Thứ Năm, tháng 5 22

Sống trên đá


Lời Mở Đầu
Xuân về đã thấy lòng rạo rực. Hình như từngngày, từng giờ, từng phút, từng giây có cái gìtốt tươi đẹp đẽ đang đến, đang ngập tràn đâyđó.
Mùa đông. Con người phải chịu đựng bao nhiêu khắc nghiệt của mùa đông, trời đất âm u, gió rét thấu xương, rét như trăm ngàn mũi kim châm vào da thịt, rút gân rút thịt ra làm rét...
Gió rét, không ai muốn ra khỏi nhà, không aimuốn rời bếp lửa. Mẹ vừa nhúng tay xuống nước để làm bữa cơm chiều hai bàn tay đã ửng đỏ, tê đi rồi tím lại. Đàn gà chui vào một góc thật kín để tránh gió. Gà mẹ xù lông ủ kín đàn con bé nhỏ, có con thò đầu ra ngoài thấy lạnh quá lại vội chui vào. Đám gà choai choai hàng ngày nghịch ngợm đánh nhau chí choé hôm nay cũng trốn biệt đi đâu mất. Gió rét không có bạn chơi tức tối sục đi tìm bới tung tất cả vẫn chẳng thấy bạn đâu, nó cứ ầm ò gọimãi. Những người buộc phải ra khỏi nhà thì áolớn áo bé, nhìn bề ngoài chẳng thấy ai gầy gò ốm yếu nhưng đôi môi vẫn run lên trước cơn gió dữ...
Có qua mùa đông nghiệt ngã mới thấy hết giátrị, những nét đẹp, nét đáng yêu đáng quý biếtchừng nào của mùa xuân. Nó gần giống với tình cảm của người con xa quê hương lâu ngày gặp lại, nó ngạt ngào như hương cố nhân nửa đời gặp nhau, nó lại giống như tình yêu vừa mới chớm,... Nói chung là khó tả lắm, kể ra nữa cũng chưa thoả nỗi lòng, chỉ biết nó là những gì thân thương gần gũi nhất, đáng yêu và đẹp đẽ nhất, vậy thôi.
Xuân về. Con người dễ thấy, dễ nhận ra ởnhững thay đổi của cây đào, cây mận. Từ cáicành khẳng khiu tưởng như đã mất hết sự sống kia bỗng đâu xù ra những mấu. Những cái mấu xù xì, xấu xí. Một buổi sớm tỉnh dậy thấy từ cái mấu cằn cằn kia bung ra một bônghoa với cái cánh nhỏ màu hồng run run vẫygió. Nó yếu ớt mong manh như hạnh phúc vậy, đẹp đẽ, tinh khôi và dễ vỡ. Với con mắtphàm tục thì nó chẳng đáng gì nhưng với người thanh lịch thì khác hẳn, ở đấy gói ghém cả bồ nhân sinh quan về triết lý sự sống, vềcuộc sống, về cái đẹp, về hạnh phúc đời người.
Trên sườn núi chênh vênh giữa màu xám xịt của đá tai mèo chợt bừng lên một sắc hồng ngạo nghễ như muốn tự khẳng định một sức sống mạnh mẽ, phi thường và đẹp một cách quý phái.
Dưới thung lũng cũng đang bừng lên những sắc hồng. Những cây đào như cô gái đến thì đang làm duyên làm dáng với nét đẹp kiêu sa không hề lẫn giữa trăm ngàn cây cỏ. Cái màu hồng ấy rất thanh và rất nhẹ nó không rực lên để tạo ấn tượng, nó không ngạt ngào để tạo hương vị, nó cứ dửng dưng như vậy mà làm say đắm lòng người. Lẽ dĩ nhiên những con mắt hời hợt sẽ không bao giờ cảm nhận nổi cái tình, cái ý, cái tứ trong những cái khiêm nhường kia. Chỉ những tâm hồn đồng điệu, những cái cảm tinh tế mới thấy hết giá trị của những ẩn ý sâu xa trong cái tư thế và sắc mầu ấy.
Xuân về. Có điều gì lạ lắm! Cây cối như được đánh thức sau một giấc ngủ dài bừng dậy thi nhau đâm chồi nảy lộc, bừng dậy thi nhau và thi nhau, hình như cỏ cây đang có một cuộc thi sinh trưởng và phát triển thì phải. Cứ âm thầm lặng lẽ mà ồn ào huyên náo ganh đua nhau từng tí một. Và đấy, hôm nay so với hôm qua đã khác xa lắm rồi, nếu so với ngày mai thì cònkhác nữa!
Xuân về. Thiếu nữ mở cửa nhìn ra rừng câytrước mặt, nhìn bụi mưa đang rắc đều đều xuống khoảng sân trước nhà mà lòng thổn thức đến lạ. Xuân về, mùa lễ hội cũng về, năm nay bản bên đã cắm cây nêu từ tháng trước, lễ hội nơi ấy chắc sẽ đông vui, người khắp nơi sẽ về nhiều lắm, trò chơi cũng được bày ra rấtnhiều,... Bụi mưa rơi xuống dày hơn, trên khuôn trang người thiếu nữ bỗng nở một nụ cười e thẹn.
Và cũng thật lạ, thường ngày cái mặt của đácứ đăm đăm với cái trán nhăn nhúm mải longhĩ sự đời, xuân về cũng bừng lên tươi sứcmới, đẹp đẽ, duyên dáng, bừng sáng nét duyên thầm.
Xuân về! Xuân về!... Chị gió đã thì thầm nhưvậy vào sáng nay.

Quẩy Tấu
Có lẽ ít có vật dụng nào gần gũi và gắn bó với người Mông như chiếc quẩy tấu, khi đi nương quẩy tấu đựng dụng cụ lao động từ nhà lên nương, khi về nhà quẩy tấu lại đựng các sản vật từ nương về nhà, khi đi chợ quẩy tấu cũng đi theo... Khi ra khỏi nhà con người thường mang theo quẩy tấu, có khi còn chưa biết để làm gì, nếu trên đường đi gặp ít rau cho lợn sẽ lấy một ít, gặp ít củi khô sẽ gùi một ít, gặp ít quả rừng sẽ hái một ít... Có khi cũng chẳng đựng cái gì, khi đi sao khi về vẫn vậy.
Quẩy tấu là sự sáng tạo trong lao động củangười dân miền núi, nó được ví như chiếc địu,như chiếc ba lô, và hầu hết mọi thứ cần mang vác đều được đựng trong quẩy tấu.
Đường vùng cao lắm đèo nhiều dốc, gập gà gập ghềnh, bước lên mây, bước xuống đất, khó có thể gánh, quẩy bằng đòn gánh, người Mông đã sáng tạo ra chiếc quẩy tấu, rất phù hợp với điều kiện đu quẩy lên dốc xuống khe.
Tôi còn nhớ người bạn là nhà báo kể chonghe có một bản của người Mông ở tít trên núi cao gần như biệt lập với thế giới bên ngoài, con đường duy nhất vào bản là mười hai chiếc thang nối nhau bắc vào vách núi.
"Nghe kể đã lâu, hôm ấy có dịp tôi quyết tâm đi thực tế một chuyến cho con mắt được mở mang. Buổi sáng, lúc đường còn ướt sương, tôi và anh cán bộ xã đã lên đường. Mặt trời lên khá cao, bóng nắng đã gần nghiêng về đôngmới đến chân núi, từ dưới nhìn lên thấy chótvót tít tắp xa. Đứng nghỉ một lát rồi anh cán bộ xã bước những bước đầu tiên lên cái thang thứ nhất, tôi bước theo ngay phía sau mà bàn chân cứ run lên từng hồi sợ sệt, chỉ cần sơ ý một chút mà trượt chân ngã xuống thì... tôi không dám nghĩ thêm nữa. Anh cán bộ xã bảo đừng nhìn xuống cứ ngước mắt lên là hết sợ. Tôi đã không dám nhìn xuống, nhìn lên cũng không dám, tôi cứ dán mắt vào vách núi đá mốc meo đen xỉn. Đi mãi rồi cũng hết các bậc thang. Đoạn đường tiếp theo lại phải láchmình qua các khe đá, những hòn đá rất to bám vào sườn núi, bước nọ nối bước kia cáchnhau một đoạn xa, nhiều lúc phải bước lên đầu các hòn đá. Anh cán bộ xã vừa đi vừa dặn là phải bước đúng đầu hòn đá đừng có bước vào sườn nó kẻo trượt chân ngã thì không về được đâu. Tôi phải nhẹ nhàng cẩn thận đặtbàn chân đúng cái mỏm nhô lên của hòn đá,sự sắc nhọn được cảm nhận sau đế dày truyền đến bàn chân đau nhói.
Đoạn sau bước đi có dễ hơn, ít đá nhọn hơn và thêm một đoạn nữa được gặp cái thang thứ hai. Cũng như cái thang thứ nhất, sườn núi đá vôi đen xỉn là nơi cái thang bắc vào, tôi lại dán mắt vào vách đá như một sự cứu cánh đã lên được tới đỉnh.
Hết cái thang thứ hai là đoạn đường tương đốibằng phẳng đi ngang qua nương ngô. Hết nương ngô đến đoạn đường núi đá tai mèo lởm chởm sắc nhọn như trăm ngàn mũi chông giơ lên trời. Bàn chân lại nhói đau. Rồi gặp cái thang thứ ba. Cái tháng thứ ba dài hơn nhưng độ dốc đứng kém hẳn cái thang thứ hai nên bước đi cũng dễ dàng hơn nhiều.
Cái thang thứ tư cách đó không xa. Cái thangthứ tư có mấy bậc đã bị gẫy từ lúc nào, thay vào đó là mấy đoạn cây được buộc bằng dây rừng vào thân cây gỗ để đi tạm. Tôi bước chân vào đoạn cây buộc tạm, cái thang chòng chành như muốn gẫy. Tôi bấu chặt hai bàn tay vào thân cây gỗ rồi đứng im không dám nhúc nhích, một lúc sau tôi mới dám bước tiếp. Anh cán bộ xã đã đi hết các bậc thang quay lại nhìn tôi rồi cười lớn.
- Cán bộ chưa đi thang bao giờ sao?
Tôi không nói gì vì còn đang bận tập trung vào bước chân đi trên bậc thang làm sao cho thật nhẹ nhàng để nó khỏi rung lên, để tôi khỏi bị hất xuống vực sâu.
Rồi tôi cũng leo được tới đỉnh. Đi tiếp mộtđoạn nữa thì gặp cái thang thứ năm.
Rồi đến cái thang thứ sáu.
Tiếp nữa là cái thang thứ bảy.
Cái thang thứ tám...
Con đường vẫn đang chót vót lên trời.
Mười hai cái thang, leo hết mười hai cái thanglà đặt chân đến bản và cũng đúng lúc trờichiều xậm xuống.
Cứ tưởng ở địa thế hiểm trở như vậy bản làng sẽ heo hút xơ xác, nhưng không ngờ, ở bản dưới có cái gì thì bản trên có cái ấy: trâu, bò, lợn, dê, ngựa, gà, vịt, ngan,... đủ cả. Khi được hỏi những thứ đó lấy ở đâu về thì mọi người đều nói là tất cả đều được lấy về từ bản dưới. Lấy lên bằng cách nào? Mọi người nói tiếp là gùi bằng quẩy tấu. Con trâu, con bò to như thế thì gùi sao được? Sao lại không được, gùi lúc nó còn bé, cũng không nặng mấy đâu mà!..."
Quẩy tấu mà người Mông Hà Giang sử dụng là quẩy tấu dáng vuông miệng tròn, một số nơi khác làm quẩy tấu dáng tròn thậm chí đáy nhọn miệng loe. Quẩy tấu được đan bằng tre hoặc bằng trúc, làm bằng trúc quẩy tấu chắc chắn và bền hơn. Tre, trúc róc lấy cật đan lóng hai, lóng ba ghép tròn dần về phía miệng. Lớp trong của quẩy tấu được lót bằng lớp phôi, mỏng, lớp ngoài mới là lớp cật chắc chắn.Kích thước của quẩy tấu là không hạn định, tuỳ theo khả năng sử dụng mà người ta đan quẩy tấu to hay nhỏ. Cái to dành cho người cường tráng khoẻ mạnh, cái nhỏ dành cho đàn bà con gái và trẻ con. Thậm chí người ta đan cả chiếc quẩy tấu dành cho đứa trẻ năm, sáu tuổi đeo. Dây để gùi thường làm bằng da trâu, da bò hoặc lấy từ cây móc.
Quẩy tấu không chỉ đơn thuần là vật dụng phục vụ hoạt động sống của con người hàng ngày, nó còn mang giá trị tâm linh thần bí. Cùng với con dao, cái liềm, cái cuốc... Quẩy tấu ngày tết được thắp hương thờ cúng, được ăn cơm mới, được con người mang ơn đãcùng lao động suốt một năm ròng.
Quẩy tấu còn được đà bà con gái mang khi đi chợ như là thứ đồ trang sức. Người có chồng có con mang quẩy tấu thể hiện sự đảm đang chăm chỉ vun vén cho hạnh phúc gia đình.Người chưa có chồng mang quẩy tấu như là lời khẳng định đầy hứa hẹn với đám thanh niên con trai rằng mình là người ưa lao động, đảm đang, khéo léo biết thu vén... Quẩy tấu dùng riêng cho người đi chợ hoặc đi thăm thú đó đây thường mảnh mai hơn, nhỏ hơn, nhẹ hơn và được trau chuốt kỹ lưỡng hơn so với quẩy tấu mang khi đi nương.
Ngày nay do có nhiều đồ trang sức đẹp, cónhiều cách thể hiện cho đám thanh niên con trai biết sự đảm đang khéo léo của mình nên đám con gái khi đi chợ đã ít đem theo quẩy tấu theo nếu không cần gùi đựng một thứ gì.
Quẩy tấu với người vùng cao trong việc gùi quẩy có một giá trị thật đặc biệt, đến cả saunày nữa cũng chưa chắc có loại nào thông dụng hơn. Có người còn dùng quẩy tấu như là một sở thích, một thứ đồ chơi, đi đâu cũng mang theo, không cần biết là đem đi để làm gì.
Bà tôi vẫn còn giữ lại được chiếc quẩy tấu vẫn thường mang theo khi đi chợ từ lúc còn thời con gái. Chiếc quẩy tấu đ• cũ lắm rồi nhưng vẫn còn rất đẹp, cái nan trúc không hề bị mọt và hình như ngày càng óng lên thì phải. Bà vẫn để trên gác bếp, thỉnh thoảng lại được lấy xuống lau chùi sạch sẽ. Bàn tay bà run run lần đi lần lại từng chiếc nan trên quẩy tấu như tìm lại từng nét duyên dáng, thơ ngây, ngờ nghệch của ngày xưa...
Bố đang xỏ khung cho chiếc quẩy tấu thứ năm. Những chiếc quẩy tấu bố làm to hơn của bà từ hình dáng cho tới cả cái nan trúc đanxung quanh. Bố vấn miệng và xỏ khung thật khéo nhưng đem so với chiếc quẩy tấu của bà thì nét đẹp, nét tinh sảo vẫn còn ít hơn nhiềulắm.
Ngày mai, lần đầu tiên tôi được đi chợ cùngbố. Chợ ở xa lắm, phải đi từ rất sớm, bố nói vậy. Đi chợ để mang những chiếc quẩy tấu ở giữa nhà kia đi bán.

Nhịp thở của đất
Đã tôi không về quê ngoại, từ cái ngày conđường từ Thị trấn Việt Quang về Yên Hà cònchưa trải nhựa. Cây cối hai bên đường vẫn rậm rì như xưa. Từ Yên Hà về nhà con đườngkhông khác đi là mấy, vẫn mặn mòi màu đấtđỏ, bánh xe lúc thì xa rãnh, lúc hạ ổ gà, tôi phải đánh tay lái một cách rất điệu nghệ mà nhiều lúc xe vẫn bị chạm gầm. Bên đường, từng vườn cam chạy dài tít vào trong đồi, nép dưới tán lá là những quả cam nho nhỏ xinh xinh. Nhìn vườn cam bỗng nhiên tôi nghĩ đếnngày thu hoạch, trái cam chín vàng cây, đầu cành nặng chĩu rủ xuống. Cạnh gốc cam, tự dưng mọc lên những cái cọc hí hửng đỡ lấy cành cam. Người già, trẻ em đưa miếng cam vào miệng mà như thấy từng giọt mật quê hương đang tan ra nơi đầu lưỡi.
Nhìn ra cánh đồng, bao la non trời mây nước,tiếng chân lội ruộng, tiếng bắt sá cày bừa làmnáo động cả một vùng, vài thửa ruộng có người đang cấy, từng ngọn mạ xanh xanh đang đua nhau vẫy gió.đã già đi nhiều, sau mấy trận ốm lương bà còng hẳn xuống, chântay quắt queo chỉ còn da với xương. Bà nhìntôi nhưng chưa nhận ra. Tôi dừng xe gần châncầu thang lên trên sàn. Đàn gà đang ăn bỗngdương chạy tán loạn. Tôi để nguyên mũ bảo hiểm, hỏi bà:
- Bà ơi, nhà mình có bán gà không ạ?
Bà thật thà:
- Nhà có mấy con, không bán đâu.
Tôi bỏ mũ bảo hiểm ra. Bà chửi:
- Đồ mất nết, nó lừa cả bà.
Tôi tắt máy xe. Đàn gà lại chạy về ăn.
- Bà ơi, lâu nay cậu có về không ạ?
Cậu tôi làm ở Hạt kiểm lâm huyện Bắc Mê.
- Có, cũng mới về thôi. Lại đi rồi!

Nhịp thở của đất
Đã tôi không về quê ngoại, từ cái ngày conđường từ Thị trấn Việt Quang về Yên Hà cònchưa trải nhựa. Cây cối hai bên đường vẫn rậm rì như xưa. Từ Yên Hà về nhà con đườngkhông khác đi là mấy, vẫn mặn mòi màu đấtđỏ, bánh xe lúc thì xa rãnh, lúc hạ ổ gà, tôi phải đánh tay lái một cách rất điệu nghệ mà nhiều lúc xe vẫn bị chạm gầm. Bên đường, từng vườn cam chạy dài tít vào trong đồi, nép dưới tán lá là những quả cam nho nhỏ xinh xinh. Nhìn vườn cam bỗng nhiên tôi nghĩ đếnngày thu hoạch, trái cam chín vàng cây, đầu cành nặng chĩu rủ xuống. Cạnh gốc cam, tự dưng mọc lên những cái cọc hí hửng đỡ lấy cành cam. Người già, trẻ em đưa miếng cam vào miệng mà như thấy từng giọt mật quê hương đang tan ra nơi đầu lưỡi.
Nhìn ra cánh đồng, bao la non trời mây nước,tiếng chân lội ruộng, tiếng bắt sá cày bừa làmnáo động cả một vùng, vài thửa ruộng có người đang cấy, từng ngọn mạ xanh xanh đang đua nhau vẫy gió.đã già đi nhiều, sau mấy trận ốm lương bà còng hẳn xuống, chântay quắt queo chỉ còn da với xương. Bà nhìntôi nhưng chưa nhận ra. Tôi dừng xe gần châncầu thang lên trên sàn. Đàn gà đang ăn bỗngdương chạy tán loạn. Tôi để nguyên mũ bảo hiểm, hỏi bà:
- Bà ơi, nhà mình có bán gà không ạ?
Bà thật thà:
- Nhà có mấy con, không bán đâu.
Tôi bỏ mũ bảo hiểm ra. Bà chửi:
- Đồ mất nết, nó lừa cả bà.
Tôi tắt máy xe. Đàn gà lại chạy về ăn.
- Bà ơi, lâu nay cậu có về không ạ?
Cậu tôi làm ở Hạt kiểm lâm huyện Bắc Mê.
- Có, cũng mới về thôi. Lại đi rồi!
- Bà ơi, mợ có nhà không ạ?
- Đi cấy từ trưa, phải lúc nữa mới về.
- Nhà mình cấy được nhiều chưa ạ?
- Mới cấy được một ít, phải vài ba hôm nữa mới xong. Lên trên nhà mà rửa ráy, tắm giặt, cháu ạ.
Tôi cởi đồ ở xe mang lên nhà. Một lúc sau tôi ra thăm vườn thấy ngoại đang gom nhữngcọng rơm khô vung vãi ở ngoài vườn, tôi nói:
- Ngoại già yếu thế, lần mò những việc lặt vặt ngoài vườn làm gì, không may trượt chân ngãthì khổ.
Ngoại vẫn không ngừng tay vun gọn những cọng rơm.
- Nhưng ngồi chơi thấy nó cứ thế nào ấy, tay chân ngứa ngáy không yên.
Tôi lấy rổ ra vườn nhặt rau đay về nấu bữa tối. Ngoại vừa vun rơm vừa chỉ cho tôi chỗ rau đay non để hái. Khi hái xong rau về nhà đã thấy ngoại lấy chổi quét gầm sàn, mà gầm sàn nhà cậu tôi vừa dài vừa rộng, đứng từ đầu này nhìn về đầu kia thấy sâu hun hút, ngày xưa cólần tôi đếm bước chân được tám mươi bước chiều dài, bốn mươi ba bước chiều rộng. Tôi ra giành lấy công việc quét gầm sàn với ngoại, ngoại nói:
- Cháu đi tắm đi, tắm xong rồi ăn cơm.
Tôi cầm quần áo ra dòng suối cách nhà khôngxa. Đường ra suối đã đươợc lát bê tông. Câycầu tre khi xưa lắt lẻo qua dòng suối giờ đã không còn, thay vào đó là cây cầu bê tông chắc chắn. Vắt quần áo lên cầu tôi thả mình xuống dòng nước lững lờ trôi. Mấy đứa trẻđang nô đùa té nước vào mặt nhau ầm ĩ bỗng dưng im lặng nhìn tôi. Tôi nằm ngửa thả người cho nước trôi đi, bao oi bức của buổi chiều hè cứ theo dòng mà trôi đi hết. Làn nước mơn man da thịt tôi nhồn nhột. Bầu trời trong xanh đang thẫm lại, cánh chim vội vã về tổ. Trời đi dần vào đêm, cảnh vật xung quanh đen dần, chỉ thấy dòng suối là còn ánh sáng, vầng trăng nơi cuối trời xẩy chân rơi xuống dòng suối.
Tôi về nhà khi trăng đã lên khá cao, ngoạiđang nấu cám lợn. Mợ cũng đã đi làm đồngvề. Mợ đang nấu cơm.
Tôi đi ngủ khi đêm đã về khuya, ngoại và mợ vẫn còn dọn dẹp vài công việc lặt vặt.
Sáng, tôi dậy khá sớm, trời mới hơi hửng sángtôi đã dậy và đi xuống sân. Tôi gặp mợ ở cầu thang, mợ hỏi:
- Sao cháu dậy sớm thế? Không ngủ được à?
Tôi cười:
- Cháu ngủ được, ở quê yên tĩnh, ngủ thíchlắm mợ ạ.
- À, quần áo mợ giặt rồi, phơi ở dưới gầm sàn đấy.
- Mợ đi làm đồng về mệt nhoài cả người, quần áo của cháu cứ để cháu giặt.
- Có gì đâu, mợ làm một loáng là xong thôi mà.
- Mợ đi đâu sớm thế ạ?
- Mợ đi nhổ mạ, gánh này là gánh thứ hai. Mợ nấu cơm rồi đấy, tí nữa cháu lấy mà ăn.
Tôi chưa kịp trả lời thì mợ đã đi khuất nơi đầu ngõ, bóng đêm trùm lên người mợ. Mợ vẫn như ngày xưa, hay lam hay làm đến quắt queo da thịt. Có lần tôi nói đùa với mợ:
- Cháu đố mợ ngồi không ở nhà một buổi.
Mợ thật thà:
- Mợ vẫn ở nhà đó thôi.
Vâng, đúng, những hôm trời mưa không đi đâu được thì mợ ở nhà, mặc dầu ở nhà nhưng đôitay mợ cũng không hề nhàn rỗi, mợ lấy cái áo ra thùa lại cái khuy, đơm lại cái cúc, khâu lại chỗ đứt chỉ, hết khâu áo thì đi lấy cuốc về tra lại cái cán, vấn lại cái cạp rổ,... nói chung làlúc nào mợ cũng có việc để làm.
Tôi xuống sân tập bài thể dục buổi sáng, không khí trong lành. Tôi hít lấy hít để cái mùithanh khiết của trời đất. Tập xong bài thể dụctôi lên sàn ngồi ngắm cảnh vật. Trời vẫn chưasáng hẳn, trong vườn, quả đồi và cánh đồng trước mặt vẫn còn đầy bóng tối.
Mợ về nhà gánh mạ đi cấy.
- Cháu ăn sáng chưa? - Mợ hỏi.
- Cháu đợi bà dậy để ăn cùng. - Tôi trả lời.
- Không phải đợi đâu, bà không ăn cơm vàobuổi sáng, một lúc nữa mợ mua bánh đem vềcho bà.
- Mợ đã cấy hết gánh mạ lúc nãy rồi hay sao mà phải về lấy nữa ạ?
- À, có người cấy đổi công với mợ, họ đang cấy ở ngoài đồng, mợ về lấy mạ cho họ cấy rồi lại đi nhổ tiếp.
Con đường gần nhà xôn xao tiếng người gánh mạ đi qua. Cánh đồng chưa rõ bóng người chỉ thấy tiếng nói cười, gọi nhau í ới. Bà tôi đã dậy từ lúc nào, bà đang hoà cám cho lợn ăn. Một làn gió từ cánh đồng thổi lại, hơi lạnh trùm lấy người, tôi hít căng lồng ngực khoan khoái thả tâm hồn ra xa. Bầu trời không một gợn mây, vừng đông đã hửng lên, cánh đồng trước mặt mới hôm qua còn trắng nước, giờ đã phủ gần kín màu xanh tươi mới của mạ. Làn gió đi qua, từng cái lá nhỏ vẫy vẫy làm mặt nước trên ruộng xao động...
Mặt trời lên cao hơn, ánh nắng trải dài khắpnúi rừng và thung lũng. Mặt ao trước sân nhàphẳng lặng, chìm sâu dưới đáy là một khoảng trời trong xanh, bỗng dưng đàn cá ở đâu ùa vềđớp sương và đùa nhau, mặt ao hắt lên nhữngánh lân tinh. Đàn gà đồng loạt đổ xô ra khu vườn, con gà trống đi trước, gà choai, gà mái và gà nhiếp líu nhíu chạy theo sau. Lũ vịt cũng không kém với những âm thanh làm náo động cả một góc vườn, bắt đầu cuộc hành trình lần tìm lặn ngụp dọc bờ mương ra cánh đồng.Đàn cò trắng tung bay chao liệng từng vòng tròn trên cánh đồng vừa xuống mạ, chúng thấy lạ, mới hôm qua còn trắng nước, hôm nay sao đã có nhiều cây mọc thế này, liệu có nhầm nơi đến không,... rồi chúng ngập ngừng hạ xuống, một con, thêm một con nữa, một con nữa, rồi cả đàn cùng ùa xuống. Làn gió vẫn làm công việc của mình là quạt mát cho cỏ cây, hoa lá...
Buổi sáng ở quê, sao tôi thấy thích, thấy yêubuổi sáng ở quê đến thế!

Mưa
Trời vẫn mưa. Nước từ giọt gianh nhỏ xuống thành một dãy dài những lỗ trên nền đất trước hiên nhà. Núi rừng bị bao phủ một màu mờ đục. Cây cối ướt lướt thướt. Đám khói bếp cứ quẩn quanh rồi tan vào làn bụi mưa mờ trắng.
Mẹ ngồi dạy chị thêu hoa văn trên nền thổcẩm. Từng đường chỉ màu đi qua bàn tay, quacây kim nhỏ bé, chỗ thì hiện ra, chỗ thì ẩn đi, màu sắc của núi rừng cứ thế mà về nằm trên vải. Bàn tay chị cũng khéo lắm, đường kim không thua kém mẹ là mấy, có phần còn mềm mại hơn.
Bố tra lại cán cuốc, thay đoạn gỗ ở chuôi con dao quắm, đan tiếp cái quẩy tấu còn dở dang.
Em nhìn mưa, nhìn cái cặp nằm yên trên vách,lòng thấy buồn buồn. Nếu trời không mưa giờ này em đang nô đùa cùng bạn bè trong lớp.
Đường từ nhà em đến trường phải trèo qua một dãy núi, đi qua một thung lũng nho nhỏ, lộiqua hai con suối. Những hôm trời nắng em đến lớp còn được dễ dàng. Những hôm trời mưa thì khổ lắm, đường trơn như có mỡ bôi lên. Con suối lâu ngày không có mưa chỉ còn một ít nước chảy lấp xấp giữa dòng. Khi mưa xuống nước suối dâng lên nhanh lắm, em đã phải mấy lần ở lại trường vì nước suối đột ngột dâng to không qua được để về nhà...
Trời mưa, mưa gì mà dữ thế, kéo dài suốt cả đêm hôm qua, gần hết buổi sáng rồi mà vẫn chưa ngớt tí nào. Con suối hôm nay nước sẽ về nhiều lắm, có lẽ phải lên gần đến gốc cây nghiến cụt ngọn nơi vách núi, nước đuổi nhau ầm ào như một dòng thác lớn.
Lớp học hôm nay chắc sẽ vắng nhiều. Các bạn đều ở xa, đường đi lắm dốc, nhiều khe, nhiều đoạn rất trơn. Không ai muốn ra khỏi nhà dưới cơn mưa dữ dội thế này.

Mưa
Trời vẫn mưa. Nước từ giọt gianh nhỏ xuống thành một dãy dài những lỗ trên nền đất trước hiên nhà. Núi rừng bị bao phủ một màu mờ đục. Cây cối ướt lướt thướt. Đám khói bếp cứ quẩn quanh rồi tan vào làn bụi mưa mờ trắng.
Mẹ ngồi dạy chị thêu hoa văn trên nền thổcẩm. Từng đường chỉ màu đi qua bàn tay, quacây kim nhỏ bé, chỗ thì hiện ra, chỗ thì ẩn đi, màu sắc của núi rừng cứ thế mà về nằm trên vải. Bàn tay chị cũng khéo lắm, đường kim không thua kém mẹ là mấy, có phần còn mềm mại hơn.
Bố tra lại cán cuốc, thay đoạn gỗ ở chuôi con dao quắm, đan tiếp cái quẩy tấu còn dở dang.
Em nhìn mưa, nhìn cái cặp nằm yên trên vách,lòng thấy buồn buồn. Nếu trời không mưa giờ này em đang nô đùa cùng bạn bè trong lớp.
Đường từ nhà em đến trường phải trèo qua một dãy núi, đi qua một thung lũng nho nhỏ, lộiqua hai con suối. Những hôm trời nắng em đến lớp còn được dễ dàng. Những hôm trời mưa thì khổ lắm, đường trơn như có mỡ bôi lên. Con suối lâu ngày không có mưa chỉ còn một ít nước chảy lấp xấp giữa dòng. Khi mưa xuống nước suối dâng lên nhanh lắm, em đã phải mấy lần ở lại trường vì nước suối đột ngột dâng to không qua được để về nhà...
Trời mưa, mưa gì mà dữ thế, kéo dài suốt cả đêm hôm qua, gần hết buổi sáng rồi mà vẫn chưa ngớt tí nào. Con suối hôm nay nước sẽ về nhiều lắm, có lẽ phải lên gần đến gốc cây nghiến cụt ngọn nơi vách núi, nước đuổi nhau ầm ào như một dòng thác lớn.
Lớp học hôm nay chắc sẽ vắng nhiều. Các bạn đều ở xa, đường đi lắm dốc, nhiều khe, nhiều đoạn rất trơn. Không ai muốn ra khỏi nhà dưới cơn mưa dữ dội thế này.
Cô giáo hôm nay chắc sẽ buồn nhiều. Em cònnhớ có lần trời cũng mưa thế này, cô giáo tới lớp ngồi đợi học sinh đến học, đã gần trưa, màn mưa vẫn giăng trắng xoá. Trong lớp cóem và một bạn nữa. Cô giáo ngồi nhìn trờimưa không nói một lời nào. Bỗng thằng bạn ghé tai em nói nhỏ: "Cô giáo vừa khóc thì phải!" Em không nói gì, nhìn kỹ hơn, và phát hiện ra hàng mi cong cong của cô không bị mưa mà cũng ướt.
...... Những cơn mưa rừng thường dai dẳng và mạnh mẽ, xen lẫn là tiếng thác xối ào ào chongười ta cảm giác lẻ loi, buồn sâu lắng. Lòngngười suy tư đến một điều không nằm trong hiện tại.
Bên bếp lửa hồng, chén rượu cầm tay, lời nói,lời trò chuyện, và uống... Nhìn qua ta có thểkhẳng định màn mưa ngoài kia chẳng liên quan gì đến họ, họ còn đang mải vui, mải nói, mải cười át cả tiếng mưa. Nhưng rồi có một lúc đột nhiên lắng lại, tiếng mưa tí tách rơi nghe rõ mồn một, họ tự tìm về lòng mình, cáicảm xúc trong lòng trào dâng, chén rượu cầm trên tay cũng tủi thân, buồn vô cớ...
Có người nghe mưa rơi còn khẳng định ngoài tiếng nước xối còn có cả tiếng cây lá cựa mình, tiếng con sâu nằm trong kén ngơ ngác sau giấc ngủ dài. Có người còn khẳng định, mưa rơi là lời ru của trời đất, bằng chứng là nằm nghe mưa chỉ một lúc là buồn ngủ.
Cơn mưa đưa con người ta về với vùng hoàiniệm, tiếc nuối một điều gì từ dĩ vãng, run run ngờ nghệch thủa thơ ngây...
Một buổi sớm mùa xuân nghe tiếng lộp bộp rơitừ rừng cây sau nhà, đứa trẻ giật mình hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, trời lại mưa rồi ạ?
Người mẹ nhẹ nhàng:
- Sương đang gõ nhịp, con vừa mơ hay sao!
- Không phải đâu mẹ ơi, con nghe thấy nặnglắm.
- Vậy hả, con dậy đi là biết ngay thôi!
Màn sương bạc trắng đang phủ kín núi rừng, lá cây đọng nước nhịp nhàng rơi xuống đất cho muôn cây ca hát.
Mưa xuân, bay bay rất nhẹ, không làm ướt áoai, con đường đi và đá núi chỉ hơi thẫm hơn một chút.
Trái hẳn với sự dè dặt của mưa xuân, cơnmưa mùa hạ ào xuống mạnh mẽ, quyết liệt như muốn xoá đi tất cả.
Bố đã làm xong chiếc quẩy tấu, đặt ở cạnhcửa, bên trong là con dao quắm có cái cánmới nhô hẳn lên một đoạn dài. Mẹ và chị đã thôi ngồi thêu từ lúc nào. Mẹ cầm cái rá mèn mén đang bốc khói nghi ngút đi ngang qua cửa.
- Vào ăn đi, con!
Em đi vào nhà, mọi người đã có một bát mèn mén nóng hôi hổi cầm trên tay.
Em ngồi vào mâm. Mẹ đưa cho em một bátmèn mén thật đầy, hơi nóng bốc lên thơm lừng...
- Ăn đi, con! - Mẹ giục.
Bên ngoài trời vẫn cứ mưa!

Dòng suối
Con sông dòng suối là kiến trúc của thiên nhiên, chẳng ai biết nó có tự bao giờ, khi conngười sinh ra đã nhìn thấy nó. Kỷ niệm tuổithơ thường gắn với một cái gì đó thơ mộng và theo ta đi suốt cuộc đời. Người làng quê có cây đa, giếng nước, sân đình và dòng sôngêm đềm mang phù sa lở bồi theo năm tháng.Miệt vườn Nam Bộ có cầu tre lắt lẻo dòngkênh, với chiếc xuồng ba lá lướt nhẹ chở nắngsang hè, chở trăng đêm hội. Người miền núi có rừng cây và dòng suối...
Còn tôi, kỷ niệm tuổi thơ gắn liền với con suối nhỏ, làn nước trong leo lẻo trơ cả hòn cuội ở giữa dòng. Con suối của tôi không rộng, không sâu, ẩn mình trong rừng cây tán thấp, chảyqua một thung lũng tuyệt đẹp. Dòng suối là nơilũ trẻ chúng tôi bày ra các trò nghịch ngợm,hết thả thuyền, đến cùng nhau nhảy ùm xuống tắm, té nước vào nhau, rồi cả dìm nhau xuống nước. Chiều nào chúng tôi cũng ra suối, không có trò gì thì rủ nhau thả bộ dọc dòng nước chảy hoặc ngược thượng nguồn ngắmcảnh vật xung quanh...
Mỗi lần ra suối tôi lại nhớ đến câu chuyện của già Kía, già kể cho mười mấy đứa chúng tôi nghe trong một chiều mưa. Rừng núi chìm đắm trong màn mưa trắng xoá, khe núi sau nhà và thung lũng phía tây nước tuôn về ngầu đỏ, riêng dòng suối của chúng tôi nước vẫn trong xanh ngăn ngắt.
Ngày xửa ngày xưa, già Kía bắt đầu kể, trời và đất là hai người bạn tốt, họ ở rất gần nhau, chỉ cần leo lên ngọn núi ở sau nhà là có thể lêntrời ngoạn cảnh. Trong một lần lên trời thần Núi đã gặp Hằng Nga. Họ thành bạn tâm giao rồi yêu nhau lúc nào không biết. Cứ đêm về làhọ tình tự bên nhau. Thần Mưa, thần Mây cũng có lòng với Hằng Nga nhưng không được đáp lại nay thấy Hằng Nga và thần Núi tự tình thì đem lòng ghen ghét. Thần Mây luôn tìm cách che khuất tầm nhìn của Hằng Nga. Còn thần Mưa cũng luôn tìm cớ để dội nước lên đầu thần Núi.
Một hôm trời và đất giận nhau, trời lên tít trên cao để ở. Thần Núi và Hằng Nga đang ngoạn cảnh ở dưới đất bỗng thấy xung quanh tối đen lại. Hằng Nga nghĩ thần Núi đã lên trời nên vội vàng lên trời. Còn thần Núi cứ nghĩ rằng Hằng Nga đang ở dưới đất nên vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Khi biết được rằng thần Mây đã gây ra màn tối để hai bên không nhìn thấy nhau và đã có sự chia ly cách biệt thì không còn cách nào cứu vãn nổi nữa. Thần núi chỉ còn biết đứng nhìn Hằng Nga ở tít trên cao mà tan nát cõilòng. Hằng Nga cũng vậy, họ gặp nhau bằng ánh mắt xa xăm.
Một hôm thần Mây tâu chuyện của Hằng Nga với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng tức giận bắt nhốt Hằng Nga vào ngục tối. Hằng Nga buồn bã héo rũ cả thân xác. Ngọc Hoàng khôngđành lòng trước đau khổ của Hằng Nga bèn hạ lệnh mở cửa ngục cho Hằng Nga được ra ngoài. Hôm ấy Hằng Nga đứng ngắm thần Núi cả một đêm, nước mắt yêu thương chảy tràn trên khuôn mặt ngà ngọc. Hằng Nga yếu dần thời gian được ra ngoài của nàng bị rút ngắn lại. Khi không được thấy thần Núi Hằng Ngalại càng ốm yếu hơn. Ngọc Hoàng đành phải tăng dần thời gian Hằng Nga ra ngoài, rồi lại rút ngắn lại.
Đột nhiên bà Kía dừng kể, quan sát chúng tôimột lượt rồi hỏi:
- Các cháu có để ý thấy khi nào thì Hằng Nga được ra ngoài lâu nhất?
- Ngày rằm ạ! - Một đứa nhanh nhảu trả lời.
- Khi nào Hằng Nga được ra ngoài ít nhất?
- Ngày ba mươi ạ! - Đứa khác lên tiếng.
- Chuyện sau đó thế nào nữa ạ? Bà kể tiếp đi, bà! - Một đứa khác nói.
Thần Mây, thần Mưa đã dùng rất nhiều cách nhưng vẫn không chia cắt được tình cảm của Hằng Nga với thần Núi. Họ chỉ còn một cách là che khuất tầm nhìn của Hằng Nga và thần Núi để họ không thấy được nhau. Nhưng cũng chỉ được một vài hôm bởi tấm áo của thần Mây khi tung ra rất dễ rách, thần Mây lại phải thu về vá lại cho lành. Thần Mưa cũng thế, nước dội xuống cũng không được lâu thì nước hết, thần mưa lại phải đi lấy nước. Và những đêm Hằng Nga và thần Núi tự tình vẫn nhiều hơn những đêm bị thần Mây và thần Mưa ngăn cách.
Thần Núi không biết Hằng Nga bị Ngọc Hoàng nhốt vào ngục nên cứ đứng đó chờ đợi không dám đi đâu. Không biết có phải đứng lâu mỏi chân hay không mà tâm tính thần Núi tự nhiên khác hẳn, hay giận dữ vô cớ, thỉnh thoảng lại lăn đá từ chỗ này sang chỗ khác ầm ầm. Mộthôm thấy có hai người yêu nhau đi rừng về, họ gùi trên lưng hoa quả, củ từ và củi lửa. Họ đi bên nhau rất tình tứ, họ nói toàn chuyện tương lai tốt đẹp. Thần Núi bất ngờ nổi giận lăn đá về phía họ. Người con gái bị đá đè chết. Người con trai cứ ôm xác nàng mà khóc. Thần Núi nhìn cảnh tượng ấy và nghĩ đến chuyện của mình với Hằng Nga đột nhiên thần Núi thấy ân hận và nước mắt cứ thế chảy ra. Nước mắt thần Núi len qua khe đá chảy tràn trên đất thành dòng. Thần Núi cứ khóc, khóc mãi, nước mắt chảy ra thành khe, thành thác,thành suối và thành sông...
Già Kía đã kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện khác nữa, nhưng tôi nhớ nhất là câu chuyện này và lời nói sau đó của già: "Mỗi khi làm việc gì phải suy nghĩ cho kỹ, có ích mớinên làm, đừng tuỳ tiện như thần Núi để rồi sau đó ân hận!.."
Con suối nhỏ của tôi, nơi in dấu tuổi thơ tôi, hàng ngày người dân quê tôi vẫn ra suối kín nước về nấu ăn và tắm giặt. Với riêng tôi dòng suối còn mang trong mình dòng thác tình yêu, tình thương, cả sự đau khổ, cả sự hối hận của thần Núi hiến dâng cho đời.

Sống trên đá
Một hôm bố kể là có gia đình đã bỏ vùng núi cao, hạ sơn xuống thung lũng bằng phẳng. Mẹ hỏi: "Thung lũng đó có xa đây không?" Bố nói: "Không xa đâu, chỗ có đường ô tô mà khi đi chợ ta vẫn qua ấy." Mẹ hỏi: "Đã có nhiều nhà chuyển đi chưa?" Bố nói: "Bản mình có mấy hộ, còn bản bên họ đã đi gần hết." Bà ngồi thêu hoa văn vào kuôk-sêr, nói: "Người Mông ta bao đời nay đều ở trên núi, làm bạn với đá, sống đời ở kiếp với đá. Cái mắt đã quen nhìn, cái chân đã quen bước trên đá, bây giờ bỏ đinơi khác nghe chừng cái bụng nó không ưng. Tao già rồi, có mời tao cũng không đi đâu hết.Khi chết tao muốn được ở gần tổ tiên." Bố nói: "ở lại, cái nương ngày càng ít bụi bay lên, đất đã cằn lắm rồi, bắp ngô ngày càng bé nhỏ, năm nao cũng thiếu ăn, năm nào cũng đói." Bà nói: "Ngày xưa chúng ta lang thang khắp núi rừng, cái chân đi đã mỏi, tao không còn sống được mấy nữa, tao chán cái cảnh nay ở mai đi rồi, tao chỉ ở nơi này thôi, không ai ở thì tao ởmột mình..." Bà đã nói rất nhiều. Bố mẹ khôngnói gì. Còn tôi, không mấy hứng thú với câuchuyện của bà và bố mẹ nên đã không nghenữa mà ra đầu nhà, chèo lên cây đào có cái cành chìa ra từ vách núi ngồi ngắm thung lũng đang thả sương vào chiều. Bà nói vậy tôi thấy vừa cái bụng. Phải xa nơi này, chỉ nghĩ đến thôi tôi đã thấy chông chênh nghiêng ngả nhưđang ngồi trên cành cây sắp gẫy. Nhưng nghĩ như bố mẹ không phải không nghe được, ở lại thấy cái đất nó ít quá, cây ngô trồng xuống không lên được, rồi cái nghèo, cái đói cứ đeo bám ta mãi thì cũng khó mà sống nổi...
Có nhiều thứ gắn bó với cuộc sống của ngườiMông, nhưng với đá thì hình như có một cái gì đó thật đặc biệt. Từ thời xa xưa, bà nói rằng người Mông chưa biết làm nhà đã ở trong hang đá, lấy tảng đá làm giường, lấy khe đá làm nơi bắc bếp đun nấu. Sau này con người đã biết làm nhà thì đá cũng vẫn gần gũi như ngày nào, đá kê cột dựng nhà, đá bắc kiềng nấu bếp, đá làm ghế ta ngồi...
Cuộc sống quanh năm suốt đời gần gũi với đá,làm bạn với đá. Ra khỏi nhà, đi chợ, đi nương, đi lên rừng, đi gùi nước, đi phơi sợi lanh cũng đều được gần đá. Đá còn cho con người cái ăn nuôi dưỡng sự sống, con người trồng cấy trên đá, hạt lúa hạt bắp nẩy mầm trên đá. Cái nương của người Mông luôn thấp thoáng bóng dáng của đá. Có cái nương ít đất quá hạtbắp không lên được con người lấy đá xếp quây lấy đất, hoặc gùi đất từ chân núi lên thảvào từng hốc đá làm thành nương trồng ngô. Con người cứ như con ong cần mẫn làm lụng, mãi đến khi cây lớn lên xoá dần đi màu xámcủa đá mới thấy lòng vui lên ít nhiều. Khi cây cho bắp, hạt lép nhiều hơn hạt mẩy lòng người lại thấy buồn nhưng con người vẫn phải sống,vẫn phải vươn lên và công việc của năm saulại được lặp lại.
Nếu bạn đến quê tôi, bạn sẽ gặp những bứctường đá xếp rất gọn ghẽ và rất đẹp baoquanh ngôi nhà. Mọi người nghĩ rằng khi xếp đá quanh nhà làm hàng rào sẽ được đá bảo vệ không cho con ma ác đến gần, con người không bị đau yếu tật bệnh,... Hàng rào đá còn giúp con người canh giữ tài sản, tạo nét thẩm mĩ cho ngôi nhà. Có hàng rào được xếp cả năm mới xong, đá được chọn lựa rất cẩn thận, giữa hòn nọ với hòn kia không có khe hở, cónhư vậy hàng rào mới chắc chắn. Họ kị nhấthàng rào được xếp lên mà bị đổ xuống, đó là điềm không tốt, con người không được thần đá bảo vệ nữa. Vì vậy việc làm hàng rào không bao giờ được làm qua loa. Việc xếp đá phải nhờ người khéo tay, hòn đá đầu tiên phải đặt theo hướng thầy mo chỉ, đó là hòn đá quantrọng, là điểm mấu chốt tạo nên bức tường, lànơi thần đá ở và làm công việc bảo vệ cho gia đình sau này.
Khi một người được tổ tiên gọi về, cô giáo bảo là về với đất nhưng cái điều tôi nhìn thấy lại khác. Người chết được mang lên núi, chọnmột hốc đá theo hướng mà thầy mo tìm ra và bảo đó là nơi người chết nằm xuống, nếukhông có hốc đá thì con cháu phải đào, côngviệc rất khó nhọc nhưng cái hướng nằm là quan trọng. Đặt người chết vào đó rồi lấy đá xếp lên, là nam thì xếp bảy bậc, là nữ thì xếp chín bậc. Đá sẽ bảo vệ thây ma được vẹn toàn, đá ủ ấm cho tấm thân đã lạnh đi khi ở dương thế.
Trong tâm linh người Mông, so sánh giữa các thần, thần đá chiếm một vị trí khá quan trọng. Vào các ngày lễ, tết con người thường cúng thần đá. Thần đá nằm trong tảng đá to gần nhà ở, hay gần đường đi. Đặc biệt thần đá còn là người cha nuôi kỳ diệu, với những đứa trẻ khi sinh ra khó khăn, nuôi dưỡng vất vả hoặc hay đau yếu. Khi làm lễ để thần đá nhận đứatrẻ làm con nuôi xong, đứa trẻ sẽ lớn lên khoẻ mạnh không bị đau ốm nữa, con ma ác không dám đến gần làm hại đứa trẻ.
Khi chọn được một tảng đá lớn ở vị trí linh thiêng, bố mẹ đem lễ vật và cõng đứa trẻ đến tận nơi, khấn xin thần đá nâng đỡ, che chở cho đứa trẻ, sau đó người bố hoặc người mẹ lấy một đoạn dây rừng buộc vào đứa trẻ rồi quấn dây vào tảng đá. Làm lễ xong họ bện sợi dây lại và đeo vào người đứa trẻ. Từ đây cuộc đời đứa trẻ sẽ được gặp những điều may mắn, tốt đẹp.
Bà nói rằng: "Có ở lâu mới thấy, cái hồn của đá, của núi, của quê nó ăn vào máu rồi. Không dễ mà bỏ đi được đâu. Người Mông ta bao đời nay sống trên đá, làm bạn với đá, chưa thấy ai bị chết đói. Đừng bạc với đất, đừng bạc với quê kẻo không có đường mà về..."
Tôi không hiểu mấy những lời bà nói. Tôi rasau nhà, trèo lên núi, tìm tới tảng đá, ngườicha nuôi của tôi từ ngày sinh ra được một tuần đến bây giờ. Tôi nghe trong nắng, trong gió có điều gì đó rất lạ. Tự nhiên tôi cảm thấy rất lạ, những lần trước lên đây không hề có, hay vẫn có nhưng tôi không nhận ra. Cha nuôi của tôi đã già đi nhiều, cũ kỹ meo mốc, gần nơi tiếp giáp mặt đất rêu xanh mọc lấm tấm xung quanh. Tôi trèo lên trên tảng đá bên cạnh, thấy ở cái hố nước vẫn đọng lại sau mỗi trận mưa bỗng dưng nhú lên hai mầm cây, bốn cái lá nho nhỏ xinh xinh vẫy gió. Tôi ngồi xuống cạnh đó, từ nơi này nhìn rất rõ từng ngôi nhà và cái bản nhỏ của tôi.
Bám vào sườn núi đá lởm chởm, từng mái nhàlợp gianh nhìn vừa thấp, vừa bé so với dãy núi vừa dài, vừa cao sừng sững. Trời sắp vềchiều, ánh nắng đã bị mây che khuất từ lúcnào. Bao phủ lên cả sườn núi là màu xanh xao của khói sương và màu xám của đá. Và kia, từ những mái nhà, làn khói xanh đang thả vào chiều,... Một vẻ đẹp rất riêng bây giờ tôi mới nhận ra, những xúc cảm tự nhiên cứ trải dài theo gió, theo núi, cao vút lên tận mây.
Ngay gần nơi tôi ngồi, ngay phía dưới kia thôilà ngôi nhà của tôi với cái mái gianh thâm đen, làn khói bếp đang được thả đều đều thunglũng,... những nét thân quen hàng ngày!
Và chính lúc này tôi đã hiểu được vì sao bà không muốn rời xa xóm núi nghèo khó, xa ngôi nhà gianh đơn sơ, xa màu xám thâm u của đá, xa dáng vẻ hùng vĩ của núi...
Trải dài khắp các sườn núi, từng hốc đá đ•được dọn sạch cỏ, màu đất mới được xới lênvà đang ủ trong mình những mầm ngô nho nhỏ. Rồi đây, chả mấy nữa, những cây ngô lớn lên, màu xám của đá lại bị khuất dần cho màu xanh vươn dậy.

Miền khát
Đã lâu lắm tôi không trở lại nơi ấy, một vùng đá xám mênh mông, một vùng quanh năm thiếu nước, một vùng đã khắc vào tâm khảm tôi một nỗi nhớ da diết đến không lý giải nổi tạisao.
Thời gian thấm thoắt trôi đánh vèo một cái đãsáu năm.
Gặp nhau ở huyện tôi nói với người bạn làmgiáo viên là sẽ vào trong xã, tôi hỏi có cần mang theo cái gì không. Anh ta cười, trong ấy không thiếu thứ gì ngoài nước, trước khi đicậu nên tắm rửa sạch sẽ. Tôi cứ nghĩ là anh ta nói đùa.
Đi đường, chúng tôi đã dừng lại nghỉ không biết bao nhiêu lần, phải nói thật là cảnh rừng núi quá đẹp, với lại cái xe mink cà tàng phunkhói mịt mù và lỳ ra không chịu lăn bánh. Đến Bạch Đích, anh ta dừng lại lấy can hai mươi lít xuống suối múc một can đầy nước chằng vào đằng sau xe. Anh ta bảo lấy nước để rửa mặt và nấu ăn.
Nơi chúng tôi dừng chân là hai dãy nhà cấpbốn lợp ngói đỏ, một của nhà trường, một củauỷ ban xã.
Tôi nghỉ tại nhà trường, ở chung với người bạn, vậy là chúng tôi đã đi gần mất một ngàychặng đường gần năm mươi cây số. Anh bạn lấy nước ra rửa mặt. Chúng tôi nấu ăn qua loarồi đi ngủ. Anh bạn tâm sự, nơi này lúc nào cũng thiếu nước, cả vùng thiếu nước chứ không chỉ có Uỷ ban. Mùa mưa còn đỡ vì cóthể hứng nước mưa để dùng, còn mùa khô thìtrăm ngàn cơ cực. Anh chị em giáo viên quầnáo mặc đúng một tuần, ngày nghỉ mới đem điBạch Đích để giặt và tắm luôn. Hàng ngày nhiều lúc phải nhịn đói vì không có nước để nấu. Ai không có điều kiện đi lấy nước thì phảimua, dân mang ngựa đi gùi, hai mươi ngàn một can hai mươi lít nước. Cho nhau dăm ba chục ngàn không đắn đo bằng cho nhau ca nước. Có một nghịch lý là có khi trong nhà rượu mua về còn nhiều hơn nước... Tôi vì mệt đã ngủ từ lúc nào, không biết anh bạn đang nói thêm những gì sau đó.
Tôi đã được trở lại nơi ấy trong một chuyếncông tác, niềm vui cũng không lý giải nổi, nómênh mang rộng lớn lắm, hừng hực như lò lửacháy đêm khuya.
Hết con đường trải nhựa, đến con đường đất đỏ, hai bên đường chạy dài vào tận thung lũng là rừng thông non đang vi vu ca hát, những cây thông mơn mởn xanh tràn đầy nhựa sống lung linh trong nắng vàng.
Núi, tôi đang đi trên vai ngọn núi. Thung sâutừng mảnh nương ngô đã xanh um sắc lá. Gióvà nắng đã làm rừng núi như cô gái đang làm duyên trước khi xuống chợ, nét xuân làm đôimá cô cứ ửng hồng còn đôi mắt lại sâu thẳm như khe suối trong.
Nơi ấy của tôi đã có nhiều thay đổi, nhữngngôi nhà mới đã xoá đi màu tối bức tranh quê, xoá đi cái đói, cái nghèo bám dai dẳng đến mấy mươi đời. Nét tươi mới đã hiện rõ trên khuôn mặt con người. Nơi này con người đãbiết lấy đá để xây nhà, từng khối đá được đục đẽo gọt dũa rất đẹp, chạm khắc những nét hoa văn tinh sảo.
Cái nắng vẫn còn chan hoà, tôi đứng ở lancan tầng hai trụ sở Uỷ ban xã nhìn ra vùng núi trước mặt, một làn gió oi nồng thổi lại, mùi của đất, của đá, của cây cỏ thoảng bay, tôi đón nhận trong ngất ngây niềm xúc cảm. Nơi con đường tôi vừa đi qua, hai bên là nương ngô, bóng người thấp thoáng vun đất vào gốc từng cây ngô đang xanh lá. Cao hơn nữa là đỉnh núi, nơi có rừng cây. Anh bạn cùng đi thắc mắc:
- Sao dân không chặt cây ở đây nhỉ?
Anh cán bộ xã cười:
- Rừng cây này đã cấm chặt phá từ lâu rồi, chứ không chỉ trong vòng một tuần là sạchtrơn nhẵn nhụi.
Anh bạn vẫn thắc mắc:
- Thế họ lấy củi ở đâu để đun?
Anh cán bộ xã lại giải thích:
- Họ phải đi xa hơn, lấy củi ở những vùng không cấm.
- Họ không chặt trộm cây sao?
- Không ai dám chặt, người dân ở đây coinhững khu rừng đầu nguồn, rừng bảo vệ là những nơi thiêng. Họ bảo vệ bằng chính luật tục của bản làng, nên họ không dám vi phạm.
Cuộc nói chuyện đã không kéo dài, anh bạn rủtôi đi dạo quanh Uỷ ban. Tôi nhìn vào trongbể, thấy có nước. Tôi nhìn quanh phát hiện radây nước được kéo từ trên núi xuống. Tôi cầmdây nước lên, một dòng nước trong nhỏ bé chảy ra. Tôi hỏi một người đứng gần, anh ta cho biết nước được lấy về từ bên kia núi, đi bộ mất khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ.
Anh bạn rủ tôi đi xem những ngôi nhà xâybằng đá. Chúng tôi trở lại con đường vừa đivào Uỷ ban. Những ngôi nhà nhìn bên ngoài có kiểu cách tương đối giống nhau, nhà nào cũng làm hai tầng, tầng trên chỉ cao bằng một nửa, có khi chỉ bằng một phần ba tầng dưới. Nhà có ba phần mái, phần mái chính chạy dọc theo nhà, chịu trách nhiệm che mưa nắng cho ngôi nhà, hai phần mái phụ vuông góc với mái chính nằm ở phần mái phía trước ngôi nhà tạo một kiểu cách khác hẳn so với nơi khác.
Trên đường, từng đàn bò, dê nối đuôi nhau vềbản đi ngang qua chỗ chúng tôi đứng. Con nào con nấy béo núng nính. Cách một đoạn là đứa bé khoảng chín mười tuổi đi cùng đàn bò. Tôi đi theo một tốp có ba đứa trẻ để trở lại Uỷ ban. Một đứa trẻ hỏi tôi:
- Anh đi đâu đấy?
- Anh đi ngắm núi! - Tôi trả lời.
Nó cười, mấy đứa cùng cười:
- Núi có gì hay mà anh ngắm? - Một đứa khác hỏi.
- Hay chứ, hay nhiều nhiều đấy. Con chim gìđấy, em?
Tôi chuyển đề tài khi thấy một đứa có conchim đang đậu trên cánh tay. Nó cười không nói gì. Đàn bò đi tiếp vào con đường được xếpbằng những tảng đá lớn để về bản. Tôi rẽsang con đường đi vào Trụ sở Uỷ ban xã. Tôi vào phòng của đoàn thể gặp chị Hội trưởngHội phụ nữ xã, một người khá đặc biệt, tôinghĩ vậy, chị rất trẻ so với cái tuổi bốn mươi tám, chị rất xinh, chắc hồi còn con gái phải xinh lắm để đến bây giờ nét duyên vẫn còn đằm thắm đến thế. Chị nói chuyện rất cởi mở và có duyên. Chị cho biết, cha chị là người Mông ở Đồng Văn. Gia đình nghèo đói quámới đem cha chị bán cho bản người Dao. Chachị sống cuộc đời tôi đòi, phải làm nhiều thậtnhiều còn ăn thì thật ít. Cha chị đã từng phải ăn quả rừng thay cơm. Nhiều đêm ông phảingủ trên rừng khi đến mùa vụ để canh giữnông sản, hoặc khi thú rừng về phá mùa vụông cũng phải ở trên rừng,...
Cuộc sống lao động cho ông vóc người cao lớn, khoẻ mạnh, còn việc ông làm được luôn gấp đôi người khác. Bằng tuổi người ta đã có người nhóm bếp lửa, che ô khi cùng nhau đi chợ, cha chị đi đâu vẫn một mình. Số phận tôi đòi của cha chị đã làm nhiều cô gái e ngạikhông dám lấy làm chồng mặc dù cái bụng rấtmuốn. Tiếng kèn lá của cha chị trong những đêm hội đã làm nhiều cô gái mải nghe quên cảđường về. Rồi một hôm, không ai dám tin, người con gái út của Tẩn A Pá, một trong bagia đình giàu nhất tổng đã đem lòng yêu chachị. Cha chị bị người ta lấy roi da bò đánh suốt một ngày, rồi phơi nắng ba ngày nữa. Mẹ chị cũng bị nhốt ở trong nhà bắt uống lá thuốc cho ra cái thai trong bụng. Mẹ chị nhất quyết không uống và cũng nhịn ăn từ khi người ta bắt cha chị. Nếu họ bắt cha chị chết thì mẹ chị cũng sẽ không sống nữa. Sau cùng họ đã nhất trí với cách giải quyết là đưa hai người lên khurừng già ở tít trong núi sâu. Mọi người coi họ như con ma ác, phải bỏ đi thật xa. Mẹ chị đã sinh ra chị trên rừng. Năm năm sau ông ngoại lên đón mẹ chị và chị về nhà. Bố chị cũng được quay về nhưng vẫn phải sống kiếp tôi đòi như trước. Ông ngoại không cho chị mang họ của bố, kẻ đã bị bán đi không còn họ, chị mang họ Tẩn của mẹ. Bố chị đã mất sau đókhông lâu, ông bị đưa đi chôn cách đó mấydãy núi, lên tận khu rừng già, ông không đượccoi là người dân trong tổng nên phải đem chônthật xa, ngoài vùng đất của tổng. Mẹ chị cũngmất khi chị lên mười...
Chị chưa kịp kể lại cho tôi nghe tiếp đoạn đời còn lại thì có người đã gọi chị đi hoà giải một vụ mâu thuẫn gia đình.
Tôi lại lên tầng hai đứng ở lan can nhìn ra khu rừng và nương ngô, một màu xanh xen lẫn màu đá xám tai mèo trải dài khắp các sườn núi. Nơi ấy thấp thoáng bóng người vun ngôđang mờ dần trong sương.

Thuốc phiện
Tiếng gừ gừ cất lên trong đêm vắng, rồi tiếngsột soạt, rồi tiếng lạch cạch, rồi tiếng lịch bịch,... Thôi rồi, thú rừng lại tìm về! - ý nghĩbật ra trong đầu chị như vậy. Chị nằm yênnghe ngóng, tiếng động mỗi lúc một rõ hơn, từtiếng lá cây va vào nhau đến tiếng thở phì phò chị cũng nghe thấy. Đúng là thú rừng lại về bản. Hôm qua nhà ông Hầu Nhè Vá bị thú rừng về bắt đi một con dê, hai con gà. Mọi người chia nhau đi tìm đến nửa buổi sáng thì tìm thấy nhưng con dê chỉ còn lại cái đầu, một ít xương và hai cái chân trước nằm cạnh một bụi cây nhỏ, còn gà thì chỉ thấy một ít lông vàmáu dính trên cỏ.
Chị phải dậy, nhất định chị phải dậy, chị nhủlòng như vậy, con bò duy nhất có trong chuồng, gia tài đáng giá của chị, con lợn vừa mới mua về có thể cũng bị tha đi mất, còn gà nữa, một con gà trống, hai con gà mái dành cho ngày tết đang nằm trong cái hầm ếch ở sau nhà. Chị phải dậy, chị phải đuổi con thú này ra khỏi đất nhà chị.
Chị sợ lắm, nhà chẳng có ai ở cùng, chị sống thui thủi một mình suốt từ cái ngày anh theo người ta đi buôn để có ít tiền mua thêm con ngựa. Thế mà đ• mấy năm, không thấy anh về, cũng không có tin gì của anh nhắn lại.
Chị thấy hơi thở nghèn nghẹn, con tim dồn lênnhững nhịp đập rất mạnh. Chị sợ lắm, có mộtmình làm gì cũng thấy sợ, nhất là giữa đêmthanh vắng như thế này, cách nhà chị tít xa xa mới có hàng xóm, có với gọi họ cũng không nghe thấy. Chị sợ lắm, chân tay không hiểusao cứ run lên lẩy bẩy.
Sợ mấy chị cũng phải dậy, phải dậy, chị nhủmình như vậy, cả gia tài của chị sau bao năm dành dụm mới có được không thể để mất. Chị nhất định phải giữ. Mồ hôi công sức là một phần máu thịt của mình, không giữ được thìxót lắm.
Chị phải ra khỏi giường. Đó là việc đầu tiên chị phải làm. Chị biết vậy, chị sẽ với lên vách lấy con dao quắm, chị sẽ lấy bó đuốc thật to, nó ở ngay gầm giường.
Chị từ từ ngồi dậy, ánh lửa bếp sưởi bậpbùng, căn nhà như rộng hơn, hoang vắng, chỉ một vài nơi có ánh sáng, bên cạnh là những khoảng tối làm chị thấy sợ,... nhưng chị phải dậy, nhất định chị phải dậy. Chị bước xuống giường. Đôi chân sao lại yếu đến thế, chị đứng lên phải vịn vào giường mới vững, haiđầu gối cách xa thế mà vẫn va vào nhau thì lạ quá. Một lát sau chị mới chấn tĩnh được. Chị ngồi xuống đưa tay với bó đuốc nơi gầm giường. Bó đuốc nằm ngay cạnh bàn chân màchị phải đưa hai tay mới ôm được nó lên. Cầm được bó đuốc rồi nhưng tại sao với mãi vẫn không lấy được con dao trên vách, mọi ngàychị chỉ cần rút nhẹ là lấy được nhưng hôm nay con dao cứ như gắn chặt vào then gỗ. Chị tiến lại gần hơn một chút nữa, nhìn qua khe hở của ván ghép thấy bên ngoài trời tối lắm, một màu đen thăm thẳm hun hút sâu. Tay chị ở chuôi con dao, nó vẫn run lên từng chặp. Chị lấy hết sức nắm chặt lấy chuôi dao rồi rút mạnh. Con dao tuột khỏi thanh gỗ. Vậy là chị đã lấy được rồi.
Chị đến bên bếp sưởi, dúi bó đuốc vào trongbếp. Không gian xậm hẳn xuống. Chị không dám nhìn đi nơi khác ngoài bếp lửa. Một lúc sau lửa bắt vào bó đuốc sáng to lên soi rõ cảcăn nhà. Tất cả vẫn vậy, vẫn yên bình lặng lẽ.
Chị cầm bó đuốc và con dao đi ra cửa. Chị nhấc then cài cửa và bước ra ngoài. Một cơn gió lạnh thổi lại làm ngọn đuốc run lên muốn tắt. Chị vội lấy người che gió cho ngọn đuốc. Ánh sáng lại bừng lên, gió cũng ngừng lại. Chị nghe ngóng quanh, không thấy có tiếng động gì khả nghi.
Chị ra chuồng bò. Nơi chị sẽ đến đầu tiên.Con bò vẫn ở trong chuồng. Chị giơ bó đuốclên soi, con bò giật mình đứng dậy giương đôimắt tròn xoe đen láy nhìn chị.
Chị ra chuồng lợn. Con lợn đang nằm ngủ ngon lành, nó không thèm động đậy, hai cánh mũi phập phồng, miệng kêu ụt ịt giống lúc chị cho nó ăn. Hình như trong giấc ngủ nó đang mơ được ăn thì phải.
Chị ra sau nhà. Chị nhấc tấm gỗ chắn miệngcái hầm ếch. Bầy gà thấy ánh lửa vội lùi sâu vào trong hang, con này dẫm vào chân conkia, chúng kêu lên và cãi nhau chí choé. Chịđậy lại cửa hầm. Chị bê thêm mấy hòn đáchèn vào sau tấm gỗ.
Hình như có tiếng động nơi con dốc đi lênnhà. Chị giật mình nghe ngóng, lại một khoảng lặng bao trùm. Chị đi về sân trước và giơ đuốclên soi. Tất cả vẫn yên lặng. Chị đi tiếp ra ngõ, soi ánh đuốc xuống con dốc đi lên nhà. Chị nhìn thấy có bóng người, một người đàn ông đang nằm sóng soài trên mặt đất.
- Ai đấy? - Chị vừa hỏi vừa đi xuống chỗ người đàn ông đang nằm.
- Tao! - Người đàn ông thì thào. - Vàng Mỷ à, tao đây, chồng mày đây, Lử Lùng đây.
- Lử Lùng, mày về sao không vào nhà mà nằm ở đây hả?
Chị vội dìu chồng vào trong nhà. Chồng chị yếu lắm, gần như đổ cả tấm thân còm cõi vàongười chị.
Chị đặt chồng ngồi gần bếp lửa, tựa lưng vàocột nhà và ngồi xuống bên cạnh cho thêm mấythanh củi vào trong bếp.
- Tao muốn ăn! - Lử Lùng nói.
Chị lấy ít mèn mén còn lại từ bữa tối, một ít đậu xị, một ít canh nhạt đặt trước mặt chồng. Chồng chị múc một muôi mèn mén rõ to đưa vào miệng, phùng má lên nhai. Rồi tiếp tục múc một muôi canh nhạt đưa lên miệng. Canhchưa vào đến miệng chồng chị chợt ho rũ ramột chặp, mèn mén bắn tung toé quanh bếp.
- Ăn chậm thôi chứ! - Chị nhắc chồng. - Đói lắm hả?
Chị nhìn chồng và nhớ tới cái ngày anh nói là sẽ đi làm cùng Mí Sình một thời gian lấy ít tiền về mua thêm con ngựa để thồ hàng. Chị không muốn chồng đi nhưng khi nghe Mí Sình nói là công việc không vất vả mấy, chỉ đem hàng từ mình sang Trung Quốc rồi lấy hàng từ bên ấy về, hàng hoá là những thứ tiêu dùng hàng ngày. Chỉ sáu tháng, có khi chỉ hai ba tháng nếu thuận lợi là đủ tiền mua được con ngựa tốt...
- Cái bụng thằng Mí Sình đầy lá ngón,... -Chồng chị vừa ăn vừa nói. Khuôn mặt đã bớtnhợt nhạt, cái cằm bạnh ra khi hai hàm răngnghiến chặt. Mèn mén vẫn còn ngậm trong miệng.
- Ăn xong rồi hãy nói, - chị nhắc chồng.
Chồng chị cho tiếp một muôi mèn mén nữa vào mồm, nhồm nhoàm nhai.
- Cái bụng thằng Sình chứa đầy lá ngón, cáimiệng nó độc như nọc con rắn xanh trên rừng.Tôi đi với nó như đi vào con đường chết. Nó đưa tôi đến biên giới, bắt vận chuyển hàngvào đêm để trốn bộ đội biên phòng. Sau chuyến đi ấy, nó cho tôi tiền, mua cho tôi mộtbộ quần áo mới. Tiền tôi đem cất đi, quần áo tôi cũng gói lại định khi về nhà sẽ mặc. Vài ngày sau nó bảo tôi là sẽ đi vào sâu hơn vào bên kia biên giới, đi dài ngày có khi nửa thángmới về, muốn có tiền thì phải chịu khó. Tiềnbạc vừa đưa cho tôi mấy hôm trước nó khôngcho cầm theo. Nó bảo đưa hết cho nó giữ hộ, khi nào về nó sẽ trả lại. Cầm theo sang bên kia biên giới dễ bị cướp lắm. Tôi tin và đưa hết cho nó. Chuyến ấy, nó đi mua thuốc phiện. Khi đi chuyến đi sau tôi mới phát hiện ra. Tôi bảonó đưa tiền trả tôi để tôi về. Nó bảo đi một chuyến này thôi nó sẽ trả tiền đủ mua mười con ngựa tốt. Không có tiền tôi không về được và đành phải đi theo nó. Lấy được hàng, đang trên đường trở về thì gặp một toán cướp. Tôi với nó cùng chạy. Tôi bị ngã xuống vách núi. Khi tỉnh dậy không hiểu sao đang ở trong rừng bên một đống lửa lớn. "Tỉnh rồi hả?" - Thằng Sình hỏi. Tôi không nói gì. Tôi ngồi dậy thấy toàn thân đau ê ẩm. "Không hề gì, chỉ xước da tí thôi!" - Thằng Sình nói tiếp. "Đi thôi!" - Nó giục. - "ở đây bọn kia tìm thấy thì không vềđược đâu!" Tôi đứng dậy nhưng cái chân đau quá không đi được ngã khuỵu ngay xuống. Thằng Sình lấy trong bụng ra một bọc nhỏ rồi véo ra một cục đen đen tròn tròn bảo tôi nuốt. Trời tối quá, tôi không nhìn thấy gì cứ đưa lên miệng nuốt đại vào bụng. Lạ thay, tôi không thấy đau nữa, thế là đi được, hai thằng cùng về theo con đường đã đánh dấu từ trước. Khi nào tôi đau nó lại cho nuốt một viên đen đen tròn tròn, tôi lại không đau nữa và đi tiếp. Mấylần tôi hỏi là thuốc gì mà tốt thế. Nó bảo là thuốc khoẻ, con người ăn vào là thấy khoẻ ra. Tôi không tin lắm muốn xem xem đó là cái gì, nhưng nó không cho xem, nó bắt phải đi cho nhanh kẻo bọn kia đuổi kịp thì chỉ có con đường chết. Sau này tôi mới biết cái thứ mà nó cho tôi nuốt hôm đó là thuốc phiện. Tôi đã bị nghiện từ lúc nào cũng không biết nữa. Thế là tôi phải phụ trách công việc lấy hàng thay nó để khi về được nó véo lại cho một ít. Một hôm nó bị cảnh sát bên kia biên giới bắt, tôi trốn được và bỏ chạy về đây, tôi không nhớ đã đi bao nhiêu ngày, và phải nhịn ăn bao nhiêu ngày. Về đến nhà thì cái chân không còn bước nổi nữa. Tôi tưởng tôi sẽ chết trước khi thấy mặt Vàng Mỷ. Tôi đã cố gắng, còn thở được là tôi sẽ về. Cuối cùng cũng về được đến nhà, gặp được Vàng Mỷ.
Chị không còn tin vào tai mình nữa. Chị phảilàm gì đây? Bao nhiêu khổ cực, nhục nhã khigia đình có người nghiện chị đã được nếm từkhi chưa biết mặc váy. Bố chị đã hút cái thứ nhựa màu nâu đen ấy từ lúc còn trẻ đến khi không thở được nữa vừa tròn ba mươi năm. Ba mươi năm nghèo khó, ba mươi năm đóirách, ba mươi năm xơ xác, ba mươi năm không còn được là người. Bố chị, đến khi chết không có đồng tiền nào để làm ma, không kèn không trống, đem đi chôn như người ta chôn một con chó.
Chị biết sống thế nào đây, nuôi con nghiện trong nhà như nuôi cáo giữa bầy gà, nuôi hùm giữa bầy lợn. Chị đau đến nát cả lá gan, vụntừng khúc ruột.
Nhìn chồng chị đau khổ, chị cũng đau khổ. Chịthấy như mình cũng có lỗi trong những đau khổ của chồng. Chị vận động chồng cai nghiện. Nhưng phải nói là rất khó, bố chị đã cai đi cai lại, thề lên thề xuống đến lúc chết vẫn chưa cai nổi. Dẫu biết là rất khó nhưng chị vẫn hy vọng vào những điều tốt đẹp và cố caithuốc cho chồng như mẹ chị đã cố cai cho bố chị khi xưa.
Anh đau đớn, vật vã, lăn lộn từ trên giường rơi xuống đất, từ góc nhà này sang góc nhà kia, nước mắt nước mũi chảy ra thành dòng. Anhđập phá cào cấu. Lần sau anh bắt chị trói chặt cả chân lẫn tay không cho cựa quậy. Vật vã một lúc mắt anh trợn ngược, nước dãi sàu ra bên mép rồi đọng lại thành một đống bọt màu trắng, đầu đập xuống đất, đập vào cột nhàmáu chảy ra lênh láng. Và chính chị đã khônggiữ nổi ý định ban đầu, nhìn anh khổ quá chị không đành lòng và lại lấy thuốc cho anh hút.
Lần này anh lên cơn, nhà không còn thuốc, chịcho anh uống rượu, men rượu đã làm anh ngủyên. Từ đó mỗi lần anh lên cơn nghiện chị lại cho anh uống rượu.
Thật vui, sau đó anh đã cai được thuốc phiện,nhưng anh lại mắc vào nghiện rượu. Mỗi ngày nửa lít, không có rượu là anh vật vã chẳng kém gì thuốc phiện.
Gặp chị ở chợ, dáng người vẫn óng ả ở cái tuổi trung niên, chị mua vài thứ đồ dùng cho mùa vụ mới. Tôi hỏi về anh, chị cười: "Mất từ năm ngoái rồi! Bệnh gan! Bao nhiêu năm rồi anh mới trở lại." Chị chỉ nói vậy rồi vội vã ra về.
Tôi nhìn theo bóng chị đi trong nắng chiều. Bao nhiêu năm rồi nhỉ, tôi hỏi lòng mình, tính từ ngày ấy cũng ngót hai mươi năm có lẻ. Haimươi năm rồi, biết bao những đổi thay?

Cô hàng rượu
Tôi đã được đọc một số tác phẩm của một số nhà văn lớn, cô hàng rượu của họ cô nào cũng bốc lửa, dễ say, say từ ánh mắt, nụ cười đến tấm thân ngà ngọc, chỗ nào cũng có thể say được, cuối cùng mới là say rượu cô bán. Mà cũng lạ, có mười cô hàng rượu thì có đến chín cô đa tình. Từ con mắt liếc dao cau đến cái môi mím nụ, cái cười hoa nở, thậm chí cảcái lắc đầu, cái rùng mình... cái nào cũng biếtnói, cái nào cũng có thể làm cho người ta say, rồi ngất ngây, ngất ngư trong men rượu. Khirượu đã say thì cứ như ăn phải bùa mê, nhìn ai cũng thấy xinh, nhìn gì cũng quyến rũ, nuột nà như cô hàng rượu. Có người còn lầmtưởng cái cột đèn đường là cô hàng rượu... Nói vậy đủ biết sức cuốn hút của cô hàng rượu đến thế nào.
Cô hàng rượu của tôi không đa tình, không bốc lửa, cô chỉ khác người ở cái cười nụ. Thúthực tôi đã si mê nụ cười ấy. Uống rượu cô bán tôi còn thề là sẵn sàng hy sinh cho cái cười nụ ấy.
Cô hàng rượu của tôi vừa mới chớm tuổi trăngtròn, ở cô có cả sự hoang dã của núi rừng lẫn cái tinh khiết của nước suối ôn tuyền. Cô như trăng non đầu tháng, như giọt sương sớm trên cành, như bông hoa vừa hé. Ánh mắt cô luôn mở to, thơ ngây, trìu mến.
Chợ phiên quê tôi chỉ họp vào ngày chủ nhật,người núi cao, người núi thấp, người rừng già, người rừng non, kẻ ở gần, kẻ ở xa... đều tìmvề. Nhiều người đi chợ nhưng chẳng thấy mua bán gì, chỉ đi tìm gặp bạn bè, uống với nhaubát rượu, hỏi thăm chuyện gia đình, người thân, công việc làm ăn... rồi về. Có người còn đem rượu từ nhà đến chợ, tìm bạn, mời bạn nhấp ngụm, mình nhấp ngụm, ôn lại những chuyện cũ, mới. Chiều buông xuống dù lưu luyến vẫn phải chia tay, nhà bạn ở xa, nhà mình cũng không gần, trên con đường dát nắng có kẻ ngất ngư như đang cưỡi mây về nhà.
Quán rượu cuả cô hàng là gốc cây xoài giàcuối chợ, không bàn, không ghế, mươi cái bát, hai cái chai, và can rượu lúc thì hai mươi lít,lúc thì mười lít. Quán cô chỉ mở vào ngày chợ phiên.
Vài ba người bạn gặp nhau, kéo đến gốc xoài,mua chai rượu, mượn cô hàng vài cái bát, ngồixổm trên nền đất, rượu được rót ra, vừa uốngvừa tâm sự. Rượu của cô là cứ phải uống bát, ngồi xổm uống mới ngon, mới đã. Rất nhiềungười cũng bán rượu, có đến mấy chục hàng, tôi đếm sơ sơ một phiên cũng sấp sỉ năm mươi can hai mươi lít, ba mươi can mười lít, dăm bảy can dăm ba lít. Người bán thành dãy dài. Nhưng không hiểu sao hàng rượu gần gốc xoài vẫn có đông người uống tại chỗ nhất. Ai nói gì cô hàng cũng chỉ cười nụ, ít khi cười to. Thiên hạ cũng giống tôi mến cái cười nụ của cô, hay là mến rượu, hay là gốc xoài có gì cuốn hút mà tôi không biết.
Một tuần, khách chợ chỉ được gặp cô hàng rượu có một lần vào ngày chủ nhật. Tuần nào đi chợ cũng gặp cô. Cô vẫn bán hàng ở gốcxoài quen thuộc. Riêng tôi, khi đi chợ phải quahàng cô trước mới yên lòng ghé đi nơi khác,nếu không con mắt cứ thấy như thiêu thiếu, chẳng thiết nhìn, chẳng thiết mua cái gì. Hình như là có một tuần tôi không thấy cô hàng rượu, gốc xoài buồn hẳn đi, nắng không buồn tới, gió chẳng buồn lại. Nhiều người nhớ cô bán rượu đến độ không uống của ai khác mà ngồi ở nơi quen thuộc tán chuyện với nhau,người khác có đến mời rượu cũng đều lắc đầu. Nhiều người cố len lỏi qua đám đông để ra gốc cây xoài, cô bán rượu hôm nay vắng, họ đứng bần thần một lúc mặt mày ủ ê rồinặng nhọc lê bước chân ra về.
Cô hàng rượu của tôi! - Nói là của tôi cho oai chứ cô ta có biết tôi là ai đâu, tôi có đi ngangqua hàng cô trăm lần thì chắc gì cô ta đã nhìn, nếu có nhìn thì chắc gì cô ta đã nhớ... Thế nhưng cô vẫn là của tôi, của riêng trong ý nghĩ tôi, không ai thấy, không ai biết, và dĩ nhiên đến cả cô hàng rượu cũng không biết.
Tôi được cơ quan cử đi học. Sáu tháng sautrở lại, đến chủ nhật tôi vội vàng ra chợ, tìm đến gốc xoài, nơi ấy không một hạt nắng, gió cũng lặng im, chỉ thấy lá vàng phủ một lớp dày trên mặt đất. Tôi ngẩn ngơ một lúc rồi ra về. Tuần sau tôi lại tìm đến gốc xoài, lá vàng dày thêm trên nền đất cũ. Tôi lại thất vọng ra về.Tuần sau nữa vẫn thế, lá vàng vẫn cứ rơi còn cô hàng rượu của tôi vẫn vắng bóng.
Thì ra cô hàng rượu đã lấy chồng. Nơi cô đến cách khu chợ bốn dãy núi. Chắc vì xa nên cô không thường xuyên đến chợ như trước được. Và hình như cô cũng thôi không nấu rượu để bán nữa.
Sau đó tôi vẫn đi chợ, thỉnh thoảng vẫn ghégốc xoài, biết đâu đấy một ngày kia cô hàng lại mang rượu đến đó bán thì sao !?


1 nhận xét: