc, nơi Nghị ở. Cái giá lạnh của rừng mưa tràn ngập căn nhà. Một chiếcvõng treo ở góc nhà, phủ bọc kín mít. Im lặng và lạnh lẽo đến rợn mình. Chỉ có tiếng mưa rả rích một điệp khúc buồn tẻ. Không kịp lau khô tay, Hòa đến bên võng, mở tung bọc ra. Hòa muốn trào nước mắt: Nghị nằm co quắp trong tấm dù hoa, trán lạnh ngắt. Hòa lay lay:
- Nghị! Nghị! Tỉnh lại em! Anh về đây!
Nghị từ từ mở mắt - đôi mắt to, đen, vốn luôn luôn sáng lấp láy, nay dại hẳn đi. Nghị chỉ mấp máy môi: “Anh Hò a !”, rồi lại thiếp đi. Hòa cuống quýt lay Nghị:
- Nghị, Nghị! Thuốc đâu, sao không tiêm?
Nghị lại hé mắt, nói đứt quãng:
- Trong ống tre... ba lô, dành cho anh...
- Trời ơi! - Hòa kêu lên mà nghe tim mình nhói buốt. Thương quá! Sao lại nghiêm khắc tớicứng nhắc như vậy hả em?
Phủ bọc võng lại cho Nghị, Hòa lại góc nhà tìm hộp kim tiêm đem luộc và chuẩn bị thuốc.Chuyến đi vừa qua, anh được anh bạn đồng hương tặng cho một hộp thuốc B12. Nhờ chịu khó học tập khi tập trung huấn luyện để đi B, Hòa tiêm khá thành thạo.
Thuốc tiêm đã làm lui cơn sốt, nhưng Nghị vẫnđuối sức lắm.
Mưa thì tầm tã không dứt. Làm sao đưa Nghịđi bệnh xá được. Có lẽ hồng cầu của Nghị chỉ còn vài triệu. Hòa nhìn Nghị nằm mê man mà tâm trí rối bời, ruột gan quặn thắt. Rồi anh quyết định: phải băng qua sông Nước Mỹ, mờibác sĩ về.
Trong chiến trường, có những việc được giải quyết ngoài sức tưởng tượng của con người. Trường hợp Nghị là một. Cả một tốp bác sĩ, xét nghiệm viên đã cùng Hòa vượt qua đượcsông Nước Mỹ hung dữ chỉ bằng sợi dây mâycăng ngang sông. Anh em đã xét nghiệm và lấy máu của ba người, trong đó có Hoà, truyền cho Nghị. Thế mà Nghị dậy được. Chẳng bao lâu sau, Nghị lại khỏe mạnh, lại xốc vác mọi công việc của đơn vị. Nghị thường đùa: “Em được tiếp máu Xã hội chủ nghĩa nên mạnh hơn trước nhiều!”.
Hôm ấy, vào buổi chiều tà, Nghị đi lấy măngvề. Chưa kịp ăn cơm, cô đã chạy đi tìm Hò a , hồ hởi khoe:
- Anh Hoà, em tìm ra chỗ bắc cầu rồi!
- Sao, chỗ bắc cầu nào?
- Bắc cầu qua sông Thanh ấy. Mải đi kiếmmăng, em đã vượt qua khu rừng nứa, sang tuốt ngọn núi bên kia. Ai dè, ở đó hai bờ sông gần nhau quá, lại có những tảng đá chạyngang sông.
Nơi Nghị tìm ra quả là tuyệt vời: hai bờ sông có độ cao tương ứng, giữa sông lại có những tảng đá lớn nối đuôi nhau, làm trụ cầu thật phù hợp. Qua bên kia sông, vượt khỏi mỏm dốc là đến con đường 14, xưa kia địch làm, nay vẫn bỏ không.
Phương án làm cầu của Hòa được đơn vị thựchiện thật chóng vánh. Anh em hạ những cây gỗ lớn hai bên bờ bắc lên những tảng đá, rồighép gỗ nhỏ và phên nứa thành chiếc cầu khávững chãi.
Con đường thồ được nối dài, vượt sông Thanh, vươn sang tận đường 14, kéo xuống tận Tý, Xé. Chiếc cầu ấy mặc nhiên được anh em gọi là cầu Cô Nghị. Cũng từ đó, đơn vị kiếm thêm được một khoảnh đất mầu mỡ bên kia sông làm nơi trồng rau, khoai. Thỉnh thoảng Nghị ra đó kiếm rau tươi về cho đơn vị.
Dạo này, chuẩn bị sang giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, bị tấn công liên tục ở đồng bằng, bọn địch điên cuồng đánh phá lên căn cứ của ta. Lũ máy bay B57 bay lẻ, thỉnh thoảng quăng xuống núi rừng những trái bom nổ chát chúa. Đã có những trận B52 rải thảm đó đây. Tuy không chà đi xát lại tạo thành thảm bom dày như trước, nhưng mỗi loạt bomthả từ ba chiếc bay song song cũng đủ tạo ra một thảm chết dài cả cây số. Dọc đường thồ, đã có vài đoạn bị tấm thảm đó phủ lên: cây cối đổ nhào, đất đá bị cày xới đỏ quạch, tạo thành những hố sâu hoắm. Đơn vị của Hòa bận túi bụi với việc sửa đường, bắc cầu. Nghị quay tròn với công việc phục vụ: chăm sóc người ốm, kiếm thức ăn và nấu cơm. Đôi ba ngày, Nghị lại đi qua bãi rau bên kia cầu Cô Nghị một lần để lấy rau lang về. Thường thì phải sau bữa cơm chiều, khi chim rừng đã xào xạc về tổ, Nghị mới cõng gùi rau nặng trịch về nhà. Những hôm như thế, Hòa ra tận gốc sấu bên bờ sông Thanh đón Nghị. Gốc sấu già sần sùi đã trở thành nơi in dấu những kỷ niệm dịu êmcủa hai người. ”Chừng nào em mới được ra miền Bắc, anh Hoà?” Nghị đã hỏi Hòa câu hỏi ấy không biết bao nhiêu lần. “Chừng nào, chừng nào”... Hòa day dứt, khổ sở. Bởi anh không sao trả lời được câu hỏi ấy.
Hôm nay, Nghị lại ra bãi sông hái rau lang.Chim muông xao xác về tổ. ánh nắng quái chiều đang dần dần nhạt đi. Chỉ bãi sông và chiếc cầu là còn nhận được những tia nắng cuối ngày, nổi bật lên giữa mầu xám của núi rừng. Nhìn chiếc cầu mang tên mình, Nghị lại thấy lòng tràn ngập một tình cảm đằm thắm. Các anh trong trung đội đã bỏ bao công sức làm nên chiếc cầu, Nghị làm được gì mà được gắn tên mình cho chiếc cầu? Thật là những gì tốt đẹp nhất, các anh ấy đều dành cho mình. Nghị bỗng thấy chiếc cầu đẹp lạ lùng. Dườngnhư nó đã bứt khỏi mặt đất, lửng lơ giữa bầu trời, khoe những đường nét gãy gọn, khỏe khoắn, còn phía dưới nó, bụi nước đang ánh lên muôn hồng ngàn tía như ở cõi mơ nào đó. Bỗng có tiếng gầm gào quái dị của bầy B52. Đúng lúc Nghị đi đến giữa cầu thì đất trời rungchuyển. Một quầng lửa bùng lên, bốc lên cao, cuốn theo cả những mảnh vụn của chiếc cầu, thả rơi lả tả xuống lòng sông. Nghị cũng đã tan biến vào cõi mịt mù đó.
Chỉ mấy phút sau, cả Trung đội Sơn Hải đãtập trung bên mố cầu, lặng đi trong nỗi đau vô hạn. Hòa đăm đăm nhìn vào cái nơi mà anh đã quá gắn bó - cầu Cô Nghị - bây giờ chỉ còn làmột khoảng không lạnh ngắt.
Dòng sông Thanh đục ngầu như giận dữ, vật vã băng mình qua hẻm núi, cuồn cuộn cuốn về xuôi...
Cứ xuôi mãi con sông này, sẽ tới một dòngsông lớn hơn, chảy êm ả giữa một đồng bằngphì nhiêu. Đó là quê Nghị. Dòng sông có đưaNghị về quê không? Và em có biết rằng cứngược mãi theo con sông này, sẽ gặp con đường đất đỏ vượt Trường Sơn ra miền Bắc.
Ngọn lửa dẫn đường của Nghị ở phía đó, Nghịcó vượt được thác ghềnh mà tới đó không?...
Ngày 14/6/1970
Chúng tôi dồn sức vào việc trồng sắn. Phải phấn đấu cho được 80.000 gốc! Rất gay go là hom sắn ở xa quá, phải đi một ngày mới có.Sáng dậy, ăn cơm xong, mỗi người mang một nắm cơm, một con rựa xuống phía Đắc Lon, rúc vào các rẫy sắn cũ mà chặt cây sắn.
Rồi bó thành bó khoảng 100 cây mà cõng về.Leo dốc, leo dốc chí tử, thở phì phò. Gùi cây sắn đè mọp lưng xuống.
Gặp đồng bào đi lấy nước đót và họ cho uống đến say. Ở rừng núi có thứ đót thật hay. Khi nó ra buồng, người ta chặt buồng gần sát cuống, xẻ rãnh rồi hứng ống tre ở dưới. Nước trong cây đót chảy ra một cách nhỏ giọt, mỗi ngày được khoảng 1, 2 lít. Thật kỳ lạ, thứ nước đó vừa ra không khí là lập tức lên men, nồng như bia và pha vị ngọt. Uống ngon và say như nước rượu nếp vậy. Tôi uống một ống nhỏ, vậy mà mặt cũng đỏ bừng, ngườichuyếnh choáng.
Chúng tôi trồng sắn xen trong lúa, mỗi công được khoảng trên 1000 gốc.
Ngày 17/6/1970
Giữa lúc công việc đang dồn dập thì Ban lạirút 3 người. Chỉ tiêu sắn rút xuống còn 60.000gốc, các thứ khác vẫn giữ nguyên.
Phải ráng hết sức Lan và Cứu hết sức bịn rịn lúc chia tay chúng tôi. Anh em từng chunglưng đấu cật vượt gian khổ gây dựng cơ sở,nay xa nhau sao khỏi thương nhớ? Chuyện trò tâm tình với nhau tới 11, 12 giờ đêm.
Rồi ghi lưu niệm. Tặng vật kỷ niệm cho nhau.Tôi thấy cái tập thể này rất đáng yêu. Ai cũng vậy, đều hăng hái, biết lo lắng việc chung và rất thương yêu, đùm bọc nhau.
Ngày 1/7/1970
Tôi đón ngày sinh thứ 24 của mình ở cơ sở sản xuất. Nhanh thật, đã 3 lần rồi tôi đón sinh nhật của mình ở môi trường sống mới - nơi đầy gian khổ. Rất đáng mừng là trong hoàn cảnh đó, tôi vẫn đương đầu chịu đựng đượcvà vẫn lớn lên.
Hồi này chúng tôi tập trung vào việc làm cỏlúa, giữ bắp, trồng sắn. Công việc quá dồn dập, người lại ít nên chúng tôi phải làm rất căng. Ngày làm suốt, không nghỉ trưa, tối về lại lẫy bắp hoặc làm các công việc linh tinh khác. Giữa những ngày bận rộn này, đồng bào đã đến làm giúp chúng tôi - chúng tôi giúp lại muối, vải, rựa... Đồng bào ở đây thuộc dân tộc Kà Dong. Bà con rất nghèo, thiếu ăn và thiếu mặc. Tôi không khỏi ái ngại khi thấy những cô gái đang ở tuổi dậy thì mà phải mặc những chiếc áo rách rưới, hở cả da thịt. Có những em bé chỉ khoảng 8, 9 tuổi cũng đến làm - làmnhư người lớn vậy. Tôi thấy thương chúng vô hạn. Ở cái tuổi đó, đáng lẽ các em chỉ việc ăn, học và chơi. Song cuộc sống khắc nghiệt quá,nó đòi hỏi các em phải vươn tới quá sức mình. Tôi trò chuyện với đồng bào và thấy thôngcảm với họ.
Tôi cũng học tiếng Kà Dong và nói được đôicâu.
Bắp trỉa trong lúa của chúng tôi rất tốt, câyvươn cao, trái mập mạp. Nhưng lũ sóc phá quá. Chúng leo lên cây, gặm lấy gặm để những trái đã căng hạt. Do vậy, chúng tôi phải thay nhau đuổi chúng. Lũ sóc rất khôn, cứ thập thò ở cửa rừng, gọi nhau sọc sọc, hễ thấy vắng là phóc ra rẫy ăn bắp liền. Đặc biệt là một loại sóc nhỏ, chúng tôi gọi là con đồi. Chúng chỉ to hơn con chuột nhắt một tý, lông mầu xám, có 3 sọc đen dọc sống lưng, nhanh nhẹn vô kể. Thoắt cái, chúng đã điu vào trái bắp mà gặm nhấm, thấy động, thoắt cái, chúng đã vọt mất vào rừng, không làm sao bắn được.
Mùa này dễ đau ốm quá. Nắng rất dữ dội.Song lại có những cơn mưa đột ngột. Hơi đấtxông lên nồng nồng khó chịu. Muỗi và dãn phát triển với mức độ kinh khủng. Ngồi ăn cơm trưa ở rẫy, muỗi lao vào chích khắp người. Dãn bu đầy chân, đập một cái phải chết hơn chục con. Đập hết những con này thì lập tức hàng chục con khác lại bu vào liền và thi nhau đốt.
THƯ GIA ĐÌNH
Hà Nội, ngày 1 tháng 7 năm 1970
Con yêu dấu!
Mỗi lần cầm bút viết thư cho con, bố lại đặt câu hỏi: liệu thư này có đến tay con không và bao giờ gia đình lại nhận được thư của con? Có thể nói không tháng nào gia đình, bố mẹ không biên thư cho con và từ 7/1969 đến nay 7/1970 bố mẹ chỉ nhận được 2 thơ của con. Có lẽ gia đình, nhất là mẹ con, được gặp con, nói chuyện với con trong giấc mơ nhiều hơn, sau những ngày mong mỏi tin tức của đứa con yêu dấu! Bức thư dịp Tết của con gửi về khu sơ tán của trường, sau một thời gian đi nơi này nơi khác, cuối cùng mới đến tay bố mẹ.
Gia đình được thư của con sau 5,6 tháng longhĩ, bố mẹ và các em con rất phấn khởi. Các em con thay phiên nhau đọc thơ của con, vì đứa nào cũng muốn đọc trực tiếp thơ của anh Long của nó. Con sống, lao động, công táctrong hoàn cảnh khó khăn như vậy, mà vẫn giữ vững được ý chí phấn đấu, tinh thần lạc quan cách mạng, bố mẹ và các em rất vui mừng.
Trước hết bố báo tin để con rõ gia đình ta cùng với trường đã chuyển cả về Mễ Trì - Hà Nội, ở địa điểm cũ, cho nên con đừng viết thư về khu sơ tán nữa. Tình hình sản xuất, lao động ở ngoài này chắc con cũng đã theo dõi được, bố chỉ nói thêm là ở ngoài này mọi người, kể cả các học sinh của bố, đang ra sức đóng góp phần trực tiếp của mình vào việc sản xuất ra của cải vật chất, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn của từng người.
Gia đình ta, cùng với sự biến chuyển chung, cũng có những điểm mới, phấn khởi.
Anh Đức sau khi tốt nghiệp đại học cơ khíchính xác vào loại ưu đã về nước hôm 2/4 và hôm nay công tác ở ủy ban Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Anh không béo song rất khỏe mạnh, anh có mang được ít quà về, chỉ tiếc là con ở xa nên không gửi quà cho con được.
Em Phúc, sau mấy năm công tác tốt, được chọn đi thực tập ở Liên Xô. Em lên đường từ10/1969 và hiện nay đang ở Liên Xô, cách Kiép 100km. Em thường xuyên biên thư về. Em rất khỏe mạnh, và sẽ thực tập trong 3 năm, sau 6 tháng học tiếng Nga, em sẽ về nước vào khoảng 6/1973.
Em Việt hiện nay là sinh viên trường Đại họcTổng hợp. Em học ngôn ngữ, khoa văn. Em học vào loại khá, đang học thi học kỳ II 1969 - 1970 trước khi nghỉ hè. Em học hệ 4 năm 1/2. Em được học bổng như toàn thể sinh viên của trường đại học ở miền Bắc.
Ngọc có những tiến bộ đặc biệt. Em đang họcchuyên ngoại ngữ, tức lớp năng khiếu ngoại ngữ, em học vào loại giỏi cả về phổ thông và ngoại ngữ. Em học tiếng Anh. Cuối năm vừa tổng kết xong, em là học sinh tiên tiến, được xếp vào loại ưu tú, được ghi âm tiếng Anh để phát ra trong hội nghị tổng kết. Em được học bổng mỗi tháng 22đ và có rất nhiều triển vọng Em Diệp cũng là học sinh tiên tiến cuối năm. Em học khá toàn diện.
Lan học vào loại xuất sắc, nhất là về văn và toán (được khen thưởng cuối năm).
Em Thủy được lên lớp 3, em học vào loạitrung bình khá. Em hơi gầy, yếu, nên cũng không muốn ép em học nhiều.
Bố mẹ vẫn công tác với hết khả năng củamình, dĩ nhiên cùng với thời gian, có già hơntrước, nhất là sau 3, 4 năm sơ tán, nhưng rất phấn khởi vì các con mau chóng trưởng thành.Gia đình, nhất là mẹ con, nhớ con và thươngcon nhiều lắm. Câu hỏi thường đặt ra là:
“Bao giờ con trở về với gia đình?”. Lẽ dĩ nhiên là bao giờ con hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, và có thể là đến ngày Nam Bắc thống nhất. Mong con về, tuy cũng không mong con vềquá sớm mà chưa hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Cùng với sự trưởng thành của các con, kinh tếgia đình đỡ vất vả hơn trước con ạ. Em Ngọc, em Việt, anh Đức và bố đều có xe đạp đi cả con ạ. Nhà có Radio để nghe tin tức và ca nhạc hàng ngày.
Bố mẹ nói để con yên tâm, đừng lo nghĩ gì về gia đình.
Cô Chung, chú Phương và các em Tiến, Quang,.... vẫn khỏe mạnh, bình yên. Quangđược lên lớp. Em Tiến đang theo lớp 7.
Ngoài này đang nâng cao chất lượng giáo dục nên các kỳ thi cuối cấp đều tiến hành chặt chẽhơn trước, quy mô vào các trường đại học cũng vừa phải đi để có điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo.
Nhân dịp anh Đức về, bà Chắn và cậu Hiếu có về thăm gia đình ta. Cụ nội, bà Chắn, trẻ Nghiêm, ông Thành vẫn được bình yên và thường nhắc tới con luôn.
Con yêu dấu, thời gian đi mau thực. Thấm thoắt bố đã sắp 55 tuổi rồi con ạ. Vui mừng vì các con mau chóng trưởng thành. Bố đặt nhiều hy vọng ở con, đứa con được tôi luyện trong thực tế đấu tranh cách mạng.
Nhớ con lắm, mong thư con nhiều lắm. Con nhớ biên thơ về địa chỉ cũ ở Hà Nội, cho bố hoặc cho mẹ ở trường Đại học Ngoại ngữ - Thanh Xuân (Mễ Trì, Hà Nội).
Chúc con luôn luôn mạnh khoẻ, vượt được hết khó khăn, gian khổ, phấn đấu tốt và đạt được nguyện vọng tốt đẹp của con.
Bố của con
Phạm Đức Hoá.
Từ ngày 23/7 đến 14/8/1970
Tôi và Giáo đi Kỳ Long (Tam Kỳ, Quảng Nam)mua hàng và tuyển người. Thật là một chuyến đi hết sức chật vật.
Khi mới bước chân xuống đường thì đã nghe tin địch càn ở Trà My. Song chúng tôi quyết bám đường đi bằng được. Tới nơi, mới biết địch đã rút rồi.
Tới sông Trường, đi trên đường chiến lược, tôi thấy dưới bờ sông có một cô gái đang vội vã bước đi. Trông dáng người, tôi biết ngay là giao liên. Tôi hỏi:”Về trạm Hòa đi đường nào đồng chí?”. Cô ngước nhìn lên: “Đi đường nớ!” và vẫn hối hả bước. Đoạn sông này địch rất chú ý: Moranh chúng lượn suốt, hễ thấy gì khả nghi là chúng gọi pháo dập tới vô hồi, gọi rọ, HUIA tới cắn xé. Dọc sông, đất đai đầy thương tích. Cây cối nát nhừ. Những nấm mộ còn nằm rải rác đó đây. Đó chính là nguyên nhân làm cô giao liên đi như bị ma đuổi vậy. Cô đi quá nhanh, gần như là chạy. Chúng tôi theo hút cô, bàn chân dường như không bám đá sỏi và cát ven bờ, song lại đạp nước bắn tung toé, khiến quần áo ướt mèm mỗi khi phải lội ngang sông.
Thật chết tiệt, cái bao mang của tôi bị sút quai. Đành phải ngồi cột lại. Thế là mất hút cô giao liên, bị lạc mất gần buổi đường. Tới 3 giờ chiều mới tìm được vào trạm. Cũng may, lúc đó trời mới giáng cho một cơn mưa đá, mưa rào dữ dội. Những viên nước đá to bằng đốt ngón tay rào rào rơi xuống, lóng lánh nhưnhững giọt nước mắt khóc cho cuộc đời của nó ngắn ngủi quá, vì chỉ một lúc nó đã tan biến thành nước và bị đất hút lấy hút để... Tôi lượm mấy viên đá cho vào miệng, cố tìm lại cảm giác mát lạnh và thú vị khi còn ở Hà Nội ăn kem,uống cafê đá. Song vô hiệu. Mát lạnh thì có,nhưng chẳng thú vị gì. Lạt lẽo.
Phải chờ trạm một ngày mới có trực (ôi, chờvà trực). Tôi và Giáo vào cơ sở sản xuất 2. Được biết tin Cẩm mới hy sinh - vì địch phục kích bắn chết trong đợt càn vừa rồi. Nơi này chỉ có 3 người.
Chi lại về cơ quan nên còn 2. Tiến ốm. Một mình Mai lủi thủi đi làm cỏ lúa. Gặp Phạm Hồng ở đây. Vui quá, 2 đứa ôm lấy nhau. Hồng chiêu đãi chúng tôi một bữa thịt gà rừng (Hồng bẫy được) và một bữa chè đỗ đen sữa. Hồng cho xem những bức tranh vẽ từ khixuống Quảng Nam. Phần lớn là ký Họa và tương đối có sức sống. Hồng đi B trước tôi, đãgiúp đỡ tôi rất nhiều lúc tôi mới vào, từ việc dạy cho cách buộc gùi tới cách phát rẫy hoặc chống trả với những cơn sốt rét. Dạo ở A9, Vượng vào Quân Khu, tôi và Hồng ở cùngnhà, thường cùng Nga nghe chương trình sân khấu truyền thanh vào các tối thứ 7, mà vở kịch chúng tôi thích nhất là Tiền tuyến gọi.
Bắt đầu theo trạm đi. Giao liên dẫn đường chochúng tôi là cô Xuân. Chân Xuân đi hơi cànhắc vì bị tiêm ký ninh quá nhiều, song cô đi rất nhanh. Có điều cô biết chờ khách chứkhông bỏ khách như cô bữa trước.
Khi đi từ trạm 25 xuống trạm 24, tôi theo một giao liên nhỏ. Đó là Ba, em mới chừng 13, 14 tuổi. Khi ngồi đợi giao trực, tôi được nghe cô giao liên ở trạm 25 kể rằng Ba bé xíu thôi và còn ngây thơ lắm. Có lần, dẫn một số khách đi, thấy khách đi quá chậm, hay nghỉ, Ba khóc lóc, van nài: “các chú ơi, đi nhanh lên, không quá giờ, trạm trên bỏ trực, con bị phê bình đấy!”. Tôi hình dung Ba yếu đuối lắm. Song không phải vậy, Ba ở trước mặt tôi đó: vui tươi, nhanh nhẹn. Em dẫn đầu đoàn người, đầu đội mũ Giải phóng, lưng mang bao bột mì đựng công văn, vai còn khoác một cái túi giúp một chị đi sau. Ba chào chúng tôi bằng nụ cười rất tươi. Gặp lại mấy anh quen, Ba liến thoắng: “Ôi, anh Thoại sao ốm nhom vậy? AnhLang có nặng, sớt bớt đồ tôi mang cho!”. VàBa mang bớt một số vải cho Lang. Đi đường,Ba luôn chuyện trò. Đủ thứ chuyện ngộ nghĩnh:
“chui, mấy trứng gà rừng cho ấp nở ra mấycon gà đen thui như Mỹ đen, trông phát phiền!”, “con Liên mới đi đồng bằng về, dẫn theo mấy đứa chút chun!”..
Sáng sau, Liên dẫn chúng tôi đi. Liên mới chừng 16 tuổi, nước da hơi xanh, yếu và nét mặt có gì hơi già dặn, khắc khổ của người phải lo nghĩ quá sớm. Liên bảo chúng tôi đi trước vì em còn phải đi nhận hàng. Liên dặn: “các anh ráng đi sớm, đi nhanh qua mấy bãi trống ven sông nghe!”.
Đoạn đường này địch dùng B57 đánh dữ. Thỉnh thoảng lại gặp vài hố bom - thường là hai hố một chỗ. Nhiều hố bom trúng giữa đường khiến chúng tôi phải đi vòng, luồn trong cây cối mà đi.
Gần trưa, Moranh quần dữ. Đường chúng tôi đi qua rừng non, theo suối nên nhiều chỗ trống trải. Liên luôn nhìn lên bầu trời quan sát máy bay và ra lệnh cho chúng tôi: “nó tới đó, đứng im”, “nó quần đó, rúc sâu vào bụi”, “Đi nhanh!”... Chúng tôi răm rắp làm theo lời Liên như theo lệnh người chỉ huy vậy.
Ăn cơm trưa rồi Liên tạm biệt chúng tôi để dẫn khách về trạm.
Liên nói: “chào hết mấy anh nghe!”. Rồi thoăn thoắt bước đi, rồi lại nói với lại: “Tôi chào rứađó!”. Những lời nói của Liên có gì hơi cộc cằn đôi chút và có nhiều khi không hợp với một cô gái ở lứa tuổi Liên. Song tôi không cho Liên là một con người cộc cằn. Khi Liên nói: “Tôi chào rứa đó!” và cười cười thì tôi hiểu rằng em đang bối rối trước những câu nói của chính mình. Chắc em cũng muốn nói những câu tế nhị hơn song tìm không ra. Ở những nơi ác liệt như thế này, người ta quen nói ngắn, gọn rồi. Khi máy bay địch quần lượn, bắn phá thì giao liên làm sao có thể nói những câu dài dòng, văn vẻ ngoài mấy câu: “dừng lại!”, “núp kín nghe!”, “chạy nhanh!”, “nằm xuống!”... Nhưng chính trong những câu cộc lốc đó, tôi lại thấy chứa chất biết bao tình cảm rộng lớn, sâu sắc. Những lời nói xuất phát từ đáy lòng thương yêu anh, che chở, bảo vệ anh đó!
Càng đi xuống gần đồng bằng, tình hình càng căng hơn. Địch càn ở Kỳ Yên đã gần tháng rưỡi rồi. Quân của chúng lết khắp nơi:
xóm Mới, Nhà thờ, Dương Bông, Bầu Tre... và sáng nay chúng lại đổ quân ở Danh Sơn - nơichúng tôi định đi qua.
Được cái giao liên rất thạo đường. Đoàn đi lạicó mấy giao liên thuộc tuyến này đi mua hàngnên tôi thêm tin tưởng ở sự dẫn dắt của họ. Sang, một thanh niên khoảng 23, 24 tuổi - có dáng người to, khoẻ, da ngăm đen, là linh hồn của đoàn. Sang thuộc đường và rất xông xáo.ít nói, nhưng hay nói vui, cởi mở, Sang thu hút được tình cảm của tôi ngay từ đầu. Tay cầm chắc khẩu AK báng xếp, Sang luôn đi đầu bám đường. Gần tới con sông Kỳ Yên, bọn tôi phải đi tách ra xa nhau vì ở đây dễ gặp địch. Chúng mới đi khỏi nơi đây.
Giấy tờ, sách báo lố lăng, lon đồ hộp còn vứt bừa bãi. Nơi này là một thung lũng khá phẳng và rộng, cây cỏ thấp, thưa. Chúng tôi vừa thận trọng vừa khẩn trương vượt qua bãi trống đó.Nắng chói chang, bầu trời cao rộng, in hình mấy cái trực thăng phía xa. Chúng tôi lội ào qua khúc sông cạn, nước tới mắt cá chân. Đạp nước bắn tung toé, ướt cả hai ống quần. Rồi vượt qua một bãi cát lẫn đá sỏi. Ở mé sông, cát, sỏi bị nhuộm đỏ thẫm vì máu. Lại lộiqua sông. Đoạn này nước chảy mạnh. Khi tôi vừa định bước chân trái lên một hòn đá to thìnước cuộn tới cướp phăng chiếc dép. Bỏ vậy mà đi thôi. Đi khỏi bờ sông một quãng, chúng tôi gặp một số dân. Họ ngồi tản mát trong cácbụi cây, quanh đó là một vài thứ đồ đạc dùng hàng ngày.
Họ cho biết máu ở bờ sông là của 2 anh bộ đội bị bọn Mỹ phục kích bắn chết từ chiều hôm kia. Một anh khác bám ra chôn lại bị HU1A của Mỹ bắn chết. Du kích mới chôn 3 cái xác chiềuqua.
Đây là một thôn thuộc xã Kỳ Yên. Ở đây, đồng bào trồng sắn trên luống cao, to, rất đẹp, sạch cỏ. Lác đác có những đám bắp, đậu.
Vài rẫy lúa. Có rẫy lúa bị chất độc hóa học cháy vàng. Bọn Mỹ hồi này rải chất độc với diện rất nhỏ chứ không tràn lan như trước,nhưng toàn nhằm vào nương rẫy. Thật là thâm độc!
Đi loanh quanh một hồi, chúng tôi gặp rất đôngngười - phần lớn là cán bộ, bộ đội. Họ ùn lại ở một đám rừng non thưa thớt, đứng ngồi lộn xộn. Họ cho biết còn phải chờ du kích bám đường mới đi được. Chúng tôi cũng ngồi lại. Mỏi quá, ngồi lê la trên cát, cỏ. Thỉnh thoảng, vài chiếc trực thăng lại quần lượn trên đầu,khiến chúng tôi phải nép vào bụi. Có những tiếng pháo, tiếng súng liên thanh, tiếng đạn cối nổ rải rác đó đây. Rồi đi, đúng là lối đi “bám”.Có một số đi trước dò đường. Rồi mọi ngườitheo sau, đi cách xa nhau. Súng đạn sẵn sàng.Đi chậm rì. Thỉnh thoảng phải dừng lại nghe ngóng, đợi chờ. Thỉnh thoảng vượt qua một quãng đồng trống, phải chạy cho nhanh, đồngthời phải giữ khoảng cách cho thưa nhau. Với cách đi như vậy, chúng tôi vượt qua nhiều quãng đồng trống, nhiều khu nhà dân. Nói là khu nhà dân, thực ra chỉ là từng cụm nhà thưa thớt. Nhà, thực ra là những túp lều nhỏ, dựng tạm bợ che mưa nắng cho hầm. Có mấy ngôi nhà bị đốt cháy, tro còn nóng. Hầm cũng bị bọn giặc quẳng lựu đạn, lựu đạn lân tinh xuống khiến sập lở hoặc tanh lợm.
Đường Hố Nước, Bầu Tre có địch, bọn tôi phải vòng qua đường Danh Sơn. Lúc này đi rất nhanh, gần như là chạy. Vượt qua vài khu ruộng. Ở một bờ ruộng, văng đầy cát tút đạn AR15 - chứng tỏ bọn Mỹ đã có mặt ở đây vàbắn rất dữ. Trời nhập nhoạng tối. Trên trời, vàichiếc trực thăng vận tải bay nặng nề, in bóngđen sẫm, to xù và nổ máy ầm ĩ. Khát nước vô kể. Đạp qua vài thửa ruộng đầy cỏ, sình bùn. Nhập vào đường Danh Sơn. Con đường nàytương đối lớn, chạy qua những khu đồi sim thấp và toàn đá sỏi. Chân tôi không dép, đạp lên đó đau ê ẩm. Tuy nhiên, phải ráng chịu đau mà đi cho nhanh. Đi như chạy trong bóng tối nhập nhoạng. Đường chỉ hiện ra mờ trắng dưới chân. Thỉnh thoảng lại bước hẫng xuống một hố nhỏ hoặc vấp vào mô đá điếng người. Chẳng thèm suýt xoa, cứ cắn răng mà bướctới. Sang đi đầu. Mọi người đi sau, im lặnghoặc chỉ nói chuyện nho nhỏ.
Rồi nghe tiếng đài văng vẳng ở phía đồi trướcmặt - đài Tiếng nói Việt Nam. Như vậy làkhông có địch. Chúng tôi mạnh dạn bước tới. Băng qua một khu ruộng nhỏ. Lội qua một con sông - lội mò mẫm, chẳng biết nông sâu ra sao. Lại dò dẫm bước lên bãi cát sỏi.
Tiếp qua một con sông nhỏ. Rồi chui vào mộtthôn xóm. Ở đó im lặng như tờ. Tối như bịt mắt. Người đi trước bỗng sụp xuống một cáihầm. Xì xào lộn xộn một lát rồi lại đi. Tôi cứ bám theo người đi trước mà tiến, chẳng rõ đường xá quanh co ra sao. Rồi bỗng thấy ánh đèn dầu hắt ra từ một ngôi nhà. hóa ra đó là trạm. Chúng tôi bước vào. Những người trong nhà đang ăn cơm. Lúc này đã gần 8 giờ tối. Nhà thật đơn sơ, không phên vách, không bàn ghế. Dưới nền nó là một căn hầm rộng, có thể cột võng được. Chúng tôi lên nhà trên ngủ. Ngôi nhà đó đã bị pháo bắn sập, người ta đã dỡ đi và cắm 4 cây lớn vào chỗ 4 cây cột đểngụy trang. Tuy nhiên, cái hầm vẫn tốt. Trời nóng như nồi rang. Muỗi vo ve, vo ve, ùa vàođốt. Phủ bọc võng vào, nóng vô kể. Mà hất ra thì muỗi đốt, không chịu được.
Đành phải đưa võng hoài. Rồi cũng thiếp đi trong cái mệt nhọc.
Đêm nay im tiếng pháo.
Sáng dậy, tuy chẳng đi đâu cũng phải nấu cơm 2 bữa từ sớm.
Ăn cơm xong rồi cột bao gọn gàng. Và cứ ngồi đó đợi. Trạm cũng làm như vậy. Những đồdùng không sát với thân thể lắm như con rựa,thùng nước.v.v. thì quẳng bừa ra bụi bờ, bãi cỏ. Đó là một kiểu nghe ngóng xem địch có càn không, nếu có thì có thể lánh kịp và khôngđể đồ đạc cho địch phá.
Nghe tiếng động cơ xe tăng rú phía xa xa. Đó là đồn địch. Vài chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài chiếc tàu vận tải bay qua bay lại. Có những tiếng pháo điểm cầm chừng. Xa xa có những tràng liên thanh nổ. Như vậy là buổisáng yên lành. Ăn cơm trưa rồi có thể đi làm mọi việc cần thiết.
Chúng tôi đi Kỳ Long mua ít hàng. Phải chú ý đi nhanh qua những chỗ trống để rọ khỏi thấy, khỏi kít xuống bắn chết hoặc bắt sống. Trêntrời, một chiếc mô ranh hai thân lượn vòng miết trên cao và dùng loa cực đại để chiêu hồi.Tiếng nói ve vãn bị át đi một cách thảm hại bởi tiếng ù ù của động cơ máy bay.
Đi băng ngang qua con đường lớn - nó chạyvề phía đồn Chóp Chài. Vết xe hằn rõ trênđường. Vượt qua những bãi trống. Ở đây, cỏ tranh bị địch đốt cháy trụi. Bình yên một cách kỳ lạ. Băng qua một cánh đồng lúa, chúng tôi lọt vào vùng 4 Kỳ Long. Xóm nhà thưa thớt, ítdân. Trẻ con ở đây quần áo mầu sặc sỡ.Nhiều người la hét gọi chúng tôi đi nhanh hoặcnúp vào bụi vì có địch ở Dương Tranh, cáchxóm đó vài phút đi bộ. Từ ngọn đồi đó, địch có thể thấy rõ và bắn trúng chúng tôi. Lúc này tôi thấy tiếng mìn nổ ở đó, đất bụi bay mù mịt. Rồimột quả mù của địch nổ, tung khói mầu tím mù mịt.
Ngay sau đó, có 2 HUIA bay tới, lượn quanhquả đồi. Tôi thấy cửa máy bay mở toang. Mộtchiếc rà sát rồi hạ ngay xuống đám mù tím và cất cánh lên sau đó một lúc. Chiếc kia cũng làm như vậy.
Chúng tôi đi tìm hàng để mua. Rất hiếm và rất đắt. Họ đòi gần 600 đồng (bằng 30 đồng miền Bắc) một bao gạo (nặng 6 kg) - nếu tính ra tiền miền Bắc là 5 đồng một kg, gấp hơn 10 lần gạo ngoài đó! Thị trường tư bản thật kinh khủng.
Lại nghe tiếng mìn nổ, thấy khói mù đỏ và 2 trực thăng xuống, lên. Đồng bào bảo rằng bọnMỹ mới lên đồi đó, bị vấp mìn của du kích và phải gọi máy bay tới chở những tên chết, những tên bị thương.
Quẩn quanh mua hàng, trời đã tối. Chúng tôi nấu cơm ăn - thứ gạo máy trắng muốt mua ởvùng địch chuyển ra. Ngồi giữa sân mà ăn cơm - nhà ở đây bị địch đốt cháy trụi, bà con chỉ dựng mấy túp chật chội, tấp mấy tấm tranh vào tạm bợ để dễ vứt ra bụi mỗi khi địch càn đến. Đang ăn cơm, chúng tôi giật mình vì những tiếng súng nổ loạn xạ. Đạn bay veo véo trên đầu, đỏ lừ. Đó là đạn do địch ở trên xe bắn tới. Tầm đạn đi hơi cao. Lại có tiếng súngnổ phát một chắc chắn ở phía gần đó - đạn của du kích “bia” Mỹ Nguỵ.
Tôi vào một ngôi nhà nhỏ mua gạo. Trong nhàchật ních người - toàn là cán bộ, miền Bắc có, miền Nam có. Một cô bé chừng 14, 15 tuổi đang bán gạo. Cô bé nói rằng chỉ còn một ang thóc thôi. Tôi vội bảo “mua gạo chứ ai mua thóc làm gì?”. Cô bé giải thích: “ang thóc tức là nửa ang gạo chứ không phải là thóc chưa giã”.
Khoảng 8, 9 giờ tối, chúng tôi ra về. Không thể ở lại đây qua ngày sau, vì xe tăng địch có thể lên rất sớm. Dấu vết của nó còn hằn lên đó: chằng chịt trên các thửa ruộng lúa khô nước. Lúa đang thì con gái, bị hạn, xơ xác, bị xe nghiền nát. Sang vẫn cắp AK đi đầu. Giáo lăm lăm súng ngắn đi thứ hai. Tôi đi liền đó. Trănglờ mờ. Khi đi qua ruộng, chúng tôi không dámđi theo con đường mờ trắng mà phải đi ven nó vì sợ địch ở phía quả đồi gần đó phát hiện. Khi đi khỏi khu ruộng, chúng tôi thấy những bóng đen lố nhố phía trước.
Sang ghìm súng, khẽ hỏi: “ai?”. Có tiếng đáp khẽ: “chúng tôi!”. Thở phào nhẹ nhõm. Không phải địch mà là anh em đi về, thấy rợn quá đang chần chừ ở đó, chờ người cùng đi lên. Lại bám đường đi. Nhiều khi phải nép vào bụi hoặc nằm rạp xuống đường nghe ngóng từng động tĩnh nhỏ. Rồi vượt qua đường xe. Conđường này chạy về đồn Chóp Chài - đi bộ mất chừng 20 phút là tới đồn thôi. Vượt vào dãy đồi bát úp, cây cối lúp xúp và đường lạo xạo đá sỏi. Vấp liên tục và luôn đạp lên những hòn đá sắc cạnh, đau điếng. Khuya mới về tới nhà. Lại cột võng trên nóc hầm. Ngủ trằn trọc trong cái nóng hầm hập, trong tiếng vo ve của muỗi và trong tiếng pháo cầm canh.
Trưa nay, ăn cơm xong thì Giáo đi Kỳ Long,còn tôi ở nhà giữ đồ. Giáo đi một hồi lâu thì tôi nghe mấy tràng súng máy nổ phía đường cái gần thôn Kỳ Qúy. Rõ ràng là tiếng súng địch bắn. Tôi bồn chồn không yên. Giữa lúc ấy thì Giáo chạy về, nói gấp: “báo một tin buồn: Phước hy sinh rồi!”. Tôi sững người vì bấtngờ quá. Phước là trạm trưởng trạm giao liên vùng dưới - giáp thị xã, đi chỉnh huấn về. Trưanay, Phước cùng đi xuống với đoàn của Giáo, Sang. Phước mang AK đi đầu, tới đường cái thì gặp địch phục. Chúng bắn Phước gãy chân. Ngã xuống rồi, Phước còn dùng AK quạtlại bọn địch.
Chúng ném tới một trái lựu đạn làm nát cảmình mẩy anh. Sang cũng dùng AK bắn lại mấy loạt rồi mới chịu chạy. Cũng may, đoàn có tới gần chục người, đi liền nhau, gặp đạn địch bắn loạn xạ mà chỉ bị một ngưòi.
Tối, tôi vác cuốc cùng mấy anh em trong trạm24 đi chôn Phước - người ta đã khiêng Phướcvề để gần nhà ông Phán. Trời tối thui.
Trong ánh đèn dầu nhập nhoạng, tôi thấy xác Phước được cột dọc theo một cây tre, đặt nằm dài dưới bãi cỏ. San - cô giao liên của trạm 24 - soi đèn sát mặt Phước rồi thốt lên: “trời ơi, tội quá anh Phước ơi!”. Tôi không khỏi bùi ngùi xúc động. Mới đó thôi, Phước còn sốngvui tươi, khỏe mạnh. Phước vào loại hơi xấu trai - cao và gầy, hàm răng khấp khểnh, miệng quá rộng so với khuôn mặt nhỏ, xương xương. Song Phước rất hay cười, nụ cười rất tươi và cởi mở, dễ chiếm được tình cảm của mọi người. Sáng nay, Phước còn đứng nói chuyệnvới chúng tôi. Sang trách Giáo là sáng nay không xin đôi dép của một nông dân bị chết vìlựu đạn về cho tôi. Tôi bảo: “thôi đồng bào họ nói cho. Nếu như anh em mình thì được, mình sẽ vỗ vai anh bạn hy sinh mà xin đôi dép, chắc anh ta cũng thông cảm! ”. Lúc ấy phước đứng gần tôi, cười cười: “ừ. anh em mình thì thông cảm thôi, chắc anh bạn đó sẽ đồng ý!”. Vậy mà bây giờ Phước nằm đó, cứng đờ, lạnh ngắt.
Khoảng 8, 9 giờ tối, chúng tôi bắt tay vào đào huyệt cho Phước.
Trời mưa bụi lất phất. ánh đèn dầu hắt lên một vùng sáng nhỏ vàng vàng giữa khoảng trời đấtđen thẫm. Rồi chúng tôi khiêng Phước tới. Tôi đi cuối đoàn, sát với đầu Phước. Mùi máu người tanh vô cùng. Hình Phước cứ liền liền trước mắt tôi. Cánh tay trái anh nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thế cầm súng. Cánh tay phải bị mảnh lựu đạn làm gẫy nát, lủng lẳng, lủng lẳng phía dưới, mỗi khi đi qua một bụi cây, vướng phải cây, cỏ, lại đung đưa, đung đưa, lạnh ngắt.
Chúng tôi lót bộ quần áo của Phước dưới huyệt. Xong, tôi cùng một anh giòng giây ở đòn khiêng, đưa phước xuống huyệt. Xác anh đã cứng khừ, lạnh ngắt. Máu đẫm quần áo,đẫm cả tấm dù bọc xác anh. Ngọc cố ấn cánh tay trái của Phước xuống, song không được.
Đành để Phước nằm dưới huyệt với cánh tay trái giơ lên trong tư thế cầm súng bắn. Rồi lấpđất, đắp mộ cho anh. Im lặng tiễn Phước đi.Mưa lâm thâm. Lạnh lẽo vô cùng!
Ra về trong mưa lạnh và trong nỗi buồn thương Phước. Đôi dép cao su của Phước giờ đây đang nâng bước tôi. Một cô giao liên ở trạm 23 có thân hình mập mạp nói: “Thật tội nghiệp anh Phước, trưa nay còn đi với bọn mình mà giờ đã nằm đó. Nhưng cũng còn may là chôn cất kịp”. Lan (nữ giao liên) bảo: “Anh Phước sống tội lắm, luôn thông cảm với mọi người, luôn tươi cười, vui vẻ.” Tôi đi sau 2 cô, nghe họ thì thầm trong hơi gió lạnh:
- Anh Phước được công nhận đảng viên chính thức...
- Ừ, mới cánh đây 3,4 bữa.
- Mới 20 tuổi chứ mấy.
- Công tác tiến bộ lắm.
- Anh ấy tội lắm, chỉ lo cho công tác thôi. Anh ấy bảo đi xa trạm có mấy ngày mà nhớ quá, chỉ muốn bay về trạm mà công tác thôi. Mỗi khi nghe nói có địch, mọi người hỏi thì anh trả lời:“Cứ đi, gặp địch thì đánh, không thể đứt liênlạc được “ và đội mũ, xách súng đi liền.
Không thể chờ mua tiếp hàng nữa, chúng tôi phải đi lên. Ở nhà, mọi người đang chờ, công việc đang chờ. Lại theo giao liên lên theo đường Danh Sơn. Lên đèo, ngồi nhìn lại miền xuôi. Phía xa, ở ngọn đồi cao nhất, đồn Chóp Chài phơi mình dưới nắng. Cả khu đồi trọc lốc, đỏ lói và xen vào những khu nhà trắng. Một con đường ngoằn ngoèo theo triền dốc lên đó.
Lên khỏi nước Y, chúng tôi định nghỉ một ngày. Song thật dáng ghét, khi mới nấu cơm sáng ăn xong một lát thì lũ trực thăng ở đâu đột ngột bay tới. Chúng bay thấp tới mức chúng tôi nhìn thấy cả những thằng Mỹ lố nhố trong máy bay qua khung cửa mở toang.
Chúng bắn rốc két, đại liên, cối xuống đồi tranh gần đó. Sợ bọn địch đổ quân thì phiền, bọn tôi vội thu dọn đồ đạc, tiếp tục hành quân.
Về tới nóc ông Chanh, không khí thật dễ chịu.Lũ trẻ ùa ra ôm lấy tôi. Chúng bảo bọn con gái đã khóc vì tưởng tôi chết rồi. Tôi thường dạy chúng hát và được chúng rất mến. Chị Lý gọi tôi vào nhà, lấy chuối và đưa nước đót cho tôi. Chị Chanh vội đi nấu cơm.
Đồng bào đã thu hoạch lúa, nhà nhà đều no.Ai cũng tíu tít gọi tôi vào nhà, mừng mừng, rỡ rỡ. Tôi rất cảm động trước tình cảm đó.
Về nhà trước sự mừng rỡ của anh em, kếtthúc chuyến đi 21 ngày đêm nhọc nhằn và căng thẳng.
THƯ GỬI GIA ĐÌNH
Trung Trung bộ. Ngày 2/9/1970.
Bố mẹ và các em yêu quý!
Hôm nay có người ra Bắc, con tranh thủ viếtthư thăm gia đình. Đang trên đường công tác, con viết vội ít chữ thôi.
Lá thư con nhận của gia đình mới nhất là lá thư bố mẹ và Diệp, Lan, Thủy viết ở Hà Nội. Cho tới nay, con chưa nhận được lá thư nào khác. Con rất mong thư gia đình.
Hồi này con vẫn khoẻ, con đã thực sự quenvới cuộc sống ở trong này và đã ít sốt. Việc công tác, phấn đấu của con có nhiều tiến bộ. Vừa rồi, chi bộ đã xét đơn xin vào Đảng của con và nhất trí 100%, quy định thời gian dự bị cho con là 9 tháng. Tuy nhiên, còn phải đưa lên đảng ủy duyệt để có quyết nghị, ở trong này giao thông khó khăn nên hiện chưa có quyết nghị gửi tới. Con báo tin như vậy để gia đình mừng.
Con muốn viết thư cho gia đình nhiều, song việc gửi rất khó khăn, gửi đường dây không bảo đảm đến nơi nên con chỉ gửi khi có người ra Bắc. Đó là lý do vì sao nhà nhận được thư con thưa thớt như vậy.
Nhận được thư bố báo tin như vậy con rấtmừng. Hiện anh Đức đã về nước chưa và công tác ở đâu? Phúc đi Liên Xô thực tập gì?
Ngọc học có giỏi không? Hàng ngày con đều nhớ tới bố mẹ, các em, cụ, bà, cô Chung, cậuHiếu.
Cho con gửi lời thăm cô chú Sen, Thìn, Chínvà các cô chú khác.
Con vội nên viết được ít, mong bố mẹ thôngcảm. Có dịp con sẽ viết thư dài hơn, nói nhiều chuyện hơn về cuộc sống của chúng con trongnày.
Con rất mong thư gia đình
Con của gia đình
Việt Long
TB: Bố mẹ gửi cho con ảnh của gia đình chụp thời gian gần đây nhất.
Ngày 4-9-1970
Lúa sớm đã chín vàng rực nương rẫy. Ban cửthêm người vào suốt lúa, càng thêm vui. Giữa những ngày bận rộn này, giặc Mỹ lại tới quấy nhiễu. Hôm trước, chúng cho B.52 rải bom ở Nước Boa. Và hôm nay, mới hơn 7 giờ sáng, chúng đã tới đấm lưng chúng tôi. Tôi sốt, đang nằm mơ mơ thì nghe hàng tràng tiếng nổ như sấm động nối nhau. Vội nhào xuống hầm. Hai đứa trẻ khóc thét lên.
Hết loạt bom, tôi ra rẫy nhìn, thấy phía NướcLon và phía rẫy 3 của chúng tôi bụi đất, khói bom bay mù mịt. Chúng tôi rất lo lắng cho sinh mạng mấy anh em đang làm kho lúa phía đó.
Một lúc sau, Bá chạy về. Chưa tới ngõ, anh đã nói: “kho bắp hư hết rồi!” – Như vậy có nghĩa là người không ai việc gì. Rồi Tạo, Hiến chạy về. Hiến bị một vết xước nhỏ trên đầu, máu ri rỉ như bị vắt cắn; anh em xúm lại rửa thuốc vàbăng cho anh. Tạo ngồi thở, mồ hôi ra đầmđìa. Cậu ta đột ngột cười to, nói trong tiếngcười: “Khỏi chết. B52 chụp trên đầu vẫn khỏi chết”. Rồi thì Huy, Tám chạy về, bình an cả. Anh em cho biết lũ B52 bắt đầu rải “tấm thảmbom” của chúng từ rẫy 2, kéo qua rẫy 3 và nối dài qua Nước Lon, qua giải núi bên kia. Anh em đều nằm giữa “tấm thảm” đó. Hiến nằm giữa triền dốc, gần bụi lồ ô. Phía đó, một quả bom đào đã làm bay cả bụi lồ ô đi mất. Phía sau Hiến vài mét, hai quả bom khác đào hai lỗsâu hoắm. Vậy mà không giết nổi Hiến, chỉ làmanh bị trầy da đầu và mất một chiếc dép cao su. Tạo, Bá cũng nằm gần mấy hố bom, nghe bom nổ chát chúa mà không hề gì hết.
Bom làm sập kho bắp của chúng tôi và hư một số lúa của rẫy 2, 3. Cũng may mà bắp chỉ sập xuống đất, không bay mất trái nào.
Huy động toàn lực lượng đi cõng hết số bắpvề nhà. Đông người nên chỉ qua chiều hôm sau là đã chuyển hết bắp. Hai mái gà cùng mộtđàn gà con cũng được chuyển về. B52 dù saocũng giết được hai con gà nhỏ của lũ tôi. Tuy nhiên, bầy gà con vẫn điềm tĩnh chiêm chiếptheo mẹ kiếm ăn, không tỏ ra sợ hãi gì.
Công việc lại đi theo nếp của nó. Suốt xonglúa rẫy 5, chúng tôi kéo về rẫy 3 (vì trời mưa nên suốt lúa ở rẫy 5 lâu, nếu không, chúng tôi đã kéo qua rẫy 3 từ 9 giờ sáng rồi, chắc là bị đội B52 đông lắm).
Hai quả bom nổ ở bìa rẫy làm hư nhiều lúa của chúng tôi. Ngoài số bị đào bới tung ra, bị đất lấp, còn có nhiều khóm lúa bị sức ép làm cho tả tơi, nát nhừ tận gốc. Những cây ở xa cũng bị chấn động, rụng rất nhiều hạt. Bọn tôi phải cặm cụi nhặt từng bông lúa dưới đất lên.
Ngóng đợi những đợt B52 tiếp theo, song không có. Như vậy là khu nhà của chúng tôi vẫn bình yên - “tấm thảm hủy diệt” của bọn Mỹ rải cách đó tới 20 phút đi bộ.
Lũ máy bay trực thăng hồi này cũng tích cực đi rải chất độc.
Nước Tong, Nước Ngheo, Trà Niêu... đã bị rải rồi. Khi đi làm rẫy, chúng tôi mang theo súng đạn, sẵn sàng nện cho lũ quỉ độc đó những đòn đích đáng nếu chúng mò đến hà hơi độc vào nương rẫy của chúng tôi.
Mặc dù bận rộn với việc nương rẫy, mệt mỏivô cùng, tôi vẫn thức đêm để viết truyện -những xúc cảm từ cuộc sống hối thúc tôi phảicầm bút:
Chú bé vùng ranh
Cô giao liên trạm hai mươi bốn tươi cười bảochúng tôi: “Ba, giao liên mới của các anh đó!”.Theo tay cô, tôi nhìn thấy ở đoạn đường trướcmặt một chú bé dẫn đầu một đoàn người đangbước tới.
Chú đội cái mũ lưỡi trai to tướng, sụp cảxuống vầng trán, trông thật ngộ. Lưng chú mang một cái túi bằng bao bột mì. Vai chú khoác một khẩu AK báng xếp. Khẩu súng, mặc dầu đã được xếp báng lại khá gọn gẽ, vẫn có vẻ dài lượt thượt so với thân hình lũn cũn của chú. Bước tới gần chúng tôi, Ba ngẩng mặt lên, nhoẻn cười:
- Chào hết mấy anh nghe!
Hấp háy đôi mắt, chú nghiêng đầu về phía côgiao liên trạm hai mươi bốn:
- Đi nhanh dữ chị? Rứa là em lại đến sau chị rồi, tức thiệt! Nói rồi chú cười. Trên khuôn mặt tròn vành vạnh của chú, nụ cười thật rạng rỡ. Với dáng dấp lanh lợi đó, Ba đã thu hút được cảm tình của tôi ngay từ đầu.
Ba mang gùi công văn, vai vác AK đi đầu.Chúng tôi nối hàng một bước theo. Đường xuyên qua một khu rừng bị rải chất độc vào mùa hè năm trước. Mặc dầu đã là mùa xuân, khu rừng vẫn còn mang nặng dấu tích của sự tàn phá. Những cây to vẫn trụi lá, giơ những cành khẳng khiu, khòng khoeo lên trời. Chỉ những cây nhỏ là đang nứt lên những chồinon xanh mơn mởn. Tôi im lặng bước theo Ba.Đường chúi xuống dốc. Đất gan gà pha sỏi lạoxạo dưới chân trơn lạ lùng. Tôi trượt hoài. Bangoái lại, cười:
- Con đường của em lạ rứa đó, nắng thì trơn, mưa lại êm! Đấy, anh coi, những hòn sỏi như những bánh xe lăn đôi dép đi ấy.
Rồi em hạ thấp giọng, vẻ quan trọng:
- Đi đường cũng phải rút kinh nghiệm anh nhỉ!Những đoạn này mà cứ cúm rúm dò từng bước, chỉ tổ trợt xoạc cẳng. Phải mạnh dạn bước từng bước chắc chắn, bước nọ tiếp bước kia mới được.
Im lặng một lúc, như chợt nhớ ra điều gì, Ba hỏi tôi, một câu hỏi chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện đang nói cả:
- Anh, ở căn cứ anh có nuôi gà rừng bao giờ chưa? Trên đó nhiều thứ gà, chim đẹp lắm nhỉ?
- Ừ, nhiều lắm, nhưng anh chưa nuôi gà rừngbao giờ cả!
- Bữa hổm, em lượm được ba trứng gà rừng,cho gà của trạm ấp, nở ra ba con gà con. Chao, nó đen thui như Mỹ đen, trông phátphiền anh à!
Rồi, như bị cuốn hút vào cái việc nuôi gà thú vị ấy, Ba dấn bước vượt lên đỉnh dốc, vừa thở phì phò, vừa nói liến láu:
- Cái giống rừng nó vẫn quen rừng anh ạ! Vừa xuống ổ là chạy rúc bụi liền! Em phải đem cái lồng, nhốt chúng vào trong. Anh có biết làm cách nào cho chúng quen nhà không?
Ba hay có những câu hỏi đột ngột, thật khó trả lời. Và em lại hay tự trả lời những câu hỏi đó. Em say sưa:
- Chắc rồi hắn sẽ quen anh hỉ? Cứ đi trực về là em đưa sắn vụn vào tận trong lồng cho chúng ăn. Mình chăm hắn rứa, lẽ nào hắn lại không ưng mình?
Tôi chăm chú theo dõi câu chuyện ngộ nghĩnh ấy của Ba. Ba vẫn bước thoăn thoắt phía trước, cái đầu lắc qua lắc lại. Khi lên tới đỉnh dốc, Ba dừng lại, quay nhìn chúng tôi:
- Ráng lên các anh, tới đây mát lắm!
Em tháo gùi, đặt xuống một tảng đá gần đó.Anh em trong đoàn lần lượt đặt ba lô, gùixuống, thở phào khoan khoái. Tôi và Ba ngồi trên một tảng đá cao, to. Ở đây, tầm mắt chúng tôi trải rộng ra, phóng khoáng. Trước mắt tôi, con đường chúi xuống một cái dốc rồi khuất dần sau những dải đồi bát úp lúp xúp. Xa hơn nữa là những nà, những ruộng um tùm cỏ. Và tít tắp dưới kia, bao la, phóng khoáng, là đồng bằng, là biển. Lẽ ra, cái thảm cây cỏ đó phải phủ đầy màu xanh dịu dàng. Nhưng, chiến tranh đã ghi lên những dấu tích lở lói. Có những khoảng rừng cây cối khô trụi, phơi mầu mông mốc dưới nắng. Có những vạt rẫycây cối vàng ruộm. Đó là kết quả của nhữngtrận máy bay Mỹ - Ngụ y rải chất độc hóa học. Lỗ chỗ khắp nơi là những hố bom, hố đại bác đỏ lói.
Một luồng gió từ biển thổi thốc về, mát rượi.Ba chợt thốt lên:
- Mát quá anh hè! Gió ni là gió cá chuồn đây!
Tôi hỏi lại:
- Gió cá chuồn?
Ba lấy tay quệt mồ hôi trán, vẻ thành thạo:
- Trời cứ gió như ri đi biển là trúng lắm, cá chất đầy thuyền!
- Em có đi biển?
- Quê em vùng biển.
Ba đưa tay chỉ về phía xa xa:
- Quê em, Kỳ Anh đó!
Rồi em say sưa:
- Ông già em làm nghề biển. Em chỉ được ra bãi biển đón thuyền vô, chớ chưa được đi biển anh à! Hồi đó em có chút chun mà.
Má em gánh cá, em chạy theo. Chao, vui lắm.
Ba lại chợt hỏi:
- Anh được ăn cá chuồn với bánh tráng chưa?Chưa à? Chà, ngon tuyệt! Má em hay cho emăn món đó lắm!
Tôi hỏi:
- Giờ, ba má em vẫn đi làm biển?
Giọng Ba chợt giận dữ:
- Đâu có được, anh!
Ba dừng lại một chút. Em nhìn mãi ra xa. Sao ở đôi mắt ngây thơ ấy lại có cái nhìn xa xăm đến như vậy. Một tràng bom nổ rền làm cắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Ba đứng dậy:
- Lại thằng B.57. Thôi, đi, mấy anh!
Ba dặn dò:
- Từ quãng này đường trống, địch chú ý lắm.Các anh nhớ đi thưa hàng và nhanh theo emnghe! Mà các anh sửa lại đai dép, dây mangcho chắc đã!
Tôi đứng chăm chú nhìn Ba xốc lại gùi. Chú bé thật hồn nhiên, song lại có những nét thậtcứng cáp. Bắt gặp cái nhìn chăm chú của tôi,Ba bỗng đỏ Ửng mặt lên, lúng túng. Em giậtcái mũ lưỡi trai trên đầu xuống, bóp nhàu trongtay:
- Em đội cái mũ ni lấc cấc lắm hả anh? Trước, em cũng có chiếc mũ Giải phóng xinh lắm, nhưng pháo lượm mất rồi!
Mọi người đã rục rịch bước đi. Ba bỏ dở câu chuyện, vượt lên:
- Đoạn này em phải đi trước. Nhớ cảnh giácbám đường nghe mấy anh!
Đường vượt qua một dãy đồi bát úp rồi trườnxuống một cái nà lớn. Ở đây, cỏ dại mọc um tùm, thỉnh thoảng có vài bụi lách, tuyệt khôngcó một chòm cây lớn nào! Một dòng sông lớncắt ngang nà, nước loá lên trong ánh nắng. Nắng vàng ong ong. Cỏ và bùn hấp hơi nóng, bốc lên mùi hăng hăng, tanh tanh. Bầu trời trong xanh, tít xa điểm mấy chấm đen của những chiếc máy bay trực thăng. Im lặng một cách kỳ lạ! Ba vẫn đi trước, ghìm chắc trong đôi tay nhỏ bé khẩu AK. Chúng tôi rảo bước theo em. Chợt Ba ngoái lại, vẫy tay rồi rúc vào một bụi cỏ. Chúng tôi nhanh nhẹn làm theo em, ngồi im thin thít. Có tiếng động cơ máy bay phành phạch, phành phạch. Ba chiếc HU1A bay ngang đầu chúng tôi rồi lướt về phía Tam Kỳ. Ba gọi chúng tôi, vụt ra khỏi bụi và lại rảo bước. Sắp tới con sông, Ba ra hiệu cho chúng tôi dừng lại. Em men theo các bụi cỏ, lom khom bước tới. Phía trước em là một bãi cát trắng. Bãi cát loá nắng, vắng lặng, chỉ có tầng không khí bị nung nóng khẽ xao động. Ba nghe ngóng, dò xét rồi vụt chạy ra, vẫy taycho chúng tôi chạy theo. Cát xào xạo dưới chân. Rồi nước! Nước con sông đã ôm gọn đôi chân tôi.
Mát rượi! Dòng sông vào mùa này trong suốt, hiền từ như một dải lụa. Ba đã lội qua bờ bên kia. Chúng tôi cũng lội ào qua, đạp nước tung toé. Lại đạp lên cát xào xạo, sỏi lổn nhổn mà chạy vào xóm trước mặt. Thoáng nhìn, giữabãi cát, một vũng máu đen kịt. Chắc lại cóngười bị bọn Mỹ “lết” phục kích bắn chết. Thoáng nghĩ vậy mà vẫn lao nhanh về phía trước...
Vào tới xóm, Ba để chúng tôi ngồi nghỉ ở một vườn cây và bảo:
- Các anh nghỉ chút, em đi nắm tình hình rồi quay lại liền!
Vừa bước được mấy bước, gặp một tốp người từ phía Bắc đi lại, Ba chợt reo lên:
- A, anh Luyện!
Mới kịp giáp mặt, Ba đã tíu tít:
- Sao anh, tình hình đường ra sao?
Luyện nắm tay Ba, ân cần:
- Lũ Mỹ “lết” mới qua Dương Tranh, Bầu Tre,không đi đường ni được em ạ!
Ba nhíu mày:
- Vậy phải vòng qua Đèo Sỏi?
Hình như mỗi con đường đều hằn rõ trong ócBa nên em mới có thể nói một cách chắc chắn như vậy. Luyện gật đầu:
- Chỉ có con đường nớ thôi. Em đi, chú ý pháo nghe! Bọn anh đi bám địch đây!
Ba dẫn chúng tôi rẽ ngoặt về hướng Tây. Luyện đưa anh em du kích tiến về hướng Bắc. Bóng những người du kích vai vác AK, CKC khuất dần sau những hàng cây rậm rạp.
Trời đổ ập bóng tối xuống, trùm kín chúng tôi.Con đường chỉ hiện lên mờ trắng trước mặt. Trước khi vượt qua một cánh đồng lớn, Ba đứng lại căn dặn:
- Các anh chú ý nghe pháo. Có chuyện chi thì lăn xuống con mương cạn ngay bên phải đường. Cánh đồng ni bọn em gọi là cánh đồng toạ độ đó!
Bóng Ba mất hút trong màn đêm. Chúng tôi cứcăng mắt theo con đường mờ trắng mà vọt theo. Có tiếng pháo đề pa ở phía Nam “ùng”. Tiếp đó là tiếng rít: “víu...!”. Sau đó là tiếng nổ“oàng” ở phía xa. Tiếng Ba vang lên: “Kệ nó!Thằng Trà Bồng đó! Nổ xa”. Tiếng “ùng!... viu... oàng” cứ nối tiếp, nối tiếp điểm nhịp bước chân của chúng tôi. Rồi đột nhiên im bặt. Chỉ còn tiếng những bước chân chạy thìnhthịch trên đất. Gió đột nhiên tràn về mát rượi.Vừa thoáng nhớ tới lời Ba: “Gió cá chuồn” thìtôi bỗng giật nảy người lên vì tiếng thét: “Nằmxuống!” Chỉ kịp lăn bừa xuống con mương khô, đã thấy trước mặt bung ra một quầng lửa chói loà rồi một tiếng nổ dữ dội. Những quầng lửa như vậy cứ liên tiếp bùng lên khắp cánh đồng như những đốm ma trơi khổng lồ, nổ chát chúa. Rồi lại im. Tiếng Ba vang lên: “Có ai hề chi không?” Chúng tôi ngồi dậy:“Không!”. Ba dằn giọng:
- Thằng Gò Gai đó! Các anh chú ý, nghe tiếng xoẹt trên không là lăn xuống mương liền nghe.Thôi đi!
Con đường, cánh đồng với những đốm ma trơi nổ choang choác đã ở sau lưng chúng tôi. Ba dẫn chúng tôi rẽ vào một xóm nhỏ. Xóm im lìmchìm trong màn đêm đen đặc. Dò dẫm từng bước một thì vào một căn nhà nhỏ. Căn nhà bỏ hoang, không phên vách, không mái.
Duy chỉ có cái hầm là còn tốt. Ba dẫn chúng tôi xuống ngồi trong hầm. Em cười:
- Mệt không các anh? Các anh hút thuốc đi,ngồi đây hút được đó!
Trong khi người lục túi lấy thuốc, người sửa lại bao mang, thì Ba đã nhảy lên khỏi hầm, biến mất trong bóng đêm. Lát sau, Ba trở lại:
- Uống hớp nước, các anh. Chắc khát hung rồi!
Chúng tôi ồn lên vì sung sướng. Trải qua mộtngày nắng gắt, một thôi chạy, ai nấy mệt nhoài, khát cháy họng. Những hớp nước Ba mang lại lúc này thật quý vô cùng. Những đốm lửa thỉnh thoảng lại loé lên từ đầu những điếu thuốc. Có ai đó quẹt thùng diêm làm bừng sáng lên một góc hầm, Ba ngồi ở góc đó, mắt sáng long lanh, vẻ sung sướng. Đột nhiên, có một tiếng kêu: “Chết cha tui rồi!”. Ba thảngthốt:
- Chi đó anh?
Một tiếng đàn ông ồm ồm đáp lại:
- Trời ơi, cái xắc tài liệu của anh sút đai, rớt lúc nào rồi!
- Cái xắc? Nó mới rơi?
- Chắc vậy, trước khi vượt cánh đồng, anh cònnắn đai nó mà!
Ba ngồi im lặng. Còn anh em khác thì cứ ồn lên trách móc anh cán bộ già đã đánh mất cái xắc:
- Sao không cột đai cho chắc?
Anh cán bộ rầu rĩ:
- Cực quá, xắc đó đựng toàn tài liệu quantrọng! Làm sao bây giờ?
Ba đứng vụt dậy:
- Để em đi kiếm về!
Có tiếng can ngăn:
- Biết ở mô mà kiếm, em?
- Pháo bắn dữ rứa!
Nhưng Ba đã nhảy phốc lên mặt đất, mất húttrong màn đêm.
Cả căn hầm rì rầm, xao động. Có ai đó thốt lên:
- Thằng nhỏ dễ thương quá!
Một giọng khác tiếp:
- Thằng nhỏ mau lớn dữ! Mới cách đây chưađầy năm, nó chút chun chứ mấy!
Rồi vẫn giọng đó kể:
- Hồi nớ bọn mình đi từ dưới lên, cũng qua vùng ranh này, nhưng đường còn tĩnh, không ác liệt như bữa ni mô. Các ông biết đó, cánhgià bọn mình đi bết lắm, đã chậm lại nghỉnhiều. Thấy giao liên là một chú bé mười hai,mười ba tuổi, bọn mình đòi nghỉ luôn. Cứ đichừng hơn nửa tiếng lại: “Ba, uống nước cam đã em”, hoặc: “Chà, chỗ ni mát rứa, không nghỉ cũng uổng, Ba...”.
Ba cứ lặng lẽ chiều theo bọn mình. Nhưng khimặt trời gần đứng bóng, không nén được nữa, chú bé van vỉ: “Các chú đi mau lên, không quágiờ, trạm trên bỏ trực, con bị phê bình”. Rồi nó oà lên khóc.
Một anh cười lớn:
- Ô, thế thì chuyến đi của mình với Ba lại khác hoàn toàn. Bữa ấy không có Ba chắc mình chết mất. Chẳng là bữa ấy, Ba cũng dẫn mình qua bãi trống hồi trưa bọn mình vượt qua đấy. Chẳng may dép của mình tuột quai. Thằng “chuồn đen” ở đâu lại lùi lũi đến.
Hoảng quá, mình chạy quýnh cẳng giữa bãi trống. Thằng “chuồn đen” nghiêng cánh, thế là pháo nã tới tấp, tung bụi mù mịt. Mình không biết chạy đường nào nữa. Chính lúc đó Ba lao ra hét lớn:
“Nằm xuống!” rồi kéo mình nhào xuống một hố đạn gần đấy. Thằng “chuồn đen” quần lượn nhòm ngó, và mỗi lần nó nghiêng cánh là pháo lại dập tới. Ba ngước mắt nhìn trời, bảo mình: “Anh, chạy theo em nghe!”. Rồi Ba kéo tay mình, lao lên. Hễ thằng “chuồn đen” quay đithì Ba kéo tay mình chạy. Lúc nào nó vòng lại thì Ba kéo mình nằm xoài xuống, giấu thântrong cỏ. Rồi cũng thoát. Hai anh em chạy vàotrong xóm ngồi thở. Mình nhìn Ba bỗng giật mình. Trên đầu Ba một dòng máu đang chảy ri rỉ. Chiếc mũ tai bèo của em đâu mất...
Một anh sốt ruột hỏi:
- Sao? Ba bị thương à?
- Bị thương, Ba bị thương... Nhưng em chỉ nhoẻn cười, đưa tay vuốt dòng máu: “Không hề chi anh, như con vắt cắn thôi”. Chúng mình lại đi. Lúc này, một chiếc “tàu rọ” cùng mấy chiếc HU1A nữa bay tới, quần sát sạt bãi nà. Thật hú hồn! Nếu cứ quýnh ở đó thì nó chộp cổ rồi!”. Điếu thuốc tắt từ lúc nào anh không hay. Anh móc thùng diêm quẹt quẹt... Bữa ấy, Ba cứ đầu trần vậy mà đi dưới nắng. Một anh trong đoàn có cái mũ lưỡi trai của lính nguỵ, không hiểu lượm được ở đâu, vẫn nhét trong túi ba lô, liền đưa cho Ba, nói mãi chú bé mới nhận. Nhưng vừa chụp nó lên, em lại giật xuống ngay. “Dị òm anh, cái mũ thằng ngụy coi lấc xấc, thôi trớt”. Bọn mình phải xúm lại giải thích mãi, chú bé mới chịu...
Lại một đợt pháo nữa dội tới. Chúng tôi nhổmlên nhìn lại phía cánh đồng. Trong bóng tối, những chớp sáng loé lên liên tục. Tiếng nổ chát chúa. Căn hầm rung lên. Trái tim tôi như có ai bóp thắt lại.
Tôi lo cho Ba. Tôi bỗng thấy thương em vôhạn. Ở em, sao cái ngây thơ, hồn nhiên lại kết hợp hài hòa với cái cứng rắn đến thế. Tôi bỗng nhớ đến những mầm non ở những cánhrừng bị chất độc hóa học. Những thử thách với chúng thật lớn. Song, chúng vẫn bật dậy mạnh mẽ và xanh tươi mơn mởn. Mỗi khi nhắc lại những ngày qua, Ba hay nói: “Hồi đó em còn bé”... Đúng là giờ đây em đã lớn, lớn vụt lên rồi.. Nhưng những gì ngây thơ của con trẻ, em vẫn còn nguyên.
Những chớp lửa ma quái, những tiếng nổ độc địa cứ chụp lên con đường kia. Những con đường đã biết bao lần in dấu chân em...
Ngoài đồng, tiếng pháo vẫn nổ. Còn trong hầm thì im lặng. Chỉ có những đốm lửa thuốc lá loélên và di động. Anh cán bộ già lại thở dài. Tiếng muỗi vo ve, vo ve thật khó chịu. Đột nhiên pháo im bặt.
Sự chờ đợi như bình khí khổng lồ bị nén lại. Rồi, pháo lại gầm lên.
Lần này, tiếng pháo nặng lắm và dồn dập hơn.Người có kinh nghiệm nhận ra ngay đó là đợtpháo bầy mà bọn địch thỉnh thoảng vẫn dùng nhằm hủy diệt mục tiêu. Tiếng nổ trầm đục là tiếng pháo biển, xuyên sâu xuống lòng đất mới phát nổ nhằm phá hầm hố. Còn tiếng nổ chát chúa là tiếng pháo chụp nổ ngay trên không, toá mảnh xuống giết những người ở trên mặt đất. Pháo từ biển, từ mấy trận địa tập trung dội vào cánh đồng này, mỗi lúc một dồn dập hơn.
Ba, em đang ở đâu?
May thay, Ba đã trở về. Em như một làn gió mát rượi của vùng biển quê em đột nhiên tràn tới. Em nói như reo lên:
- Cái xắc đây anh!
Anh cán bộ già nhào ra phía cửa hầm ôm lấy Ba. Nhưng Ba đã nói to:
- Đi, mấy anh! Đi mau về còn nghỉ!
* Buổi sáng ở đồng bằng thường đến sớm hơn ở miền núi. Mới khoảng bốn giờ, bầu trời đã chuyển sang mầu trắng đục. Chúng tôi dậy nấu cơm. Phải nấu cả cơm sáng, cơm trưa. Ở những vùng gần địch, người ta quen làm như vậy.
Ba ăn cơm xong từ lúc nào, đang ngồi bămvụn mấy củ sắn.
Bên cạnh em là mấy cái lồng gà. Con gà mẹ xù lông, cục cục. Ba con gà đen thui kêu chíu chít, rúc mỏ qua những kẽ nan. Tôi hỏi:
- Sao có ba con thôi em?
Ba ngẩng lên:
- Bữa địch càn, phải làm thịt con gà cồ. Sợ nó gáy, địch nghe thấy. Gà mái không có cồ, đẻ trứng ra không ấp được. Ba con gà ni, trứng gà rừng nở ra, mà em nói với anh đó.
Ba nhoẻn miệng cười rồi chúm môi “huýt huýt”... Bầy gà con kêu chiêm chiếp... Ba nghiêng đầu, một tay mở cửa lồng, một tay vốc sắn đưa vào trong. Bầy gà tranh nhau mổ sắn trên tay Ba.
Ăn cơm xong, chúng tôi xếp đồ đạc gọn ghẽ,ba lô sẵn sàng. Anh em trong trạm mang những đồ dùng lặt vặt trong nhà như con rựa, thùng nước... giấu vào những bờ bụi quanh trạm. Bầy gà được nhốt vào hai cái lồng lớn. Con heo độc nhất còn sót lại sau đợt càn vừa qua, cũng được cột chân lại, cho vào một cái rọ lớn. Đó là cách nghe ngóng xem địch có càn không. Nếu có thì có thể lánh kịp, không để cho địch phá.
Mặt trời vừa dậy đã nhăn nhó phóng những tianắng chói chang xuống. Bầu trời cao hẳn lên, vời vợi. Tiếng động cơ xe tăng rú phía xa. Nơiấy là đồn địch. Vài chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài chiếc tàu vận tải bay qua bay lại nặng nề. Có những tiếng pháo điểm cầm chừng. Xa xa lại có tiếng súng máy nổ liên thanh. Và bầy bồ chao ngủ muộn giật mình choàng dậy, hỏi nhau rối rít, tranh cãi nhau loạn xạ. Như vậy là buổi sáng yên lành. Chừng chín, mười giờ có thể đi làm những việc cần thiết.
Anh em trong trạm lục tục mang gùi, rựa, kéonhau đi. Chỉ còn cô trạm trưởng ở nhà vớikhách. Chúng tôi lấy võng ra, cột nằm một chút. Căn nhà của trạm đơn sơ, giống như mọi căn nhà của đồng bào vùng ranh này. Nói nhà thì hơi quá, bởi vì nó không phên, vách, không bàn, ghế, giường. Chỉ có mấy hàng cột với hai mái tranh sơ sài. Tuy nhiên, căn hầm lại rất chắc chắn. Nó được đào rộng bằng cả nền nhà, trên lát một lớp cây lớn, lấp một lớp đất dầy. Căn hầm đủ chỗ cho chín mười người cột võng nằm được. Tôi nhìn khắp gian nhà, suy nghĩ mung lung... Cuộc sống của người giao liên vùng ranh này giản đơn vậy đó. Với căn nhà xuyềnh xoàng, với những đồ dùng gọn, anh chị em trụ bám ở một vùng ác liệt, thầmlặng đưa bộ đội, cán bộ qua lại. Họ nối liền căn cứ với đồng bằng. Con đường của tathành mũi dao thọc vào tim kẻ thù, Hằng ngày,chịu biết bao gian khổ ác liệt, nhưng họ vẫnsống lạc quan, vui vẻ, yêu đời.
Cô San, trạm trưởng, mang sổ ra hí hoáy ghichép số khách.
Xong, cô mở một quyền vở học sinh, lẩm nhẩmđọc:
Em là mạch chứa dòng máu nóng
Em nối liền căn cứ với tiền phương
Con đường em cháy bỏng yêu thương...
Đọc tới đó, San cười rúc rích và hỏi tôi:
- Anh, có phải bài thơ ni nói về giao liên chúng em không?
Tôi gật đầu:
- Ừ, bài thơ ca ngợi các đồng chí đấy!
San lắc đầu quầy quậy:
- Không, chúng em có gì đâu mà ca ngợi!
Tôi cười:
- Nói lạ chưa! Đó, như Ba chẳng hạn, thật là một cậu bé thông minh, dũng cảm!
Nghe nói tới Ba, San kể:
- Gia đình Ba tội lắm anh à! Cha hắn làm biển bị bo bo bắn chết cùng hơn chục bà con khác. Nhà chỉ còn hai má con hắn, lại bị bọn địch bắtvào khu đồn.
Xếp chồng công văn lại, cô trạm trưởng hào hứng kể tiếp:
- Rồi đồng bào cũng nổi dậy phá banh khuđồn. Bữa ấy có đội công tác về. Ba bám riết anh đội trưởng nằn nì xin đi. Bị từ chối, hắn khóc dẫy lên rồi kéo tay anh đội trưởng tới chỗ má hắn. Ba vừa nói, vừa nấc, tấm tức: “Má, má nói giùm con... Con đi trả thù cho cha...”. Anh đội trưởng không nỡ từ chối. Rứa là hắn theo về huyện.
Các anh ở huyện lại chuyển cho trạm chúng em...
Mải nói chuyện, xế chiều rồi mà chúng tôi không hay. Anh em trong trạm đã trở về, mang theo mấy gùi bắp. Những trái bắp nếp bao còn xanh, phốp pháp.
Lại nhen lửa nấu ăn. Trạm bắc một nồi lớn,nấu đầy bắp trái.
Cô trạm trưởng tươi cười:
- Hôm nay liên hoan nghe mấy anh!
Thế là cả trạm nhộn nhạo cả lên:
- Hoan hô trạm!
- Trạm sang dữ hè!
- Mà sao lại ăn bắp non, uổng chết!
- Không, trạm em không lãng phí mô! Những đám bắp trước thu hết rồi, trái nào trái nấy khôcứng, hạt rắn đanh. Đám bắp ni bọn em trỉamuộn, nắng quá, héo cả cây, cả trái, để cũnguổng.
Chúng tôi, cả khách và giao liên, quây quần bên rổ bắp bốc hơi nghi ngút. Những trái bắp nếp ngắn ngày trông mỡ màng, ăn dẻo như xôi và ngọt lừ. Ba gặm hết một trái, quẳng cùi vàocái sọt, vui vẻ:
- Các anh xem, trạm em nghèo rứa đó, ăn sắn, ăn bắp thôi!
Một anh đế vào:
- Khoai bắp, tình quê rất thiệt thà. Nghèo màđược như ri là quý rồi.
Tất cả cười vang. Sau nhịp cười sôi nổi đó,San đứng dậy dặn dò:
- Các anh ăn xong thu dọn đồ đạc cho gọn nghe! Dây mang cột cho chặt. Đai dép rút sít vô cho dễ chạy. Ba và anh Phước, trạmtrưởng trạm hai mươi sáu, sẽ dẫn các anh đi.
Chúng tôi vượt mấy cánh đồng trống, vượt một con sông thì trời đã nhá nhem tối. Lại vượt qua một bãi tranh lớn. Bãi tranh này bị bọn địch rải xăng đốt trụi, rộng thênh thang như một sân bay. Ba đi đầu. Phước đi cuối hàng. Khi qua khỏi bãi tranh, bước lên một đồi sim thì Phước vượt lên, khẽ gọi:
- Ba, dừng lại đã!
Chúng tôi cũng dừng lại, đặt ba lô xuống nghỉ.Ba và Phước ngồi chồm hổm bên một bụi sim.Tôi nghe hai người rầm rì:
- Em ở chờ đoàn khách, anh bám đường nghe!
- Không, em bám đường, anh ở chờ!
- Không được, anh quen đoạn đường này hung rồi!
- Không, anh đi họp về, anh cũng là kháchthôi. Em là giao liên, em phải bám đường!
- Thằng nhỏ này ngang dữ. Đoạn đường này thuộc về trạm anh.
Anh là trạm trưởng, mi phải nghe lời!
Hai anh em vẫn tiếp tục tranh cãi, mỗi lúc một gay gắt hơn. Tôi ngồi nghe, lòng đầy xúcđộng. Ai đã từng đi qua vùng ranh những ngàyác liệt mới thấy hết ý nghĩa cao quý của sự tranh giành đó.
Phía trước kia là con đường xe chạy. Bọn địchthường ra phục kích.
Cái chết rình mò trong từng bụi sim, trên từngbước đường.
Cuộc tranh cãi chấm dứt. Có lẽ là Ba thua.Phước đã ôm súng lẹ bước ra phía lộ. Ba hậm hực quay lại chỗ chúng tôi:
- Anh Phước giành đi trước rồi! Các anh ngồichờ một chút! Nếu nghe anh Phước ra hiệu thìkhẩn trương theo em. Còn nếu nghe tiếng súng thì các anh chạy quay lại nhà ông Phấn.
... Bầu trời đen xẫm. Tĩnh mịch. Không một tiếng máy bay.
Không một tiếng pháo. Ba ngồi nhấp nhổm không yên. Bỗng một tiếng súng vang lên. Ba bật dậy, lao vút đi. Tiếng súng AR15 nổ loạn xạ như mè rang. Tiếng AK đáp lại, nhịp ba viên một, chắc chắn. Rồi một tiếng lựu đạn M.26 nổ “ầm”. Và im lặng...
Chúng tôi ngồi trong nhà ông Phấn, bồn chồn ngóng đợi. Ba đã về kia, tay xách một khẩu AK. Chiếc mũ của em đã văng đâu mất.
Mái tóc tơ đẫm mồ hôi, dính bết trước trán.Trong ánh đèn dầu, gương mặt em trông vàng võ lạ. Chúng tôi hỏi dồn dập:
- Phước đâu?
- Phước về chưa?
Ba chỉ ra sân, giọng lạc hẳn đi:
- Anh Phước ngoài đó...!
Chúng tôi xách đèn, đổ xô ra. ánh đèn dầu tỏa ra sân cỏ một vùng sáng vàng yếu ớt. Hai anh du kích đứng ở đó từ lúc nào, lặng im. Còn Phước thì nằm trên nệm cỏ. Tôi cúi xuống nhìn Phước, xót xa. Phước nằm ngửa, haichân duỗi thẳng, cánh tay phải bị gẫy nát, cánh tay trái nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thếcầm súng bắn. Máu thấm ra ướt cả tấm dù bọc thi thể anh. Chúng tôi đều im lặng. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Tôi thấy hình ảnh Phước cứ hiện rõ trước mặt, vui tươi, cởi mở. Phước trạc ngoài hai mươi, cao gầy, có nụcười rất đôn hậu, khiến người ta vừa nhìn thấylà mến, tin ngay...
Hai anh du kích dậm chân, thỉnh thoảng lại chép miệng. Tiếng một anh trầm trầm chìm trong màn đêm: “Lũ chúng mình chậm quá!Nếu đi sớm một chút, đặt kịp mìn ở đoạn trên thì chúng “xoang” rồi, mà anh Phước khỏi hysinh”. Anh kia ngậm ngùi:
“Chúng mình có lỗi, đi phục kích lại bị trễ hơn chúng”.
Ba từ trong nhà bước ra, giọng thảng thốt:
- Anh Phước, anh Phước ơi!
Các anh du kích lại bên Ba, dỗ dành:
- Thôi đừng khóc nữa em! Nhớ trả thù cho anh Phước! Em đi làm nhiệm vụ đi! Dẫn khách đi vào lúc này là tốt hơn cả.
Hình như nghe nói đến nhiệm vụ, Ba tỉnh táolại. Em lặng lẽ đứng dậy, xách cái bao bột mì loang lổ máu của Phước, mở ra lấy cái võng, tấm đi mưa, đưa cho anh du kích, giọng bùi ngùi:
- Các anh đưa anh Phước đi dùm em!...
Em chỉ cái bao:
- Trong nớ còn một ít hom sắn, anh Phước xin ở trạm em, trù xuống đó trồng. Các anh lấy trồng quanh nơi anh Phước nằm. Anh Phước siêng lắm, cứ rảnh việc là lại cầm cuốc tăng gia.
Quay sang chúng tôi, Ba giục:
- Các anh lên đường nghe!
Giọng em rắn đanh lại. Trong đôi con ngươi còn lóng lánh nước mắt của em, ánh đèn dầu sáng lung linh như hai ngọn lửa. Không hiểu sao, tôi bỗng nghĩ rằng, từ đôi mắt ấy sẽ phát ra những tia sáng diệu kỳ, soi tỏ màn đêm, rạch ròi từng bờ cây, bụi cỏ, rõ lối cho chúngtôi đi...
(Kỷ niệm chuyến công tác vùng ranh Quảng Nam)
Thứ sáu, ngày 9/10/1970
Sáng nay đánh dấu một bước tiến quan trọng của đời tôi. Tôi được kết nạp vào Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam - cũng là Đảng Lao động Việt Nam. Đó là điều tôi ấp ủ từ lâu và cũng là niềm mong đợi của gia đình tôi, nhất là cha tôi.
Buổi lễ kết nạp được tổ chức đơn giản, đúngvới nếp đơn giản thường có ở chiến trường. Giữa rừng già kín đáo, trong căn nhà tranh tối tranh sáng, anh em căng một cái tăng rồi treo cờ Đảng, chân dung Hồ Chủ Tịch, khẩu hiệu “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại!”. Tôi đứng trang nghiêm nghe đọc quyết nghị kết nạp của Đảng ủy cơ quan. Rồi tôi đứng lên trước anh em đọc lời tuyên thệ. Xúc động nhiều, tôi nói được ít. Tuy nhiên, đó là những lời nói xuất phát từ trái tim cháy bỏng nhiệt tình của tôi. Từ nay tôi đã là đảng viên dự bị củaĐảng. Tôi phải phấn đấu hơn nữa để sau 9tháng thử thách trở thành đảng viên chính thức. Sự tiến bộ này của tôi, có công lao của anh Lý, anh Vượng. Nhớ có một lần, sau khi vào chiến trường được khoảng một năm, nhân chuyến đi cõng gạo, tôi có hỏi anh Bí thư Chi bộ xem Chi bộ có ý kiến gì về ưu, khuyết điểmcủa tôi, anh trả lời là chưa ai bàn đến. Lúc ấy, tôi buồn quá. Sự ghẻ lạnh mới đáng sợ làm sao! Nhưng từ khi có anh Lý, tôi đã được quan tâm, dìu dắt. Anh Vượng luôn sát cánh bên tôi, thông báo ý kiến của Chi bộ để tôi biết mà phấn đấu. Cách đây ít hôm, Vượng viết thư cho tôi, báo tin Đảng ủy đã duyệt trường hợp của tôi, viết rằng khi có ý kiến nhận xét khuyết điểm lớn nhất của tôi là luộm thuộm, anh Sâm (Khu Ủ y viên, Trưởng Ban Tuyên huấn của chúng tôi) cười rất to.
Trưa, tôi và 4 đồng chí khác lên đường đicõng muối, mua hàng.
Trời mưa suốt. Qua Trà Niêu, thấy lúa ở đâybị chết rụi vì chất độc của Mỹ. Máy bay HUIA cũng mới bắn chết 2 con trâu của đồng bào.
Họ xẻ hết thịt nhưng còn để lại đó một cái đầu to tướng.
Tới ngày thứ ba, chúng tôi đi qua nơi anh Lê, Bình và Nghị hy sinh. Đây là một đoạn đường trong rừng non, lẫn lau lách, khá bằng - nằm ở đỉnh dốc. Mộ của Lê và Nghị nằm gần nhau, cách nhau một con đường mòn, Nghị nằmchếch phía dưới một chút. Nấm mộ của Lê đắpkhông cao lắm, hình hơi vuông - có lẽ Lê chết trong tư thế nằm co. con đường đi hơi lấn xuống nấm mộ của Nghị. Bọn tôi dừng lại lấy rựa phát quang những cây lách, dọn sạch phíatrên cho mọi người đi tránh mộ Nghị, rồi lấycây rào quanh nấm mộ. Tôi lặng lẽ làm, suynghĩ mông lung. Nhớ thương lắm! Mộ của bình nằm dưới đó vài chục mét, được rào cẩn thận, song đất đắp hơi ít nên rất nhỏ bé. Ở giữa rừng này, cuốc xẻng không có, làm sao có thể đắp to hơn được Bình ơi!
Về, cõng muối đi trong mưa dầm dề. Người ướt rượt. Bao muối trên lưng ướt mèm, nước nhỏ giọt, nhỏ giọt vào lưng áo, rát vô cùng.
Tới bờ sông Tang, bọn tôi phải dừng lại -nước lũ đã chắn đường chúng tôi. Sông không rộng lắm, song nhiều đá. Ngày thường, nước chỉ tới bắp chân, chảy khá mạnh, song vẫn lội qua được. Mưa nhiều, nước trở nên lớn và hung dữ tợn. Dòng nước đục ngầu, nhấn chìmrất nhiều những mỏm đá trước đây vẫn nằm khô. Nước xoáy vào đá, tung bọt trắng xóa. Chúng tôi cứ ngồi đó nhìn mức nước đang xuống một cách chậm chạp, hy vọng có thể qua được vào buổi trưa. Song, trời đã sầmmặt lại, chuẩn bị một cơn mưa khác. Đành căng tăng ở lại.
Cũng may, đêm không mưa. Trời trong và trăng sáng lạnh lùng. Sáng, nước đã rút bớt, trong lại, song còn chảy rất xiết. Dù sao cũng phải vượt qua. Hàng chục người bị ứ ở hai bên bờ sông đều kéo ra xem xét, la ó. Tạo cởi trần lội dò nước. Cậu ta to, khỏe nên đã băngđược qua dòng sông, dò ra lối lội. Những người đi không theo đó lội qua. Có anh lội quađược một khúc thì bị trôi, nhưng lại dạt đượcvào mỏm đá gần giữa sông. Có mấy anh nắmchặt tay nhau, cứ thậm thà thậm thụt ở bờnước, không dám nhào ra. Mấy anh dân tộc lộiào ào, dùng gậy chống đỡ với dòng nước, cứbăng qua và miệng thì la lối, cười nói liên hồi. Những tốp đã qua được bên kia bờ nối nhau thành một cái dây để kéo người đi sau vượt qua đoạn cuối.
Họ la: “cố lên, nhanh lên!”. có cô gái dân tộc đíu chặt trên lưng một anh - anh ta khoẻ, lội băng sang. Một anh dân tộc nắm tay một cô gái Kinh dìu qua sông. Song khi vừa nhớm chân xuống nước, cô ta liền thụt lại và kêu lên mấy tiếng “choé, choé!” như tiếng vượn vậy.
Anh thanh niên đã lội xuống nước, cứ lội tới và kéo tay cô gái. Cô ta vẫn kêu choe choé, vùng vẫy. Khi qua được bờ rồi, để mặc quần áo ướt sũng dính bết vào người, cô ta đứng cười ngặt ngẽo và kêu lên:
“Khỏi chết, khỏi chết rồi!”. Nhộn nhà nhộn nhạo khắp khúc sông.
Tạo vác bao muối của tôi lội qua trước. Có lúc cậu ta bị trượt chân, lao đao dưới nước làm tôi lo thót tim. Song cậu ta vẫn gượng được, lướt sang bờ bên kia. Cứ thế, Tạo vác 3 bao muối sang. Tôi bị sốt nên chỉ lội người không cũng đủ mệt.
Ngày 15, tôi về đến nhà. Vò đang sốt nặng.Cậu ta nằm ở sạp, thở khò khè. Tôi ngồi bên cậu, cầm tay và gọi: “Vò ơi, Vò ơi!” song cậu chẳng biết gì cả. Người Vò lạnh ngắt, chân tay co lại, chẳng cử động gì. Đôi mắt Vò mở, song chẳng nhìn vào đâu cả. Tôi nắm tay Vò giật giật và gọi: “Vò ơi, có lạnh không?”. Cậu hơi cựa quậy một chút, nhưng không nói được mà chỉ: “ự, ự” trong họng. Kiểu này gay đây.
Anh em cho biết Vò đau từ ngày tôi đi tới nay. Cũng sốt rét thôi, nhưng kèm cả đi lỏng. Không có thuốc. Cũng chẳng đủ người để chuyển Vò vào viện. Đến sáng nay thì Vò không dậy được nữa.
Chúng tôi thu xếp cáng Vò đi bệnh viện. Khiđược đưa vào cáng, Vò cũng chẳng biết gì. Thật đau xót, buổi chiều 15, khi đưa Vò tới viện thì cậu ta đã tắt thở.
Vò quê ở Ninh Giang Hải Dương. Mới 19 tuổi,Vò đã được kết nạp vào Đảng - kết nạp ngay trên đường vào Nam. Khi chuyển sang cơ quan chúng tôi, Vò bị sốt rét nhiều, người xanh xao, cơ teo lại.
Song cậu ta rất cố gắng. Nhiều buổi trời mưalạnh, Vò vẫn đi chăn trâu, về còn hái rau cho nhà bếp. Vò rất chịu khó khâu vá, tuy đường kim của cậu ta rất vụng về, chỉ như đường may lược của các cô gái. Giờ đây chiếc mũ Vò may còn đó, chiếc quần cậu ta may bằng vải xé từ ruột nghé ra đang còn dở dang... Bệnh tật cướp Vò đi một cách dễ dàng quá. Trước đó ít ngày mà đưa Vò đi bệnh viện hoặc chỉ cần có ít kí ninh ống, ít Cacofe, B12 tiêm cho Vò là có thể giữ cậu ta lại được. Đơn giản vậy đó, song thật đau xót, không thể làm như vậy được. Thuốc quá thiếu thốn, không có một ống, mà thuốc viên cũng hết nhẵn. Chúng tôi đi vắng, ở nhà chỉ còn mấy phụ nữ và mấy cậuđau ốm khật khừ, lấy ai khiêng Vò đi được?
Cách đây ít lâu, nhìn da Vò xanh dợt, bủngbeo, nhìn thân hình Vò gầy nhom, khật khưỡng, tôi nghĩ rằng cậu ta khó mà trụ được với cuộc sống khắc nghiệt này. Có ít viên sâm Triều Tiên, tôi đưa cho cậu ta dùng. Song ăn thua gì kia chứ? Còn đau xót nào hơn nỗi đau xót khi biết trước rằng đồng chí mình có thể chết, lại biết cách để cứu đồng chí mình, nhưng không có điều kiện để cứu, đành chịu thua thần chết?
Từ ngày 20/11/1970
Tôi trở về Ban công tác. Thế là đã qua một mùa rẫy rồi. Phút nào còn bỡ ngỡ với nhát rựa đầu tiên trên rẫy mà bây giờ đã cùng anh em làm nên cả một mùa lúa vàng, mang mùa vàng no ấm chất đầy kho! Ra về, lòng không khỏi lưu luyến. Vì nơi đó đã thấm mồ hôi của mình trên từng khóm lúa, nương ngô, gốc sắn. Vì ở đó, mình đã rèn luyện trong lao động nặng nhọc và đã trưởng thành.
Lên đến đỉnh dốc cao rồi, tôi quay nhìn lại nơi ở. Nổi lên giữa màu xanh bạt ngàn của rừng núi là một bãi xanh bằng bặn của rẫy sắn lớn của chúng tôi. Tôi rất nhớ những ngày đổ mồ hôi, phát, ráng sức cõng hom để trồng nên 14.000 gốc sắn xanh tốt đó.
Đồng bào nóc ông Chanh bùi ngùi tiễn tôi đi.Tối đó, tôi ngủ lại nóc, dạy bọn trẻ hát và cùng ngủ sạp với chúng. Bà con cho tôi nào nếp, gạo, nào mè, chuối để đi đường ăn.
Ban làm nhà ở gần nóc đồng bào Kà Đongthuộc thôn 4 xã íp.
Lại bắt tay vào chuyên môn. Tôi được phân công đi các ngành lấy tài liệu viết một số tintổng hợp nhân dịp 20-12. Quả thật, lâu ngày mới cầm bút viết, cũng chật vật.
Tôi cùng các anh Lý, Vượng, Ca ở một nhà,rất thú vị vì hợp “gu” nhau. Bọn tôi quen nhà ông Xây và quan hệ rất mật thiết. Mấy đứa nhỏ con ông Xây rất dễ thương. Chúng tôi kiếm vải may áo cho chúng. Ông Xây rất quý chúng tôi, nhà có gì ngon lại gọi ra cho ăn, thỉnh thoảng lại bảo con đem vào cho bọn tôi ít gạo, sắn hoặc chuối... Bởi vậy, bọn tôi tối nào cũng có thứ để xì xụp với nhau.
Lương thực hồi này khá hơn. Ngoài số chúng tôi tự sản xuất ra, còn được cấp gạo “Xã hộichủ nghĩa”. Ở bến xe, chúng tôi còn 2 tấn gạo, song không có người chuyển về. Cứ chuyển lần hồi vài cõng một.
Trời mưa tầm tã hoài. U ám và mọng nướcmãi. Mưa kéo dài cả chục ngày. Tạnh một chút, tưởng đã nắng, lại mưa. Bọn tôi ở cao, trời quánh đặc một thứ mù ẩm ướt. Giá lạnh vô cùng. Đêm nào cũng chất cả một đống lửa to tướng giữa nhà.
Theo chủ trương của Ban, đông đảo cán bộ, nhân viên sẽ đi nước Ta sản xuất lang, rau đông xuân và đi nóc ông Thiên vỡ đất làm ruộng, đến tết sẽ về.
Ngày 26/12, tôi lên đường đi nóc ông Thiên. Trời vẫn mưa dai dẳng.
THƯ GỬI GIA ĐÌNH
Miền Trung Trung Bộ. 1/12/1970.
Bố mẹ và các em yêu quý!
Hôm nay có anh Thành và anh Dân ra Bắc,con tranh thủ viết thư thăm gia đình.
Hồi này con vẫn khoẻ. Qua gần 3 năm côngtác ở chiến trường, con đã già dặn, cứng cáplên nhiều và cũng đã có những bước tiến đángmừng. Ngày 9-10-1970 con đã được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam. Bố mẹ ạ, để có ngày vinh quang đó, con đã phải cố gắng rất nhiều. Như bố mẹ biết đó, hồi con đi do không có thì giờ, không lấy kịp giấy sinhhoạt đối tượng nên vẫn là quần chúng trơn. Khi đi trên đường, sinh hoạt của Đoàn cũng lỏng lẻo nên mặc dù con rất cố gắng vẫn không được chú ý tới và khi vào cơ quan, con vẫn chỉ là một đoàn viên thường. Tuy nhiên, con luôn xác định cho mình là phải kiên trì phấn đấu nên trong công tác, sinh hoạt con vẫn luôn hăng hái, phấn khởi, không tỏ ra sốt ruột, thắc mắc. Ở đây, khó khăn, gian khổ đã thử thách con và tạo điều kiện cho con phấn đấu, thể hiện bản chất của mình. Các đồng chí Đảng viên và các đồng chí lãnh đạo cũng luôn giúp đỡ con. Đặc biệt có anh Huỳnh Ngọc Lý (có vợ người miền Bắc, ở Hải Phòng) rất tận tình giúp đỡ con từng ly từng tý và rất tích cực nêu vấn đề của con ra trước chi bộ. Tới tháng10/1969, đáng lẽ con được chuyển lên đối tượng, song thời gian đó, trong dịp di chuyển cơ quan, con lại sơ ý để mất của cơ quan một cái đài bán dẫn nên bị để lại. Sau đó con được phân công đi sản xuất, tự túc lương thực cho cơ quan. Khi gác bút, cầm rựa, con phải vượt qua bao bỡ ngỡ, mệt nhọc để làm quen với công việc. Tạị đây con được anh Bá (cũng là chi ủy viên như anh Lý) hết sức gíup đỡ. Con đã thắng mọi mệt nhọc, khó khăn, luôn là cá nhân xuất sắc của đơn vị, là đoàn viên 4 tốt nên chỉ sau 3 tháng sản xuất (tháng 5/1970) con đã được chuyển lên đối tượng và tới tháng 7 thì được chi bộ kết nạp. Toàn chi bộ nhất trí 100% về việc kết nạp con và cho con hưởng thời gian dự bị là 9 tháng (lẽ ra đối vớimột tiểu tư sản học sinh là phải 12 tháng). Do giao thông liên lạc khó khăn, việc chuyển hồsơ của con lên Đảng ủy và nhận Quyết nghịcủa của Đảng ủy về bị chậm trễ nên hơn 2 tháng sau con mới được kết nạp. Hiện nay,con đã trở về cơ quan làm công tác chuyênmôn và tiếp tục phấn đấu để trở thành Đảngviên chính thức. Trong dịp bình bầu khen thưởng cuối năm, con được bầu là Chiến sĩ quyết thắng (thấp hơn chiến sĩ thi đua một bậc). Hiện nay con được cử làm Bí thư chi đoàn thanh niên của cơ quan. Con luôn tự nhủ phải cố gắng hết sức và khiêm tốn học hỏi các đồng chí lớn tuổi để làm thật tốt nhiệm vụ của mình, trở thành người cán bộ thật tốt của Đảng.
Bố mẹ kính yêu! Sống xa gia đình con luônnhớ đến bố mẹ và các em. Tuy nhiên, gần một năm nay con không nhận được lá thư nào của gia đình cả. Bố mẹ cố gắng hỏi chị Tú ở VNTTX cách gửi thư cho con sao cho nhanh nhé. Hiện anh Đức đã về chưa và công tác ở đâu? Việt, Ngọc có hay về thăm nhà không? Diệp, Lan, Thủy học có giỏi không? và lớnnhiều chưa? Con rất mong gia đình gửi ảnh cho con.
Con có mời anh Thành, anh Dân đến thăm giađình. Hai anh này sẽ trở vào chỗ con sau khi nhận máy móc. Bố mẹ nhớ gửi thư để 2 anh ấy cầm vào giúp. Nếu anh Đức có đồng hồ thì mẹ gửi cho con một cái, con rất cần vì đi rừngnúi không có đồng hồ khổ lắm. Con cũng cầnmột ít tiền để mua sắm đồ dùng và bồi dưỡng, bố mẹ gửi cho con với (gửi tiền 10đ của miền Bắc, vào đây con sẽ đổi ra tiền miền Nam). Anh Thành là bạn thân của con nên nếu gửi anh ấy mang được là rất chắc chắn, hoặc nhờ anh ấy nhờ người mang hộ cũng tốt.
Cuộc sống của chúng con vẫn rất gian khổ, giá sinh hoạt đắt đỏ, nên khó có điều kiện cảithiện đời sống. Ăn uống chủ yếu vẫn là sắn,bắp và rau rừng. Bắp được coi là gạo chứkhông phải là thức ghế. Chúng con đang cố gắng sản xuất, đánh cá, săn bắn để nâng cao mức sống của mình. Sang năm, chúng con có thể được phát tiền ăn gấp đôi mức hiện nay. Nếu vậy thì mức ăn uống có thể khá hơn.
Bố mẹ ạ, điều đáng mừng là con đã gắn bó được với đồng bào Thượng ở căn cứ như hồi ở Sơn La con gắn bó với đồng bào Thái.
Con đã nói được tiếng Kà Dong và được đồngbào rất thương yêu.
Nói chung, cuộc sống của bà con ở đây cònkhổ lắm, còn thiếu mặc và lạt muối. Đồng bàođã tổ chức được những tổ vòng công, hợp tácđể đẩy mạnh sản xuất.
Con rất nhớ cụ, bà ngoại, ông bà trẻ, côChung, cậu Hiếu và các em. Con rất mong nhận được thư của những người thân thích trong gia đình.
Bố mẹ không nên quá lo lắng cho con, vừaqua chị Sáu ở cơ quan con có viết thư nói gia đình hay đến hỏi tin con và nói con ít viết thư về nhà. Thực tế, con cũng rất tranh thủ viết, song việc gửi rất khó nên thư ít tới tay giađình. Do vậy việc bặt thư con dăm bảy thánglà chuyện thường, bố mẹ chớ lo.
Con gửi lời thăm các cô chú trong cơ quan bố.
Con của gia đình.
Việt Long
Năm 1971
Ngày 1/1/1971
Năm mới đến trong cái mưa dầm dề dai dẳng.Trời mù suốt và cứ mưa rả rích. Tôi đón năm mới trên đường đi nóc Ông Thiên. Một mìnhcắm cúi bước trên đường trong cái lạnh ướt. Một mình ngủ giữa rừng thấy buồn tẻ vô cùng. Đêm đầu, cột võng ngay bên đường mòn, súng ngắn để trên bụng và ngủ yên lành tới sáng. Đêm thứ hai vào một khu cơ quan bỏ hoang bên sông, thấy ấm áp hơn.
Đến cơ sở sản xuất lúc anh em đang cuốcruộng. Ở đây đang vỡ hóa lại cánh đồng bị bỏ hóa từ mấy năm trước đây. Những thửa ruộngcao bị cỏ tranh bao dày. Những thửa ruộng cũbị sình lầy và cũng dầy đặc cỏ.
Chúng tôi dùng cuốc vỡ ruộng. Sình lầy quá đỗi. Dẫm thụt đến quá đầu gối. Cuốc, ra sức cuốc. Cỏ kết bè lại, nhùng nhằng. Nước bùn thấm vào da thịt lạnh ngắt và rất ngứa. Da thịt Ửng đỏ lên, ngứa muốn điên lên. dầm trong nước lạnh và bùn lầy, bọn tôi vẫn vỡ từng đám ruộng một. Chúng tôi còn có cái thú là bắt chimcuốc - Tô biết làm loại bẫy bằng tre thít cổ chúng.
Chẳng bao lâu ruộng đã bờ liền bờ, phẳng phiu, đủ cho chúng tôi cấy 6 ang giống. Mạ cũng đã được gieo.
Ngày 16/1/1971
Mấy hôm nay trời đã hửng nắng. Bầu trời cao,xanh, xen những đám mây trắng xốp. Những tia nắng le lói chiếu trên khắp núi rừng, xua tan dần cái ẩm ướt, lạnh lẽo. Bọn địch lợi dụng trời nắng hoạt động dữ. Moranh quần lượn suốt. “Rọ”, “gáo”, HU.1A (các loại máy baytrực thăng trinh sát và chiến đấu) luôn luôn chúi vào các hẻm núi dòm ngó. Có khi “rọ” cònlách theo bờ sông dùng cánh quạt ở đuôi quạttung từng bụi cây để tìm người, nhà cửa. Cáithứ tầu “rọ” này đáng ghét lắm: chúng nhỏ bénên luồn lách khắp nơi, sà xuống thấp dễ dàng. Đã thế, chúng chỉ có bộ khung bằng kim loại, còn lại bọc bằng nhựa trong suốt nên quan sát rất dễ. Rất nhiều đồng chí của tôi đã bị “rọ” kít xuống bắn chết hay bắt sống.
Chúng phát hiện ra xóm nhà của nóc ông Điền. Thế là lũ HU.1A và tầu rọ bu đến bắn đại liên, phóng rốc két, cối... Một chiếc máy baycánh dơi quần lượn suốt, thả hết tràng bom này tới tràng bom khác. Chúng đánh phá như vậy suốt 3 ngày liền. Đêm, chúng còn bắn pháo cấp tập đến nữa. Không hiểu đồng bào bị thiệt hại ra sao?
Ngày 22/1/1971
Tôi cùng Tô, Tùng mang nếp, gà về cơ quanăn tết.
Ráng tới bờ sông Tranh khi trời đã nhòa tối.Gọi đò hoài mà không ai đáp. Trời lại rắcxuống một trận mưa, lạnh vô cùng.
Chúng tôi lội ngược suối, định lên đơn vị sảnxuất gần đó ngủ nhờ.
Nhưng khi vừa bước vào nhà, đã nghe giọng nói chẳng lấy gì làm thân thiện lắm: “Các anh định ngủ nhờ hả, không được đâu!”. Tính tôi không thích kèo nèo. Tô, Tùng cũng vậy. Thế là lại quay ra bờ sông mưa lạnh.
Dăng tạm tăng ở lại bờ sông mà ngủ. Tô bỗng kêu thét lên. hóa ra cậu ta vịn vào cây, vớ trúng con rắn lục. Loại rắn này mầu xanh lá cây, sống trên cây nhưng chỉ hoạt động vào ban đêm. Nọc chúng rất độc, có thể giết chết người như không. May mà lúc này còn ánhmặt trời, con rắn đang ngủ, chỉ phản ứng mộtcách chậm chạm. Tô dùng rựa chém chết con rắn. Chỗ này dốc, nhiều đá nên chúng tôi cột võng không thoải mái chút nào, đầu cứ chúi xuống phía sông.
Ăn chút cơm nguội. Rồi leo lên võng nằm. Gầnsáng, cái tăng bị đọng nước, đổ một vũng xuống võng Tô làm cậu ta ướt mèm. Tô làu bàu: “Ngồi vậy thôi”. Tuy nhiên, vẫn cột võng tránh chỗ nước và lại ngủ thiếp đi - mệt quá mà. Nghe mấy quả pháo nổ gần gần.
Từ 24 đến 30/1/1971 - Xuân Tân Hợi
Chúng tôi đón xuân mới tại cơ quan. Trời chẳng có gì là xuân cả vì cứ u ám suốt và lạnh vô cùng.
Thật là tai hại, cái con heo to lớn mập mạp của cơ quan lại bị bệnh gạo - phải chôn. Do vậy quá nghèo thịt. Anh em kháo nhau rằng đó là điều may, năm mới sẽ tha hồ gạo mà ăn.
Tuy nhiên, về tinh thần thì khá thoải mái. Chúng tôi họp tiểu ban, đại hội chi bộ trước tết, còn đến giao thừa và ngày 1, 2 đều đượcnghỉ. Tôi và Vượng thức suốt đêm nghe đài, tán chuyện tào lao.
Đồng bào cũng vào ăn tết với chúng tôi. Cơquan đãi bà con một bữa khá thịnh soạn. Bọntôi cũng dành kẹo bánh đem biếu nhà ông Xây- cơ sở của chúng tôi.
Ngày 4/2/1971
Nhà ông Xây cho chúng tôi một con heo nhỏ.Bọn tôi mổ thịt và mang về nấu. Nhà chỉ có 3 anh em. Xì xụp lúc cúc nấu nướng suốt buổi tối. Kể ra đây cũng là một việc hiếm có.
Trời vẫn mù, mưa nhỏ hạt. Lạnh vô cùng. Chúng tôi chất lửa suốt đêm ngày.
Ngày 8 - 16/2/1971
Tôi đi cõng gạo “Xã hội chủ nghĩa”. Đây là loại gạo được chuyển từ miền Bắc vào chứ khôngphải loại gạo mua từ đồng bằng miền Nam lên.Nói chung, những gì liên quan đến miền Bắc, chúng tôi đều gắn với 4 từ Xã hội chủ nghĩa:“gạo Xã hội chủ nghĩa”, “đường Xã hội chủ nghĩa”, “thuốc Xã hội chủ nghĩa”...
Chúng tôi đi về phương Bắc. Ngoài tết rồi màtrời vẫn mưa lai rai. Đường nhão nhầy, trơn truội. Đi qua con đường mà cách đây gần 3 năm tôi đã đi qua khi hành quân từ Bắc vào.Đến nước Kiết - trạm Dân cũ - Tôi ngồi ngắm nhìn cảnh vật, lòng đầy suy nghĩ.
Dòng suối này tôi thường ra câu cá và mỗi khi đi mót sắn về lại cõng gùi sắn qua để vào bãi khách phía trong kia. Ôi! những ngày đói kém, gian khổ đầu tiên đến thử sức bọn tôi có lẽ là ở đây đây.
Lại đi qua con sông Nước Mỹ. Dòng sông đầynhững tảng đá khổng lồ. Người ta lấy gỗ bắcqua những tảng đá đó để làm cầu đi qua sông. Hồi vào, bọn tôi đi qua đoạn sông này. Phía bãi cát có những bụi rù rì duyên dáng, tôi và San từng ra đó chụp ảnh - bao năm trôi qua rồi, song cảnh vật không khác chi mấy.
Trời lạnh vô cùng. Đêm ngủ, thấy võng giá ngắt như ướt sũng nước. Sơn và Khoa cột sát võng, nằm chung bọc võng cho ấm. Tôi mang đủ màn, áo ấm mà vẫn lạnh không sao ngủ được. Trời nắng được 3, 4 bữa. Đường ráo một chút, song có những quãng lầy, bùn lại đặc quánh lại, dính dép nhằng nhẵng. Rồi lạirắc mưa xuống, nhớp nháp.
Đường dốc vô kể. Những cái dốc đứng sựng trơn truội. Xuống dốc, thần kinh căng như dây Mi của đàn Măng đô lin. Có một anh đã sảy chân ngã, bị sứt 2 cái răng. Tôi phải dùng gậychống, dò từng bước đi xuống. Lạnh mà mồ hôi vẫn tuôn ra. Ngồi nghỉ một chút, mồ hôi raoráo lại lạnh vô cùng, phải đi ngay. Ngán nhấtlà lúc ăn cơm trưa. Ăn vào rồi, thấy run lên vì lạnh. Không muốn ngồi lại chút nào, tuy biết rằng ăn xong mà đi ngay là rất hại, rất ác với cái dạ dày.
THƯ GỬI GIA ĐÌNH
Ngày 19/3/1971
Bố mẹ kính mến !
Có anh Phò ra Bắc chữa bệnh, con gửi thưnhờ anh ấy mang ra và mời anh ấy đến chơi nhà. Anh ấy cùng ở tiểu ban, cùng tổ đảng với con. Anh ấy sẽ kể nhiều chuyện về con cho gia đình nghe.
Bố mẹ ạ, hoàn cảnh gia đình anh Phò cũng tội, vợ, con anh ấy đều ở đồng bằng, lâu nay không liên lạc gì được. Nay anh ấy bị bệnh, không có đủ sức khoẻ, phải ra Bắc, anh ấy cũng buồn. Mong gia đình đối xử với anh ấy thân mật, đầm ấm như người nhà để anh ấy vui.
Bố mẹ muốn gửi gì cho con thì nhờ anh Phò gửi cho nhanh và bảo đảm. Gần một nămkhông nhận được tin tức gia đình, con buồn quá.
Thôi, chúc bố mẹ khoẻ, các em ngoan, học giỏi. Anh Phò sẽ nói chuyện nhiều cho bố mẹ nghe.
Con đã dặn anh Phò nếu có điều kiện thì chụp ảnh gia đình để gửi cho con. Con mong ảnh gia đình lắm,
Con của gia đình.
Việt Long
Ngày 22/3/1971
Lý rủ tôi xuống ngọn nước Ta để kiếm cá.Dụng cụ mang theo là hai cái cần câu và một cái lưới rách nát, đứt xiên và chỉ có vài cái phao.
Chúng tôi mang gùi đi - cả võng, ăng gô, gạo, rựa, súng... Ở núi rừng này phiền phức thếđấy, đi khỏi nhà một đêm là phải mang đủ thứ lích kích.
Đến nơi, đã xế chiều. Tôi kiếm chỗ dăng tăng,kiếm củi nấu cơm. Lý đi thăm chỗ câu và rải lưới. Tối xuống nhanh quá, hai anh em ăn vội mấy miếng cơm rồi vác cần câu đi. Đầu tiên, chúng tôi ngồi câu cá ở gần một thác nước. Thác nhỏ thôi nhưng dựng đứng.
Nước đổ xuống trông như bức tường đá, bắn bọt khắp một vùng.
Dòng nước chảy mạnh, xô khối không khí quanh đó chạy dạt về phía trước, tạo thành một luồng gió mạnh. Thành thử ngồi đó luôn có cảm giác trời mưa gió lạnh lùng. Cá chẳng cắn câu gì cả. Chúng tôi vượt lên thác. Đá trơn, không có bậc, nên vượt thật vất vả. Phải bám vào rễ cây, dây rừng mà đu người lên. Trời tối thui. Lội qua suối, tôi bị hẫng chân vào một hũng sâu, ướt cả hai ống quần.
Câu chán ở trên không được, bọn tôi lại lầnxuống dưới thác.
Phải dò từng bước xuống. Trời dậm dọa mưa. Vội về dăng tăng.
Bấm đèn, dứt dây rừng để dăng tăng. Tới nửatiếng đồng hồ mới xong. Lý đi thăm lưới. Cácũng mắc. Cả câu, cả lưới được 9 con, mỗicon to bằng 2 ngón tay!
Ăn tiếp chút cơm còn lại. Mưa. Rải vội lưới,thả lưỡi câu Chình rồi về nằm.
Mưa rả rích. Rồi mưa lớn dần. Hai anh emnằm chung một tăng. Nước mưa hắt làm ướt cả bọc võng. Song không lạnh lắm.
Bốn rưỡi sáng, Lý thức tôi dậy. Mưa nặng hạthơn. Sông réo ầm ầm. Chắc nước đang lên. Lý lo lưới bị cuốn mất. Anh nhấp nhổm muốn dậy. Tôi viện lý là ở đó nước quẩn, không trôilưới được, khuyên anh nằm lại đợi sáng đã. Nhưng rồi anh vẫn dậy, bấm đèn ra gỡ lưới. Anh mang về một gói lưới. Lá dính đầy lưới. Cũng có 5, 6 con cá. Lại cả một chú cua, một chú ếch nữa. Chúng tôi gỡ ra, cho vào ăng gô. Cả thảy có 14, 15 con cá, một con ếch, một con cua - đó là chiến công của chúng tôi sau gần 2 tiếng vượt dốc, lội suối và một đêm hìhục lần mò, dầm mưa kiếm chác.
Nước sông lên to. Bọn tôi bàn nhau phải xuyên sơn về. Chẳng thèm nấu cơm sáng nữa. Thu dọn đồ rồi lội thử qua sông. May quá, cũng được. Tiếp tục lội ngược sông,vượt hai thác, leo dốc về cơ quan. Tôi chorằng đó là một thất bại. Lý nói rằng không thất bại, vẫn là thắng lợi. Tôi nói rằng phải trả giá mấy con cá đắt quá. Lý nói rằng không đắt, vì nước lớn, lẽ ra phải mất lưới cơ.
Về nhà nấu cơm ăn. Anh em để phần thịt mang xào, thịt mang nấu mì chay. Và trưa đó mỗi người được một nửa con cá do chúng tôikiếm. Kiếm ăn đâu phải chuyện dễ!
Hồi này địch tập trung xâm lược Nam Lào nênchỗ chúng tôi khá yên. Ngày, đêm có những chuyến máy bay phản lực vội vã bay qua đầu chúng tôi, lướt về hướng Bắc. Cứ hôm nào có máy bay bay nhiều, y như là hôm đó ngoài tađánh mạnh, thắng lớn.
Ngày 19/3/1971
Nghe tin ta đánh thắng Bản Đông. Thật lý thúkhi nghe những tin, bài phản ánh sự thắng lợiđó. Ngày 23, quân ta làm chủ hoàn toàn NamLào. Chúng tôi say sưa ghi chép tin tức chiếnthắng. Anh Phi chỉ thị phải có kế hoạch tuyêntruyền tập trung cho chiến thắng này. Tập thể bàn bạc, sau nửa tiếng vạch xong kế hoạch cụ thể. Bài vở soạn kịp thời, vẽ cả bản đồ nữa.Đem in kịp thời tập tài liệu về chiến thắng đó để chuyển về các tỉnh cung cấp xuống cơ sở.
Anh em tổ chức liên hoan mừng thắng lợi. Trong 2 ngày liền đổi được 2 con lợn - thế là rôm rả.
Phong trào cải thiện lên khá. Tổ đánh cá thỉnhthoảng lại gửi về một thùng cá muối. Đó làthành quả của việc cả tổ lặn lội suốt ngày đêm ở Nước Ta.
Đêm 27 rạng ngày 28/3, quân ta tập kích cứđiểm Xã Đốc. Suốt đêm, ở xã đó vang lên tiếng súng, tiếng máy bay. Nghe tin diệt gọn một tiểu đoàn Mỹ ở đây. Địch phản ứng yếu ớt. Chúng bắn pháo vu vơ vào các vùng xung quanh.Máy bay trinh sát cứ bay rít nhặng xị trên bầu trời nơi chúng tôi ở suốt ngày, đêm. Pháochúng câu tới vùng này, song còn cách chúng tôi vài chục phút đi bộ.
Suốt 3 ngày 27, 28 và 29/3, quân và dânTrung Trung Bộ tiến công dồn dập hàng trăm vị trí địch, diệt hàng ngàn tên Mỹ, nguỵ.
Tình hình chung toàn chiến trường rất tốt.
THƯ GIA ĐÌNH
Hà Nội, ngày 6-4-1971
Long thân yêu của mẹ!
Thấm thoát con xa gia đình đã gần 3 năm rồi, gia đình nhớ con nhiều lắm, mẹ cứ thấy người ta ra ngoài này bồi dưỡng sức khỏe hoặcđược ra hẳn, mẹ mong con cũng được ra quámà chả biết bao giờ con mới được ra. Kỳ này có đoàn vào để thay thế cho một số trong ấy ra, chả biết con có được ra không?
Hôm mẹ vào thăm anh Thành, mẹ cũng mua thuốc lá và đem kẹo vào biếu anh ấy và mẹ có dặn khi nào anh Thành ra viện thì thế nào cũng đến nhà chơi một ngày và anh Thànhcũng chưa thể vì còn nhiều chuyện nhưng đến bệnh viện không tiện nói nhiều.
Vì bố được tin tổ chức đến báo là có đoàn vào, có gửi gì cho con thì gửi cho nên mẹ tạm gửi 50đ và 20v thuốc tetracylin thay Biomycin. Khi nào con sốt hay viêm họng thì con dùng và còn một số thuốc viên trắng là nhung viên, anh mua cho mẹ dùng nhưng còn 70 viên mẹ gửi cho con dùng, một ngày uống 3 viên thôi, mẹ rất muốn gửi nhiều thứ cho con nhưng sợ họ không nhận. Đây là mẹ cứ chuẩn bị sẵn còn mai đem lên xem chị Sáu có nhận cho không? Mẹ đổi 5 tờ giấy 10 đ mới tinh để gửi cho conđấy, còn bao giờ anh Thành vào, mẹ có điềukiện lại gửi thêm tiền cho con, con chỉ để bồi dưỡng thôi không cần mua bán gì cả, mẹ chỉ cốt con còn khỏe mạnh, về với gia đình là tốt rồi. Hồi này các em bận học thi cả, chưa viết thư cho con được, thi xong các em sẽ viết cho con. Em Phúc còn một năm nữa là về rồi.
Nếu mẹ gửi được các thứ vào mà con nhậnđược thì con trả lời mẹ để mẹ còn gửi kỳ sau, con cứ viết sẵn thư khi gặp ai ra là con gửi thìtiện hơn, ở nhà mỗi khi ăn gì mà món ăn con thích thì mẹ lại nhắc đến con luôn, con cố gắng phấn đấu cho tốt và giữ gìn sức khoẻ, đừng chủ quan, khinh địch, gia đình rất mong con được về đoàn tụ cùng gia đình ngày gần nhất.
Thôi thư đã nặng rồi, mẹ chỉ viết được thếthôi, chả sao mà nói hết lời mấy con được.
Bố mẹ và gia đình chúc con khỏe mạnh.
Mẹ chụp ảnh gửi gấp cho con để con mừng.
Mẹ.
Ngày 9 tháng 4
Tôi và Vượng được cử đi công tác thực tế. Đó là ao ước suốt 3 năm nay của chúng tôi. Tôi sẽ đi Quảng Nam, Vượng đi Quảng Ngãi.Chúng tôi mau chóng chuẩn bị vài thứ cần thiết để đi sớm.
Anh Phi (Phương) căn dặn chúng tôi nhiều. Nói chung anh tỏ ra khá lo ngại cho chúng tôi vì chuyến đi này là chuyến đi đầu tiên, chiến trường lại ác liệt. Anh bảo: Xuống địa phương, ở làm việc với Tuyên huấn và Văn phòng Tỉnh ủy - kết cho chặt, cùng làm việc khoảng 15 ngày. Xuống huyện 15 ngày rồi đi huyện khác. Những tin có thể điện về Khu: Phá khu dồn, mở mảng vùng giải phóng, phá rã phòng vệ dân sự, binh biến, khởi nghĩa trong quân ngụy, đấu tranh chính trị lớn - nên viết gọn, rõ.Những tin tổng hợp về phong trào, về huyện. Làm ngay tin chống bình định, giành dân của tỉnh: đánh bọn kìm kẹp, diệt ác ôn, làm rã địch, phá khu dồn, xây dựng vùng giải phóng như thế nào? Phong trào du kích chiến tranh - của tỉnh, huyện. Phong trào đấu tranh chính trị - có thể viết tổng hợp hoặc gắn với tin về nổi dậy. Những mẩu chuyện về du kích, đấu tranh chính trị, sản xuất, người tốt việc tốt - nêu rõ hành động, suy nghĩ, nhưng viết ngắn gọn. Có thể xuống một xã nhưng không ở lâu.
Ngày 10 /4/1971
Chúng tôi phấn khởi lên đường xuống Nước Ta.
Ở đây tổ Đảng tuyên truyền họp. Cuộc họp không thú vị gì, vì là buổi kiểm điểm một sốkhuyết điểm. Vấn đề đặt ra: tại sao Tuyên truyền có quỹ riêng 5.000đ? Có phải là tham ô tập thể không? Câu chuyện này đáng lẽ lùi vào dĩ vãng rồi. Số là hồi năm 1969, các bộ phận đều có cơ sở sản xuất tự túc riêng. Tớicuối năm này, qua đầu năm 1970 thì các chibộ giải thể, trở thành tổ đảng, cả cơ quanthành một chi bộ, và các bộ phận sản xuấtnhập chung lại. Qua việc thanh toán với quản trị, anh Tần Phồ (phụ trách sản xuất của Tuyên truyền) báo cáo còn thừa 5.000đ,nhưng anh em thắc mắc: số tiền đó còn nhiềuhơn. Anh Nặng (phó tiểu ban) lúc này làm rấthăng. Anh nói: “Tôi phát hiện ra còn 27.000 đcơ! Song để anh Phồ đi công tác, xong hãyhay”. Sau tết, anh Phồ về mua một số hàng.Rồi lại có chuyến anh Phồ đi Quảng Ngãi muamột số hàng nữa. Rồi thấy anh Nặng im, không nói đến chuyện tiền nong nữa. Mãi đến cuối tháng 3/1971, khi 2 anh này yếu sức khỏ e , phải ra Bắc và bàn giao 5.000 đ lại, cơquan mới biết. Nhưng 2 anh đã đi rồi. Chuyệnxấu để lại nơi này.
Anh em phát biểu rất công phẫn. Phải nói, nơisản xuất của Tuyên truyền khá tách biệt với cơ quan. Tần Phồ lúc đó là phó bí thư chi bộ, phụ trách tổ sản xuất. Lối lãnh đạo của anh ta độc đoán.
Nhất là về kinh tế, anh ta khắc làm, khắc thanh toán với quản trị và có nhiều lúc rất sai nguyên tắc. Ví dụ: trả công cho đồng bào bằng hiện vật đều tính cao hơn giá thực mua để lấy lãi, bán 20 ang bắp để lấy tiền liên hoan v.v. Nói chung số tiền thu là bất hợp pháp, phải trả cơquan. Chỉ có số tiền bán chất độn (ngô khoai)là chính đáng và lẽ ra phải chia cho số anh em sản xuất ở đó. Nhưng bằng thủ pháp dối trá, Phồ đã hợp pháp hóa số tiền đó và nhập cục lại thành một quĩ. Rồi anh ta làm một bản danh sách dài dặc về những buổi liên hoan, bồi dưỡng để trừ số quĩ đó đi. Nhưng thực ra, những món chi đó, anh em đã trả rồi. Tức là Phồ thu tiền hai lần. Rõ là có tham ô trong đó.
Còn Nặng, anh em nghi là có liên quan đến vụ này - có thể chấm mút gì ở số tiền đó chăng? Tại sao lúc đầu anh ta làm hăng thế, sau hai chuyến anh Phồ mua hàng về lại im đi? Anh em thắc mắc, anh ta bảo: cứ bình tĩnh, nôn nóng hỏng việc. Anh ta báo cáo lên trên là ổnthỏa cả rồi. Những nghi vấn của anh em đều bị ứ lại ở anh - anh đóng vai trò cái cửa cống xập xuống làm nghẹn lại những rác rưởi ở bên kia. Lãnh đạo không rõ chuyện này. Anh ta dùng mọi thủ đoạn để bịt mọi chuyện. Chi, Tân, Tứ... đều bị phân công đi sản xuất, không được sinh hoạt với Tiểu ban, không nêu đượcthắc mắc.
Những anh em khác ở nhà thì không biết, hoặc biết lờ mờ. Thế là anh ta đi thoát ra miền Bắc.
Rất tiếc là sự phát hiện quá chậm, như ngườita bắn vuốt đuôi máy bay vậy, chẳng ăn thuagì, còn người bắn thì chịu tiếng nổ và khói của chính mình bắn ra!
Nặng người trong này. Ngay từ lúc mới gặp, nhìn đôi mắt anh ta đã thấy khó tin. Đôi mắtsâu song con ngươi lại hơi lồi, nhiều lòng trắng. Con mắt hay nhìn trộm và nhìn cái gì cũng rất nhanh. Ở bắp đùi anh ta có một cáibướu thịt rất lớn, phải to bằng bầu vú của phụ nữ. Có lần ngồi nghỉ ở một nhà đồng bào, thấy mấy cô gái dân tộc nhìn cái bướu vẻ tò mò, Nặng đưa tay xoa xoa, nắn nắn cái bướu như kiểu người ta xoa nắn bầu vú phụ nữ, thế là mấy cô gái đỏ mặt, lảng đi hết. Lúc gần đi,Nặng phong tỏa anh Huỳnh Ngọc Lý - chi ủyviên - dữ. Anh ta dựng đủ chuyện nói xấu sau lưng anh Lý hoặc báo cáo với lãnh đạo: nào là lấy cốc đổi chuối, nào là đổi rựa, nào là kèn cựa, địa vị. Phải nói, anh Lý cũng phải lao đao vì cú đánh nham hiểm đó.
Trong buổi họp, có lẽ quá xúc động, Lý nóirằng tổ chức Đảng bị lừa, tập trung đánh vàoanh! Nói vậy là thái quá.
Anh Châu Hoàn - Bí thư chi bộ - nói rằng anh Nặng đến nỗi nào nham hiểm dữ vậy? Anh em tập trung vạch cái nham hiểm của Nặng. Tôi còn nhớ, anh ta từng lấy làm hãnh diện kể với chúng tôi câu chuyện: hồi ở Bắc, một hôm anh ta và một số bạn bè rủ nhau đi ăn hàng, ăn rấtnhiều, song ai cũng nói quên tiền ở nhà. Nặngbảo để anh ta về lấy tiền. Thế là xách xe đạp đi thẳng một hơi. Các ông bạn tha hồ chờ!...
Châu Hoàn rất hiền lành, thật thà, cần mẫn, đáng mến. Anh không tin chuyện ấy cũng phải thôi. Anh là Họa sĩ, song tham gia sản xuất nhiều hơn là vẽ. Anh mặc bộ bà ba xám thùng thình, đội cái nón rách, vai khoác một cái xắc cốt to quá khổ, tay cầm con rựa lúi húi vớicông việc suốt ngày. Thường, anh đi sớm, về muộn, ít có bữa cơm ăn cùng với anh em. Song có lúc anh khắc khổ một cách thái quá. Có khi anh tự soi gương và cắt tóc mất cảtiếng đồng hồ.
Trong khi đó rất nhiều anh em sẵn sàng cắtgiúp anh chỉ mất 20 phút đồng hồ! Con ngườicù mì ấy lại nổi tiếng cả Khu bộ về chuyện chặt nai. Bữa ấy anh xách rựa đi làm rẫy. Chẳng dè gặp một con nai - nó bị thương từ lúc nào, ốm nhom. Con nai chạy qua bãi đá. Anh nhào theo, vấp một tảng đá, ngã trầy cả đầu gối, nhưng đã chém được một nhát vào chân nó. Con nai quỵ xuống, anh chém chogẫy cả 4 chân rồi cõng về. Gần tới nhà, mệt quá, anh để đó, lẳng lặng về rỉ tai Tuấn và Tám Tuyên. Cả 3 lặng lẽ kéo đi trước sự ngỡ ngàng của anh em. Lát sau, họ quăng con nai giữa sân. Con nai mở tròn mắt ngơ ngác nhìn mọi người. Các tay thày dùi chuyến này mới nổi lên đả kích. Họ chế riễu những xạ thủ cứ xách súng suốt đêm này đến đêm khác, tốn kém biết bao nhiêu pin mà thua một anh chàng chỉ có con rựa trong tay.
Thật xúi quẩy, tôi nhận được thư anh Phi: tìnhhình Quảng Nam khó khăn, khoan đi, chờ anh Huấn về bàn cụ thể! Thế là phải khoác ba lôvề. Chia tay Vượng, bịn rịn vô cùng. Mong anhđi được đằm mình trong thực tế mà làm tin,mong anh bình yên.
Bị một cơn sốt cao - trên 40. Mệt rã rời. Song không đến nỗi kéo dài lắm. Nằm bết mất 2 ngày. Hai ngày gắng đi lại cho khuây khoả.
Rồi lại bình thường.
Ở rừng núi có những đêm trăng thật đẹp. Trăng ngạt ngào tràn ngập cả núi rừng. Những tán lá hầu như đều mọng lên, trong xanh, ướt át ánh trăng.
Mùa hè, rừng núi thường dậy sớm hơn mùa đông. Đàn ve đồng ca một điệu chỉ có độc mộtâm, râm ran khắp khu rừng. Con chim “khó khăn khắc phục” cần mẫn hót từ lúc chưa rạng đông. Những tiếng “cúc cu” thỉnh thoảng điểm vào thờ ơ và xa vắng. Khi ánh nắng bắt đầu loé lên, bầy bồ chao lắm điều lại xúm xít nhau tranh cãi loạn xạ, chẳng con nào nghe con nào. Rồi ánh nắng xuyên thủng tán lá, trải mầu vàng nhạt trên mặt đất ẩm ướt.
Trong những lúc rảnh rang, tôi ngồi xem lại cuốn “thép đã tôi thế đấy”. Trong những ngày gian khổ này, đọc càng thấy cái hay, cái đẹp của cuốn sách, thấy nó càng gần gũi với mình. Cuộc đời của Pa-ven trong sáng, cao đẹp quá.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét