LỜI
NHÀ XUẤT BẢN
Đánh
giá về những thành tựu 20 năm đổi
mới,trong Báo cáo Chính trị của
Ban Chấp Hành Trung Ương tại Đại
hội X của Đảng có nếu
rõ:"Hai mươi năm qua... công cuộc
đổi mới của nước ta đã đạt được
những thành tích to lớn và có ý nghĩa lịch sử".
Để
giúp độc giả thấy được rõ hơn
những thành tựu to lớn mà nhân dân ta đã đạt đượctrong hơn 20 năm
qua, Nhà xuất bản Thông Tấn biên soạn và ấn hành cuốn sách với tựa đề: "Chuyện thời bao cấp".
Cuốn
sách là tập hợp các bài viết của
một số tác giả kể lại những câu chuyện chân thực về những khó khăn, thiếu thốn, tình trạng khan hiếm hàng hoá, lương thực, thực phẩm cùng các nhu yếu phẩm thiết yếu của đời sống con người và những tư duy, suy nghĩ, mong ước rất giản dị của mọi người thời kỳ trước Đổi mới (1986), khi mà đất nước ta còn duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Thời kỳ đó mọi nhu yếu phẩm cần thiết đều phải phân phối theo chế độ tem phiếu và chúng ta vẫn gọi là "thời bao cấp".
Trải
qua thời kỳ khó khăn như vậy,
nhưng nhân dân ta vẫn vượt qua. Chúng ta đã trăn trở, tìm tòi được con đường đi phù hợp với quy luật phát triển chung của thời đại và thực tiễn của Việt Nam. Nhờ đó, đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cósự thay đổi cơ bản và toàn diện như hôm nay, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Những kết quả, thành tựu đó đã khẳng địnhđường lối đổi mới
do Đảng ta khởi xướng vàlãnh đạo
là đúng đắn.
Xuất
bản cuốn sách, chúng tôi mong
muốn giúp bạn đọc, nhất là thế hệ sinh ra và lớn lênsau khi đất nước
thực hiện đường lối đổi mới,hiểu
thêm được chặng đường gian nan mà
thế hệ cha anh đã phải trải qua, thêm quý trọng vàtự hào về lịch
sử hào hùng của dân tộc, để phấn đấu lao động, học tập, rèn luyện đức tài, góp phần dựng xây đất nước mạnh giàu, xứngđáng với thế
hệ đi trước.
Xin
giới thiệu cuốn sách cùng bạn
đọc.
NHÀ
XUẤT BẢN THÔNG TẤN
VẬT
LỘN GIAN KHỔ ĐỂ CHIẾN THẮNG CƠ
CHẾ BAO CẤP
Vài
trăm trang sách chỉ có thể phác
họa trongchừng mực nào đó bề mặt
những khó khăn của một thời bao
cấp. Những bài viết, những câu
chuyện chưa kể hết nỗi cơ cực, gian truân đè nặng lên toàn xã hội trong những năm tháng đó. Nhưng dường như có ai đó muốn phơi bày một định kiến rằng có một lớp người được ưu đãi bởi chế độ A1, A, B, C đã bảo vệ và duy trì cơ chế bao cấp trong một thời gianquá dài.
Người
viết bài này cũng có những năm
tháng được tiêu chuẩn C, rồi B và cả tiêu chuẩn A,dẫu chưa phải là
A1, cũng có thể xếp vào tầng lớp được ưu đãi trong thời bao cấp. Nhưngcũng nhờ vậy
mà biết một phần nào căn nguyên của chế độ bao cấp, hơn nữa lại được theo dõi cuộc đấu tranh gian khổ của chính những người được hưởng chế độ A1 đẩy lui từng bước, tiến tới chiến thắng tư duy và cơ chế bao cấp.
Trước
hết phải thừa nhận rằng chế độ
bao cấp bắt nguồn từ một ý tưởng cao đẹp mong cho tất cả mọi người đều có cơm ăn áo mặc,được học hành và được chăm lo sức khỏe. Người ta mang hoài bão bằng một lực lượng vật chất nghèo nàn vừa có thể tập trung công sức để xây dựng và bảo vệ đất nước, vừa dần dần cải thiện đời sống cho nhân dân. Chế độ bao cấp được hình thành từ ý tưởng cao đẹp đó và nó đã phát huy tác dụng, thực sự thànhcông trong thời
kỳ chúng ta tập trung sức người sức của cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Đất
nước thống nhất, kẻ thù bị đánh
bại, cũngvới ý tưởng cao đẹp đó
người ta lại nuôi hy vọng trong
một thời gian không quá dài
thựchiện kế hoạch khôi phục kinh
tế, xây dựng mộtđất nước độc lập, giàu mạnh,
nhân dân được tự do, hạnh phúc.
Ước vọng đó càng được nuôi dưỡng bởi hào quang chiến thắng, khí thế dời non, lấp biển của những ngày sau mùa xuân năm 1975 và cả năm 1976 tươi đẹp.
Thực
tế phũ phàng, 2 tỷ đôla được viện
trợmỗi năm không còn, dự trữ nhà
nước không đủ nuôi sống đất nước
vài tuần, nhiều năm liền mất mùa liên tiếp. Suốt những năm chiến tranh, hai miền Nam Bắc nhận không dưới một triệu tấn lương thực viện trợ mỗi năm naykhông còn. Và 30
năm chiến tranh giải phóng vừa kết thúc thì cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước ở hai đầu biên giới không dưới 10 năm, lại bắt đầu. Khó khăn chồng chất!
Nhớ
mãi những dòng chứa chan tình
người của một đồng nghiệp nữ nước
ngoài trong một bài viết về Việt Nam năm 1979: "Người Việt Nam thiếu cả gạo và bột mỳ đang phải siết chặt thắt lưng, ép cái dạ dày lép kẹp của mình để đem những tấn gạo cuối cùng giúp nhân dân nước láng giềng vượt qua nạn diệt chủng".
Giữa
tháng 4/1978, anh Nguyễn Duy
Trinh phải thay mặt Ban Bí thư
điện yêu cầu các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hà Sơn Bình, Hà Bắc nỗ lực cung ứng lương thực cho Hà Nội, sao sớm có được một nửa khẩu phần gạo hoặc tối thiểu được khoảng 40% gạotrong khẩu
phần lương thực. Điện nói rõ
tháng 3/1978, Thủ đô chỉ được 30% gạo trong khẩu phần lương thực và sang tháng 4/1978 dân Hà Nội sẽ không còn được như tháng 3, trong khi các thực phẩm thông thường như rau, đậuphụ, mỡ, cá
cũng không đủ để bán theo
temphiếu.
Nhớ
lại thời kỳ đó, tình hình thành
phố Hồ Chí Minh cũng không hơn bao nhiêu. Nhiều anh em thúc giục tôi bay ra Hà Nội phản ánh tìnhhình với các đồng
chí lãnh đạo cao cấp. RaHà Nội
lại càng thấy khó, nói gì nữa và nói với ai. Anh Đổng Ngạc biết chuyện, gọi lên gặp anh Ba. Không ít lần tôi báo cáo thông tin với đồng chí Tổng Bí thư, nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên tôi thấy anh Ba ngồi yên, nghe mà như không nghe, không hỏi lại mà cũng không ngắt lời. Cảm thấy không nên nói thêm, tôi rút lại: Ra Hà Nội thấy tình hình cũng không dễ dàng và chắc chắn Trung ương đã có đầy đủ thông tin, tôi chỉ muốn được nghe ý kiến của anh. Anh Ba đứng dậy. Anh nói nhẹ nhàng mà tôi chưa bao giờ thấy: "Thế anh bảo Trung ương phải làm gì đây, tôi phải làm gì đây! Các đồng chí lãnh đạo có trách nhiệm bên Đảng và bên Chính phủ đều có mặt tại chỗ. Khó khăn thì phải tìm cách tháo gỡ, ngồi mà kêu cực, trông chờ ai cứu mình". Anh trở lại cách nói thường ngày, cao giọng và nhanh, phân tíchgọn tình hình
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, tình hình một bộ phận cán bộ quanliêu, biến chất,
tiêu cực, nhũng nhiễu gây phiền
hà cho dân. Rồi anh bảo tôi: Trở lại ngay trong đó, trách nhiệm của anh là phải nắm thông tin tình hình biên giới Tây Nam. Còn các vấn đề lương thực, đời sống ta sẽ có cách tháo gỡ dần. Nhưng nhớ nhé, chừng nào chưa có 21 triệu tấn gạo, 1 triệu tấn thủy sản và nửa triệu hécta cao su, chưa có 500 triệu rúp - đôla xuất khẩu thì chừng đó còn chưa yên.
Như
vậy đó, tình hình những năm
1977-1978 đè nặng tâm trí của lớp
người thuộc tiêu chuẩn A1. Dẫu họ chưa quá già yếu, mỗi bữa cũng chỉ ăn nổi lưng chén cơm hoặc một tô cháo. Mãi nhiều năm sau này tôi vẫn chịu ám ảnh bởi các con số 21 triệu tấn gạo, 1 triệu tấn thủy sản và 500 triệu rúp - đôla xuất khẩu, những ước mơ thật quá nhỏ bé của lãnh đạo Đảng và Nhà nước thời đó.
Trở
lại miền Nam, theo anh Năm Trường
Chinh đi tới các điểm "vượt
rào", người ta thấy nhà lãnh đạo vốn được coi là nhà lý luận có tính nguyên tắc cao, nghiêm túc và chặt chẽ lại lắng nghe với thái độ đồng tình, khuyến khích. Anh Năm trực tiếp xem và nghe một "chuyên gia thử gạo", bằng mắt và tay mà xác định chính xác chất lượng gạo. Anh hoàn toàn tán thành đề xuất trả mức lương cao gấp mấychục lần so với mức mà đơn vị đang trả cho chuyên gia đó.
Tại
155 Hiền Vương mà nay là 155 Võ
Thị Sáu diễn ra một cuộc Hội thảo về "Bù giá vào lương" do anh Chín Cần thuyết trình (được anh Năm Trường Chinh bật đèn xanh). Anh Tố Hữu còn phải dặn: "Không được làm rầm rộ, mà nhớ chưa viết, chưa nói công khai khi tập thể Bộ Chính trị và Trung ương chưa có quyết định chính thức".
Rõ
ràng là từ nhu cầu của đời sống
xã hội, lợi ích thiết thực của nhân dân cả ở nông thôn và thành phố, mới có tình hình nông nghiệp miền Bắc "làm chui", thành thị miền Nam "vượt rào". Nhưng mỗi điểm "làm chui" và "vượt rào"
đềucó đèn xanh của những A1, vì
vậy mới cóKhoán 100, Khoán 10 và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
6.
Tháng
8/1979, giữa lúc đang phải tập
trung lực lượng giúp bạn
Campuchia, Trung ươngkhóa IV mở Hội nghị lần
thứ 6. Tuy nội dung Hội nghị chỉ
bàn về tình hình và nhiệm vụ, phương hướng phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương, nhưng Trung ương đã thẳng thắn phê phán việc xâydựng kế hoạch
không xuất phát từ thực tiễn, còn tập trung quan lieu, chưa kết hợp được kế hoạch với thị trường, chính sách cụ thể thì gò bó, cứng nhắc không khuyến khích sản xuất phát triển, quản lý nặng về hành chính, quan liêu, bao cấp, không đảm bảo quyền tự chủsản xuất, kinh
doanh của các ngành, các đơn vị sản xuất, kinh doanh, không chú ý vận dụng các quy luật kinh tế!
Từ
đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 6
(khóaIV) quyết định đổi mới công
tác kế hoạch hóa,xóa bỏ những chính sách, quy
định bất hợp lý,mở rộng quyền chủ động của
các ngành, địa phương và cơ sở
(cả quốc doanh, tập thể và cá thể), trong sản xuất, kinh doanh nhằm làm cho sản xuất "bung ra" để có thêm nhiều hàng hóa cho xã hội. Như vậy là từ năm 1979, Đảng ta đã có quyết định đầu tiên về đổi mới, đã phê phán cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp và cho phép "bung ra" trong sản xuất, kinh doanh
Thời
điểm đó, chính sách bao vây, cấm
vận của Mỹ càng siết chặt, những định chế của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) ngày càng chặt chẽ, điều đó có nghĩa là sự hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em không còn như trước. Và cũng năm 1979, Bộ Chính trị đã phải có không ít quyết định về tăng cường lực lượng vũ trang, lập Quân khu thủ đô, thành lập thêm Quân đoàn 5 ở Quân khu I, Quân đoàn 8 ở Quân khu II, quân sự hóa cảng Hải Phòng...
Tuy
nhiên, tinh thần của Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đã tạo không khí cởi mởgiảm bớt được một
số khó khăn cho các cấp,các ngành
và cơ sở.
Nhân
nói vì sao tại Hội nghị toàn
ngành ở Đà Nẵng năm 1983, lãnh đạo TTXVN khẳng định về cơ bản đã thực hiện hạch toán kinh tế toànphần và tạo tiền
đề cho phương án xây dựnghãng
thông tấn báo chí phi chính phủ
bên cạnh hãng thông tấn thông tin nhà nước. Tái hiện "hai trong một", trong thời kỳ chiến tranh (VNTTX và TTXGP là "hai trong một"). Dự án xây dựng thêm hãng thông tấn báo chí đốingoại phi chính
phủ để lại có "hai trong
một"(VNA và Vinapress) trong thời bình.
Bước
phát triển mới của TTXVN từ cuối
những năm 1978-1979 cũng thoát
thai từ sự "vượt rào",
từ "bung ra" theo tinh
thần củaNghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ 6, từsự ủng hộ chính thức (và
không chính thức) của nhiều đồng
chí A1. TTXVN đã được phép thành
lập nhiều doanh nghiệp: ảnh, in, giấy, sản xuất, sửa chữa, nâng cấp thiết bị thông tin và cả một công ty tổng hợp bao gồm tất cả các ban biên tập, các tờ báo. TTXVN cũng có lực lượng đi làm lúa ở Cà Mau, trồng màu ở Gia Lâm theo phong trào chung. Nhưng cái mà cán bộ, công nhân viên của TTXVN tập trung làm là tạo ra những nguồn thu nhập từ ảnh, từ tin, báo, kể cả báo ảnh. Họ chỉ sản xuất được giấy pơ-luya nhưng nộp giấy pơ-luya cho Ủy ban kế hoạch nhà nước để đổi lấy giấy in báo trong kế hoạch. Nếu được bật đèn xanh thì cuối những năm 1980, họ đã có cơ sở sản xuất giấy láng cao cấp.
Lấy
TTXVN làm ví dụ để chứng minh
rằng: KhiĐảng có cơ chế dù là mới
hé mở, các cơ sở đã có thể năng động vươn lên tự cứu lấy mình. Ngay trên địa bàn của một tỉnh như Long An, sau khi thực hiện bù giá vào lương, tỉnh đã làm thử việc tính giá thành đầy đủ trong một số xí nghiệp quốc doanh, đạt kết quả vững chắc, sản xuất được vững mạnh, đời sống công nhân ổn định, nhân dân lao động thực sự làm chủ sản xuất và phân phối. Nhà nước nắm được hàng, tiền, quản lý thị trường, hạn chế biến động xấu về giá cả. Nhiều địa phương cũng áp dụng cách làm đó của Long An.
Trên
tầm vĩ mô, dẫu đã có Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (1979) và một số chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhưngnhững năm tiếp
sau cho đến Đại hội V năm1982 và
những hội nghị Trung ương khóa V,
vẫn chưa tạo ra được chuyển biến cơ bản trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Lý do
khách quan rất lớn: Dự trữ ngoại
hối cạn kiệt, nguồn viện trợ không hoàn lại còn chút ít không đáng kể, nợ đến hạn không trả nổi, dân số lại tăng nhanh, hậu quả chiến tranh còn đè nặng, nhu cầu quốc phòng, an ninh không giảm, bao vây cấm vận siết chặt. Dẫu một số công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi bước đầu có đóng góp cho nền kinh tế và mức tăng lương thực, thực phẩm có vượt lên chút ít nhưng vẫn chưa đủ để tự trang trải cho mức sống thấp, nói gì đến tích lũy. Liền 6 năm, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp bị phê phán ởmọi hội nghị nhưng
vẫn chưa thể xóa bỏ ngayđược. Bởi
lẽ tập trung quan liêu, bao cấp
làcái dễ nhận biết. Nhưng căn
nguyên của nó làđiều rất khó thống nhất nhận
định, từ đó những biện pháp tháo
gỡ khó đạt tới hiệu quả, thậm chí có những biện pháp tháo gỡ thiếu chuẩn xác lại dẫn đến những tác hại khôn lường. Điển hình là việc thực hiện chính sách thay đổi về giá, lương, tiền đã làm đảo lộn sản xuất và đời sống của toàn xã hội vào nửa cuối năm 1985. Nhớ lại, tháng 6/1985, trong phát biểu của mình về phương án giá, lương, tiềntrình Hội
nghị Trung ương lần thứ 8, đồng
chíTrường Chinh đã thẳng thắn phê
bình về cách tính giá đó. Đồng
chí cho rằng toàn bộ các phép tính nêu trong phương án đều trở nên thừa, thậm chí trở nên vô nghĩa, chẳng khác nào đặt câu hỏi "Hãy tính giá mua thóc biết rằng giá đó là 10 đồng/kg". Đồng chí cho rằng định giá 10 đồng/kg thóc là do ta nặn ra ngay từ đầu chứ không phải là kết quả tính toán dựa trên thực tế. Định sẵn 10 đồng trong khi giá mua thóc bình quân ở đồng bằng Bắc bộ là 22 đến 25 đồng/kg, miền Trung 18-22 đồng, đồng bằng sông Cửu Long là 14-16 đồng. Nếu định giá 10 đồng thì tự nhiên lại hình thành chính sách hai giá.
Lẽ ra
phải tổng kết việc bù giá vào
lươngtrước khi ban hành chính sách
mới về giá, lương, tiền theo đề
nghị của đồng chí Trường Chinh,
chúng ta lại nôn nóng chủ quan thực hiện các bước đi không đồng bộ về giá, lương, tiền, đẩy cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước tới mức báo động đỏ.
Nền
kinh tế đứng bên lề của sự sụp
đổ, buộc chúng ta phải truy tìm căn nguyên của nhữngsai lầm, của
bệnh duy ý chí, buộc chúng taphải
có tư duy lý luận mới về những
bước đi đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quantrong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ.
Trước
những thử thách sống còn của đất
nước, các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước đã phải trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, với phương pháp cách mạngsáng tạo và
độc đáo của Người. Tư duy mớivề
lý luận soi sáng con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã dẫn tới tư duy kinh tế mới được phản ánh sâu sắc trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội VI của Đảng, năm 1986. Chính sáchđổi mới toàn
diện được mở đầu từ Đại hội VI mới thực sự xóa bỏ từ gốc cơ chế quan liêu, bao cấp. Nhưng cũng phải trải qua hai kỳ đại hội, với sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới và cho đến năm 1996, những đường nét cơ bản của cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành tương đối rõ nét, cùng những thành tựu đạtđược, chúng ta
mới khẳng định: đất nước về cơ bản đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đã 21
năm trôi qua kể từ Đại hội VI. Hiện nay chúng ta đang thực hiện Nghị quyết Đại hội X. Mong bạn đọc cùng chia sẻ một khái niệm "bao cấp xã hội" toàn diện và rộng rãi. Một nhà nước, nhất là nhà nước của dân, do dân và vì dân thì không thể và không bao giờ quên trách nhiệm "bao cấp xã hội" (trợ cấp xã hội). Khi trước mắt ta còn tới năm, bảy triệu người khuyết tật trên mình còn mang nặng hậu quả chiến tranh và không dưới 20 triệu nhân dânvùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn còn đang sống dưới mức nghèo khổ và bao người ốm đau, bệnh tật không đủ tiền lo chữa bệnh, đành rằng có thể từng bước xã hội hóa từng phần nhưng trách nhiệm của Nhà nước đối với những đối tượng nói trên là rất lớn.
Đỗ
Phượng
Nguyên
Ủy viên TW Đảng,
Nguyên
Tổng Giám đốc TTXVN
TIÊU CHUẨN BỘ TRƯỞNG KHÔNG DÙNG HẾT
TS
Nguyễn Văn Huy tiết lộ: tiền
lương của cảnhà ông từng không đủ để
mua hết tiêu chuẩnthực phẩm Bộ trưởng của người
cha quá cố.
Ông
Nguyễn Văn Huy - Giám đốc Bảo
tàng Dân tộc học, nói:
"Đầu
những năm 80 của thế kỷ trước,
gia đìnhtôi cũng như những gia đình
khác sống ở HàNội phải vô cùng chật vật
với cuộc sống. Bốtôi là Bộ trưởng Bộ Giáo
dục. Ông mất ngaysau khi đất nước được thống
nhất. Nhưng mẹ tôi vẫn được hưởng
chế độ cung cấp như khi bố tôi còn sống. Đại gia đình chúng tôi - mẹ tôi và bốn gia đình anh chị em chúng tôi, cùng chung sống dưới một mái nhà, góp tiền lương,ăn chung một
nồi."
Tất
cả chúng tôi đều là những cán bộ
trungcấp (tiến sỹ, giáo sư, phó
viện trưởng hoặc tương đương...)
nhưng tiền lương của chúng tôi
không đủ để mua hết tiêu chuẩn
thực phẩm vốn đã ít ỏi cấp cho một Bộ trưởng.
Lương
còn phải dành chi dùng cho nhiều
công việc học hành, ăn mặc khác của con cái. Tháng nào cũng thừa phiếu, nhưng tuyệt đối chúng tôi không tiếp tay cho "con phe", tứckhông
bán lại phiếu hay mua thực phẩm
từ cửa hàng cung cấpTôn Đản hay Hữu Nghị ra để bán lại, kiếm vài đồng chênh lệch.
Nuôi
lợn, nuôi gà, nuôi chim cút,
trồng nấm rơm, nuôi ốc bươu vàng,
gia công mũ cối... Có lần bán được con lợn 98 kg, từ già đến trẻ đều mừng. Nhưng chỉ dám để lại ít lòng còn bán tất cả. Tối tối chúng tôi ngồi rang lạc, đếm từng hạt cho vào túi nylon và ép dán lại để sáng hôm sau đưa đi bỏ mối cùng với vài khay nước đá từ tủ lạnh Saratov của gia đình cho các cửa hàng bán nước quen biết. Nhiều lần tôi khóc khi nhìn mẹ tôi vừa cặm cụi đếm từng hạt lạc vừa chuyện trò một cách vui vẻ với các chị và các cháu tôi. Chị tôi bị tai nạn ô tô khá nặng nhưng vẫn phải chung sống với đànchim cút hôi
hám mà không dám bỏ đi, vì đó là một nguồn sống quan trọng.
Cũng
vào thời gian này, hai con tôi
còn nhỏ.Vợ tôi có công ăn việc
làm ổn định nhưng vẫn phải đi
xuất khẩu lao động ở Liên Xô để "gửi sữa về cho con". Các bạn người Nga của tôi ở Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô thời đó không thể hiểu được vì sao vợ của một Phó Viện trưởng lại phải đi xuất khẩu lao động.
Ngẫm
về ý nghĩa của cuộc sống sau khi
đổimới, ông chiêm nghiệm: "Đó là
sự khác biệt một trời một
vực".
Thời
đó, họ ước mơ gì? Một chiếc xe
đạpThống nhất. Một cái quạt tai voi. Một đôi dépnhựa Tiền phong.
Một quả trứng trong bữa ăn. Một bao gạo không có mùi mốc. Một bánh xà phòng thơm Camay...
TS Nguyễn Văn Huy nhớ lại
câu chuyện giữa ông và người cựu
chiến binh già: Chiều hôm đó, ông nhận được điện thoại thông báo có người dân tự nguyện đến bảo tàng tặng hiện vật. Một lão cựu chiến binh run run cầm trên tay cuốn sổ bìa màu vàng chứa những dòngghi chép về
thời tem phiếu cách đây hai
mươinăm.
Để có
bìa cuốn sổ màu vàng kia, người
cựuchiến binh phải dành dụm từ vỏ
bọc quấn mìntrong thời chiến tranh.
Có
những cụ hơn 90 tuổi vẫn giữ cẩn
thậnchiếc xe đạp mình được phân
phối từ những năm 60 của thế kỷ
trước với đầy đủ giấy đăngký xe,
giấy mua phụ tùng xe, biển số xe và sẵn sàng hiến tặng cho Bảo tàng chỉ với điều kiện Bảo tàng cần trân trọng và giữ gìn chu đáo, lâu dài những kỷ vật này cho hậu thế.
Thu
Hà
NỖI ÁM ẢNH
Những
người Hà Nội từng trải qua thời
kỳ baocấp đều trả lời không bao
giờ muốn quay trởlại những ngày tháng ấy. Đó
là nỗi ám ảnh của hàng triệu gia
đình, nhưng cũng không ít người muốn cảm ơn thời ấy.
Những
hiện vật bằng giấy như tem phiếu,
sổ mua lương thực bên cạnh những đồ dùng, vật dụng trong gia đình như xe đạp, đài, tivi đều hiện diện ở một góc bảo tàng, tái hiện cuộc sống Hà Nội một thời đã qua. Có khi chỉ là mộtquả trứng được trưng
bày trong lồng kính hay lọ thuốc penixilin đựng đầy mỳ chính cũng đủ khiến người xem gợi nhớ nhiều điều.
TS
Nguyễn Văn Huy - Giám đốc Bảo
tàng Dântộc học, là người từng trải
qua cuộc sống củathời gian khó ấy nên thấm
thía nỗi khổ baocấp: "Chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc phảnánh những hình ảnh
tĩnh mà còn ghi lại nhữngcâu
chuyện, những ký ức được gửi gắm
thông qua cuộc phỏng vấn trò
chuyện với các nhân chứng lịch sử".
Chính
tay ông nhận từ các cán bộ hưu
trí, các cụ ông, cụ bà những hiện vật tưởng như chỉ còn lại trong quá khứ. Hai bộ phim video về Hà Nội: Một thời gian khó và Một thời để nhớ ghi lại chân thực những hình ảnh của nhiều tầng lớp xã hội khác nhau thời bao cấp. Chính nhân dân là nhân vật trong phim và các ký ức do họ tái hiện lại chuyển tải được nhiều cách nhìn về thời đã qua. Bà Lê Thị Hiền, 69 tuổi, nguyên Quầy trưởng Quầy rau quả Đồng Xuân, số 85 Hàng Buồm hồi nhớ: "Thực phẩm mua bằng tem phiếu, trong đó có nhiều ô. Nhiều lúc, rau xanh cũng cắt ô, mùa hè có quả cam, quả quýt cũng cắt ô, không ô chính thì ô phụ. Hầu hết mọi nhu yếu phẩm đều được phân phối qua hệ thống mậu dịch". Còn ông Lê Gia Thụy (65 tuổi, Trung tá công an đã nghỉ hưu, ngõ 12, phố Lương Khánh Thiện) thì bị ám ảnh bởi những công nghệ phe tem phiếu: "Phe tem phiếu là chuyện bình thường, thậm chí phe cả vé tàu xe, vé xem phim. Anh xếp hàng không mua được hay không muốn xếp hàng thì mua vé chợ đen, vé đáng 5 hào, trả 7 hào chẳng hạn. Những người phe đã móc ngoặc với bọn bán vé ở bên trong".
Với
người Hà Nội, mua gạo là nỗi nhọc
nhằn;vì vậy, những cửa hàng gạo
là hình ảnh rõ rệt nhất của Hà
Nội thời bao cấp. "Nhiều
khingười ta phải dậy từ nửa đêm
để xếp hàng.Khi bận rộn, có thể xếp
gạch đá, mũ nón hay rổ rá để giữ chỗ. Mua được gạo, về nhà vội mở ra xem, thấy gạo không có mùi mốc là tôi lâng lâng sung sướng suốt cả ngày", ông Ngô Đức Thịnh tâm sự.
Một
phần quan trọng trong cuộc trưng
bày là tái hiện không gian của
một gia đình thời bao cấp. Các cán bộ bảo tàng ghi lại hình ảnh chân thực của một căn hộ tập thể Trung Tự, chỉ với diện tích 28 m2. Đó là nơi chung sốngcủa 8 thành viên
trong gia đình. Những ngày tháng ấy, họ phải nuôi lợn, nuôi chim cút, nuôi gà và chia sẻ không gian sống của mình.
"Người
ở chung với súc vật, phân gà phân
lợn, hôi thối kinh khủng. Mình là bác sỹ biết điều đó rất mất vệ sinh nhưng vì cuộc sống nên phải chấp nhận," đó là những ám ảnh của bác Trạng, bác sỹ nghỉ hưu tại khu tập thể Trung Tự.
Tác
giả bài thơ Mùa xuân nhớ Bác,
Phạm ThịXuân Khải cũng chia sẻ suy
nghĩ: "Tuy sinh raở miền Nam nhưng những ngày
tháng bao cấp tôi cũng có điều
kiện sống tại Hà Nội. Cuộc sống khổ cực ấy là giai đoạn mà chúng ta phảichấp nhận. Khi
đổi mới dần đến, ai cũng nhậnra
rằng tuy đó là sự dại dột nhưng
nó cũng giúp ta có những bài học sâu sắc, giúp con người có nghị lực và ý chí vươn lên."
Và
rất nhiều nhân chứng của cả thời
kỳ dàibao cấp ấy cũng hiện diện
trong ngày hôm nay. Họ chỉ cười
khi nghe lại những câu thơ:
Một
yêu anh có may ô
Hai
yêu anh có cá khô ăn dần
Ba
yêu rửa mặt bằng khăn
Bốn
yêu anh có chiếc quần đùi hoa...
Những
điều kiện đơn giản thế, ở vào
thời ấytưởng như là điều không tưởng.
Thu
Hà
MÀU THỜI GIAN XÁM NGẮT
Màu thời gian không tím ngát, hương thời gian không thanh thanh như trong bài thơ xưa, mà màu thời gian xám ngắt và hương thời gian thật nặng nề. Đó là cảm giác của người xem khi bước chân vào không gian trưng bày"Cuộc
sống Hà Nội thời bao cấp",
bước lên cỗxe thời gian để trở lại
chứng kiến những câuchuyện chỉ có ở một thời.
Gạch nối thời bao cấp với thế hệ trẻ
"Thời bao cấp, tôi có đôi dép nhựa Tiền phongkhông đi vừa
nhưng cũng không dám bán sợ mang tiếng. Khi đi công tác vào Huế, tôi bán được năm nghìn rưỡi, mua được một cái vé máy bay ra Bắc. Nó giá trị như thế cơ mà!" Đólà câu chuyện
của ông Phùng Duy Mận, 66 tuổi, Trung tá công an, nghỉ hưu, ở số 123 Hàng Buồm.
Chuyện như vậy, dẫu có thật, nhưng sẽ là khótin đối với thế
hệ tuổi hai mươi bây giờ, nếu họ chỉ nghe qua lời kể, mà chưa chứng kiến cuộc sống thời bao cấp được tái hiện lại.
Chính vì thế, TS Mai Thanh Sơn, Thư ký dựán trưng bày Cuộc
sống người Hà Nội thời bao cấp cho biết: "Mong muốn gạch nối thời bao cấp với thế hệ trẻ, nên khi thực hiện đề cương trưng bày, chúng tôi không chỉ tiếp cận những thế hệ đã đi qua thời kỳ bao cấp, mà còn tiến hành nhiều cuộc trò chuyện với các bạn trẻ, dành nhiều công sức vào việc tìm hiểu các bạn trẻ muốn biết gì về một thời gian khó của những thế hệ đi trước".
Một cửa hàng lương thực cũ kỹ đã được phụcdựng ở lối vào không gian trưng bày, phía trênlà câu trích
dẫn chủ đề của một thời nhưngquen
thuộc với nhiều thời: "Mặt
buồn như mất sổ gạo"...
Chỗ của "nhân dân anh hùng"
MÀU THỜI GIAN XÁM NGẮT
Màu thời gian không tím ngát, hương thời gian không thanh thanh như trong bài thơ xưa, mà màu thời gian xám ngắt và hương thời gian thật nặng nề. Đó là cảm giác của người xem khi bước chân vào không gian trưng bày"Cuộc
sống Hà Nội thời bao cấp",
bước lên cỗxe thời gian để trở lại
chứng kiến những câuchuyện chỉ có ở một thời.
Gạch nối thời bao cấp với thế hệ trẻ
"Thời bao cấp, tôi có đôi dép nhựa Tiền phongkhông đi vừa
nhưng cũng không dám bán sợ mang tiếng. Khi đi công tác vào Huế, tôi bán được năm nghìn rưỡi, mua được một cái vé máy bay ra Bắc. Nó giá trị như thế cơ mà!" Đólà câu chuyện
của ông Phùng Duy Mận, 66 tuổi, Trung tá công an, nghỉ hưu, ở số 123 Hàng Buồm.
Chuyện như vậy, dẫu có thật, nhưng sẽ là khótin đối với thế
hệ tuổi hai mươi bây giờ, nếu họ chỉ nghe qua lời kể, mà chưa chứng kiến cuộc sống thời bao cấp được tái hiện lại.
Chính vì thế, TS Mai Thanh Sơn, Thư ký dựán trưng bày Cuộc
sống người Hà Nội thời bao cấp cho biết: "Mong muốn gạch nối thời bao cấp với thế hệ trẻ, nên khi thực hiện đề cương trưng bày, chúng tôi không chỉ tiếp cận những thế hệ đã đi qua thời kỳ bao cấp, mà còn tiến hành nhiều cuộc trò chuyện với các bạn trẻ, dành nhiều công sức vào việc tìm hiểu các bạn trẻ muốn biết gì về một thời gian khó của những thế hệ đi trước".
Một cửa hàng lương thực cũ kỹ đã được phụcdựng ở lối vào không gian trưng bày, phía trênlà câu trích
dẫn chủ đề của một thời nhưngquen
thuộc với nhiều thời: "Mặt
buồn như mất sổ gạo"...
Chỗ của "nhân dân anh hùng"
Đứng trước cửa hàng lương thực, hình dung đến cảnh "Mua gạo và thực phẩm là hai thứ phải chen lấn, xô đẩy, xếp hàng dài nhất. Hầu như ở cửa hang nào, ngày nào cũng có chuyện cãi nhau, con người với nhau dườngnhư không còn
tình nghĩa gì hết. Dòng người xếp hàng cứ chen từ từ thế này, nhưng chỉ cần một người chen ngang là xô đẩy bẹp cả ruột, rất sợ!" (Bà Lê Thị Thắng, 64 tuổi, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội, số 11, ngõ 31, phố Vinh Phúc). Cứ ngỡ rằng thời bao cấp mọi khó khăn được chia đều trong xã hội nhưng khi nghiền ngẫm cơ chế phân phối thời bao cấp với cửa hàng lươngthực, hệ thống
tem phiếu và quầy hàng tết ởcuộc
trưng bày, mới hay rằng nhân dân
có tiêuchuẩn riêng và ở mức thấp
nhất, tiêu chuẩn của cán bộ, công
nhân, viên chức tùy thuộc vào vị trí công tác và đặc thù nghề nghiệp của mỗi người.
Cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản, trung cấp - tại phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên; còn cán bộ, công nhân, viên chức bình thường và nhân dân mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố.
Vậy nên, sau ngày giải phóng đất nước, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng có một thời gian sống và làm việc ở Hà Nội, mới kể lại rằng đãcó không biết bao
nhiêu "ca dao" chung
quanh cửa hàng Tôn Đản, cửa hàng Quốc tế, chợ Đồng Xuân... cái thì của "vua quan", cái thì của "trung gian nịnh thần", cái thì của "thương nhân" và cuối cùng mới đến cái của "nhân dân anh hùng"...
Lo lợn ốm hơn chồng ốm
"Muốn biết được không
gian sống của 'nhân dân anh hùng' thời đó, cứ so với những cán bộ trung cao cấp, là những người có mức đãi
MÀU THỜI GIAN XÁM NGẮT
Màu
thời gian không tím ngát, hương
thời gian không thanh thanh như
trong bài thơ xưa, mà màu thời gian xám ngắt và hương thời gian thật nặng nề. Đó là cảm giác của người xem khi bước chân vào không gian trưng bày"Cuộc
sống Hà Nội thời bao cấp",
bước lên cỗxe thời gian để trở lại
chứng kiến những câuchuyện chỉ có ở một thời.
Gạch
nối thời bao cấp với thế hệ trẻ
"Thời
bao cấp, tôi có đôi dép nhựa Tiền
phongkhông đi vừa nhưng cũng không
dám bán sợ mang tiếng. Khi đi
công tác vào Huế, tôi bán được năm nghìn rưỡi, mua được một cái vé máy bay ra Bắc. Nó giá trị như thế cơ mà!" Đólà câu chuyện
của ông Phùng Duy Mận, 66 tuổi, Trung tá công an, nghỉ hưu, ở số 123 Hàng Buồm.
Chuyện
như vậy, dẫu có thật, nhưng sẽ là
khótin đối với thế hệ tuổi hai
mươi bây giờ, nếu họ chỉ nghe qua lời kể, mà chưa chứng kiến cuộc sống thời bao cấp được tái hiện lại.
Chính
vì thế, TS Mai Thanh Sơn, Thư ký
dựán trưng bày Cuộc sống người Hà
Nội thời bao cấp cho biết:
"Mong muốn gạch nối thời bao
cấp với thế hệ trẻ, nên khi thực hiện đề cương trưng bày, chúng tôi không chỉ tiếp cận những thế hệ đã đi qua thời kỳ bao cấp, mà còn tiến hành nhiều cuộc trò chuyện với các bạn trẻ, dành nhiều công sức vào việc tìm hiểu các bạn trẻ muốn biết gì về một thời gian khó của những thế hệ đi trước".
Một
cửa hàng lương thực cũ kỹ đã được
phụcdựng ở lối vào không gian
trưng bày, phía trênlà câu trích dẫn chủ đề
của một thời nhưngquen thuộc với nhiều thời: "Mặt
buồn như mất sổ gạo"...
Chỗ
của "nhân dân anh hùng"
Đứng
trước cửa hàng lương thực, hình
dung đến cảnh "Mua gạo và
thực phẩm là hai thứ phải chen lấn, xô đẩy, xếp hàng dài nhất. Hầu như ở cửa hang nào, ngày nào cũng có chuyện cãi nhau, con người với nhau dườngnhư không còn
tình nghĩa gì hết. Dòng người xếp hàng cứ chen từ từ thế này, nhưng chỉ cần một người chen ngang là xô đẩy bẹp cả ruột, rất sợ!" (Bà Lê Thị Thắng, 64 tuổi, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội, số 11, ngõ 31, phố Vinh Phúc). Cứ ngỡ rằng thời bao cấp mọi khó khăn được chia đều trong xã hội nhưng khi nghiền ngẫm cơ chế phân phối thời bao cấp với cửa hàng lươngthực, hệ thống
tem phiếu và quầy hàng tết ởcuộc
trưng bày, mới hay rằng nhân dân
có tiêuchuẩn riêng và ở mức thấp
nhất, tiêu chuẩn của cán bộ, công
nhân, viên chức tùy thuộc vào vị trí công tác và đặc thù nghề nghiệp của mỗi người.
Cán
bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ
riêng tại phố Tôn Đản, trung cấp - tại phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên; còn cán bộ, công nhân, viên chức bình thường và nhân dân mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố.
Vậy
nên, sau ngày giải phóng đất
nước, nhà nghiên cứu Trần Bạch
Đằng có một thời gian sống và làm việc ở Hà Nội, mới kể lại rằng đãcó không biết bao
nhiêu "ca dao" chung
quanh cửa hàng Tôn Đản, cửa hàng Quốc tế, chợ Đồng Xuân... cái thì của "vua quan", cái thì của "trung gian nịnh thần", cái thì của "thương nhân" và cuối cùng mới đến cái của "nhân dân anh hùng"...
Lo
lợn ốm hơn chồng ốm
"Muốn
biết được không gian sống của
'nhân dân anh hùng' thời đó, cứ
so với những cán bộ trung cao cấp, là những người có mức đãi ngộ cao hơn thì sẽ rõ". TS Sơn đã khuyên tôi như vậy.
Trong
cuộc trưng bày, có tái hiện không
gian sống của gia đình ông Phạm Trạng (1926), bác sĩ phụ trách chăm sóc sức khỏe cho các cán bộ cấp cao của Đảng và bà Đặng Thị Kim Sơn (1931), bác sĩ ở Bệnh viện Việt Xô. Cả hai ông bà đều được hưởng chế độ bìa C dành cho cán bộ trung cấp. Lúc bấy giờ, tiểu khu Trung Tự là thế hệ chung cư thứ hai của thủ đô Hà Nội được xây dựng khoảng những năm 1970 (sau khu Nguyễn Công Trứ và khu Kim Liên) và có nhiều cải tiến so với trước.
Mỗi
căn hộ có 2 phòng với diện tích
được tính toán để phù hợp với một gia đình theo chế độ phân phối 4-5 m2/người, gồm 2 loại: 24m2 và 28m2 cùng khu phụ (bếp, nhà xí, nhà tắm) tạo thành một căn hộ "khép kín". Ngoài ra,
xungquanh tiểu khu còn có các
công trình phục vụcông cộng như: trường học (nhà
trẻ, trường mẫu giáo, trường cấp
I, II), cửa hang bách hóa, cửa
hàng thực phẩm... rất thuận tiện cho các nhu cầu của cuộc sống. Vì vậy, một căn hộ chung cư lắp ghép khi đó vừa là biểu tượng của phương thức sống mới ở đô thị,vừa là biểu tượng
của sự sang trọng. Sở hữumột căn
hộ là niềm mơ ước của các cán bộ, viên chức một thời.
Năm
1975, gia đình ông Trạng có 7
nhân khẩu(mẹ bà Sơn, vợ chồng ông
bá và 4 người con đang là sinh
viên) được Nhà nước cấp chocăn hộ
chung cư 28m2 này.
Mặc
dù không phải đối mặt nhiều với
những khó khăn về vật chất, nhưng ông bà Trạng - Sơn cũng phải tìm mọi cách để cải thiện cuộc sống bằng cách chăn nuôi lợn, gà, chim cút... trong khu công trình phụ như nhiều gia đình công chức bình thường khác.
Đến
năm 1982, hai người con của ông
bà lậpgia đình và cùng ở trong căn
hộ này, và những bi hài kịch của 4 thế hệ cộng sinh với các vật nuôi trong một không gian chật hẹp bắt đầu.
"Có
một buổi sáng đi làm, đóng cửa
chuồng lợn không kỹ, lợn vào
buồng ngủ phá phách, ỉa đái hết cả ra nhà. Bực thì có bực nhưng sợnhất "Thủ trưởng"
lợn ốm. Chồng ốm, con ốm còn cho mấy viên thuốc chứ "Thủ trưởng" đã ốm là thiệt hại về kinh tế, là dở khóc dở cười,"bà Sơn, nay
đã 75 tuổi, kể lại.
Khi
được hỏi về kỷ niệm đáng nhớ thời
baocấp, bà Sơn không ngần ngại
nói: "Con lợn đầu tiên xuất
chuồng được 78 cân. Lúc đấy, mình
sướng lắm, chưa khi nào trong đời lại tưởng tượng có một số tiền lớn như thế".
"Nghẹt
thở"
Rời
không gian sống của gia đình ông
Trạng, tôi lại đứng ngẩn ngơ
trước những hiện vật về quản lý xã hội của một thời.
Này
đây là tấm "giấy ủy
quyền" từ năm 1978đã ố vàng của anh Trần
Thắng, công tác ởĐoàn 871, Tổng cục Chính trị,
ủy quyền cho vợ là chị Nguyễn Thị
Sinh được dùng cái đài National của anh khi anh đi công tác xa nhà, và đề nghị Ban đại diện tiểu khu nơi anh chịcư trú chứng nhận
anh chị là vợ chồng, để căn cứ vào đó Công ty Bách hóa thành phố bán pin cho vợ anh sử dụng đài.
Đây
nữa là chiếc xe đạp Thống nhất
cũ, lốp đã mòn trơ mà ông Lê Gia Thụy (65 tuổi, nghỉ hưu, số 8, ngách 12/21, ngõ 12, phố LươngKhánh Thiện)
từng phải có thành tích một năm
chiến sĩ thi đua mới được mua. Sau khi mua xe, ông Thụy phải mang xe, hóa đơn, hộ khẩu, chứng minh thư đến Công an khu phố để đăng ký, đợi 1-2 ngày họ cấp giấy chứng nhận sở hữu và biển số xe. Lúc đó ông hay phải làmthêm giờ nên cơ
quan còn yêu cầu phải đăngký số
khung xe trên giấy chứng nhận làm
ngoài giờ để họ dễ quản lý...
Bên
cạnh những hiện vật về cách quản
lý xãhội, còn có những hiện vật
về quản lý văn hóa. Nhà lý luận
phê bình điện ảnh Vũ QuangChính,
73 tuổi, nhớ lại: "Quản lý
văn hóa làquản lý tư tưởng, quản lý
công tác sáng tạocủa nghệ sỹ và đời sống
tinh thần của côngchúng. Sự máy móc, chủ quan
và có phần ấutrĩ của ngày đó đã khiến
cho nhiều tác phẩmhay bị coi là có vấn
đề". Đứng trước chiếc máy
chiếu phim cũ kỹ, những áp phích
của các bộ phim, vở diễn "ăn khách" nhưng bị cho là "có vấn đề"... người xem như cảm giác được ynguyên cái không
khí u uẩn đến "nghẹt
thở" của một thời.
Khi
những hạt bo bo tràn vào thay thế
từng hạt gạo mua sổ trong gia đình, người ta không chỉ đói ăn mà còn "đói" cả tinh thần.
Theo
ông Vũ Quang Chính: "Lúc bấy
giờ, các bộ phim Khoảnh khắc yên
lặng của chiến tranh của đạo diễn Vũ Phạm Từ và Hà Nội trong mắt ai của đạo diễn Trần Văn Thủy nằm trong số các tác phẩm bị coi là có vấn đề. Đó thực ra là những bộ phim hay, khi đưa ra chiếu thử được khán giả đánh giá tốt. Nhưng rồi có một ý kiến miệng của ai đó là có vấn đề về tư tưởng, lậptức bị dẹp qua một bên. Chỉ sau khi bị cắt cúp chán rồi khán giả mới được xem. Thật tiếc cho đông đảo công chúng đã không được thưởngthức những
rung cảm thật nhất của người nghệ
sỹ".
Chia
sẻ ký ức với cuộc trưng bày, ông
VũPhạm Từ, 80 tuổi, đạo diễn phim
Khoảnh khắc yên lặng của chiến
tranh nói: "Bộ phim này từng
được bình là phim hay nhất của Xí nghiệp phim truyện Việt Nam năm 1983 nhưngxung quanh nó
cũng có không ít lời xì xào.
Chúng
tôi đã phải cắt xén, chỉnh sửa
mội sốđoạn rồi mới được đưa ra
công chiếu. Cái kếtcủa bộ phim sau này khác
xa kịch bản banđầu. Tôi rất tiếc".
Nhà
thơ, họa sỹ, NSƯT Lê Huy Quang
cho biết thêm về một cách quản lý văn hóa thời bao cấp: "Sự suy diễn trong công tác quản lý đôi khi máy móc đến buồn cười. Không may trong vở diễn có một nhân vật phản diện nào đó trùng tên với các vị lãnh đạo ở địa phương cũng có thể bị đình chỉ".
Cuộc
đấu tranh âm thầm
Nhà thơ
Nguyễn Thụy Kha đã dành cho cuộc
trưng bày một hồi ức đặc biệt có tên "Nhìn lạivăn nghệ
thời bao cấp". Trong đó ông
đã kểvề những số phận văn chương
của một thời, đó là những người
cầm bút không làm văn chương để minh họa mà để nói lên sự thật, coi toàn bộ sự thật như là một định hướng sáng tác ngầm cho mình.
Nhà
thơ Thanh Thảo sau trường ca
Những người đi tới biển đã chỉ ra những kẻ chiêu hồi xấu xa trong hàng ngũ lãnh đạo các cấp, thì liên tục bị cơ quan văn nghệ tỉnh Nghĩa Bình "để ý" bởi những sáng tác mới theo định hướng trên.
Nhà
văn Thái Bá Lợi sau Hai người trở
lạitrung đoàn cũng trăn trở vì
"Bán đảo" không nhà xuất
bản nào dám in.
Tới
khi nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo in
bài thơdài Tản mạn thời tôi sống
ở báo Văn Nghệ thì đã bị
"rầy rà" to. Đang theo
học Đại học Nguyễn Du, khóa I, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã bị lãnh đạo buộc thôi học...
Khi
nhạc sĩ Trần Tiến đưa ra một
chương trình ca nhạc mang tên
"Đối thoại 87" ở thành
phố Hồ Chí Minh để ủng hộ đổi mới thì ngaylập tức sau đêm
diễn, nhạc sĩ phải "chuồn"
raHà Nội kêu cứu vì một nỗi ám
ảnh nào đó.
Cùng
các đồng chí lãnh đạo cấp tiến,
Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã vào cuộc có hiệu quả. Bởi thế, nhạc sĩ Trần Tiến mới được giải oan. Tuy nhiên, không phải tất cả những "nghi án" của các văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đều được "giải" ngay.
Bài
thơ Mùa xuân nhớ Bác của Phạm Thị
Xuân Khải đăng trên báo Tiền phong đầu năm 1986, cũng cho thế hệ ngày nay biết rằng, có những người cầm bút đã phải trả giá cả cuộc đời mình cho những tác phẩm dám nói lên sự thật.
Phải
sống
Bao
cấp là một thời gian khó với cơ
chế quản lý kinh tế - xã hội không thích hợp gây ra sự thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần; sức sản xuất bị kìm hãm, xã hội trì trệ; con người bị hạn chế trong sáng tạo và không có sự lựa chọn trong thụ hưởng.
Sống
trong thời bao cấp, người ta luôn
biết cách xoay xở và tìm đủ mọi cách phù hợp vớiđiều kiện, hoàn
cảnh của mình cốt để làm saotăng
thêm thu nhập, cải thiện đời
sống.
Trong
đó, phổ biến là việc tăng gia sản
xuất,chăn nuôi lợn, gà, trồng rau,
làm thêm các dịchvụ và nghề thủ công. Đặc
biệt, việc nuôi lợnkhông chỉ diễn ra ở khu
vực các hộ gia đình có điều kiện
về không gian mà đối với cả nhiều hộ sinh sống trên những căn hộ tập thể cao tầng.
Đã có
nhiều biện pháp khắc phục tình
trạng thấp kém về điều kiện sinh hoạt, thiếu thốn về hàng hóa tiêu dùng, và được tái hiện phần nào trong cuộc trưng bày, như: lộn cổ áo sơ mi, píc-kê, đổi ống quần trước ra sau, lộn xích xe đạp, quấn lốp xe mòn bằng dây cao su, chế tạo ra máy phát điện bằng rô-to quay tay, máy tăng điện áp v.v...
"Cái
khó ló cái khôn" - Cuộc sống
của ngườiHà Nội lúc đó, thật đúng
với câu thành ngữnày. Anh Nguyễn Quốc Hùng, 44
tuổi, kinh doanh, ngõ 286, Đội
Cấn, kể lại:
"Từ
năm 1974, khi bố tôi về hưu và
học được công thức chế mực, gia đình tôi bắt đầu làm nghề bơm mực bút bi. Một ngày trung bình gia đình tôi bơm được 30 chiếc các loại. Bộ dùi để tách bi khỏi ngòi là quý giá nhất. Vì tôi đã phải dành rất nhiều thời gian để chuốt từ lò xo hoặctanh xe đạp. Đối
với loại bút ngòi cong củaTrung
Quốc, tôi dùng dây phanh xe đạp
hoặc dây đàn ghi ta loại nhỏ nhất."
Chị
Phan Thị Kim Thanh, 43 tuổi, thợ
may, số492, phố Hoàng Hoa Thám, cho
biết: "Trong suốt những năm
1980, nhờ quen biết, mẹ tôi mua
được nhiều vải vụn phân phối. Cả gia đình tôi đã chắp ghép các mảnh vải vụn đó, may gia công thành vỏ chăn, gối, thậm chí cả quần áo lót, bán. Vì có nghề may nên thỉnh thoảng tôi cũng giúp bà con hàng xóm lộn cổ áo sơ mi hay quay ống quần".
Theo
bà Lê Thị Mai, 61 tuổi, giáo
viên, số 20, ngõ 189/2, Giảng Võ, thì "may có nghề luyệnkim - đan,
móc len - đã cứu vớt đời sống chị em giáo viên chúng tôi".
Danh
sách hiện vật, phần ước mơ của
người dân thủ đô thời bao cấp thật bình dị, đó là:chiếc ti vi vỏ đỏ; Quạt con cóc/quạt tai voi; Xe đạp pơ-giô; Xà phòng Camay; áo lông Đức; Lọpênixilin đựng
mì chính; Đôi dép nhựa Tiền
phong; Quả trứng; Búp bê Liên Xô.
Được
ăn một bát cơm ngon, gạo không bị
mốc; được đi một cái xe đạp Trung Quốc; được sở hữu một chiếc quạt nhỏ làm dịu bớt sự tù túng và nóng nực; được tắm bằng xà phòng thơm... là những điều luôn luẩn quẩn trong tâm trí của mỗi người. Ngay cả nhữngniềm vui đơn
giản đó cũng nằm ngoài tầm với.
"Tôi
tiết kiệm mãi mới mua được cái xe
đạppơ-giô. Một hôm, thằng cháu nội
lấy xe để tập.Nó bị ngã xước hết cả
sơn. Tiếc xe quá, cả ngày không
ăn được cơm. Hôm sau, đóng xevào
hộp cất đi luôn nên bây giờ xe
vẫn còn mới." (Bà Nguyễn Thị Bạn, 74 tuổi, cán bộ xã Quảng An, nghỉ hưu, 233 Âu Cơ)
"Áo
lông Đức hồi đấy giá trị mấy chỉ
vàng. Vợ tôi đi Đức, mang được cái áo về, các đồng nghiệp cứ đòi mua lại nhưng tôi không bán.Một phần vì đó
là tài sản có giá trị; một phần vì là kỷ niệm của gia đình; và đó là niềm hãnh diện của đàn ông thời đó." (Ông Nguyễn Thành Dưng, 65 tuổi, đại tá quân đội, nghỉ hưu, số 1 ngách 291/42/26 Lạc Long Quân).
Phải
gắng sống và sống đẹp - đó là mục tiêu của cả một thế hệ người Việt Nam trong đêm trước đổi mới. Bao cấp là thời kỳ mà nghị lực và trí tuệ của hàng triệu người bị kìm nén, chỉ chờ được giải phóng. Chính vì thế, khi chính sách Đổi mới - mở cửa được đề ra, năng lực ấy đã bùng phát tạo nên bước phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội.
Ông
Nguyễn Đắc Như, 63 tuổi, nguyên
Trưởng phòng Kế hoạch, Sở Thương
nghiệp Hà Nội, cho biết:
"Sau khi có chủ trương xóa
bao cấp từ trên, trong một số cuộc họp bàn vớisự tham gia của đại diện các sở dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo thành phố, cũng có những ý kiến băn khoăn, lo lắng vì sợ rằng xóa bao cấp có thể dẫn tới tình trạng đầu cơ, tích trữ, làm lũng đoạn thị trường của những người nhiều tiền. Nhưng, thành công là ở chỗ, chúng taxóa từng bước, từng mặt hàng, dần dần nới lỏng quản lý sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho lưu thông thị trường và thị trường đã tự điều chỉnh được. Chính điều đó đã chứng minh, giải tỏa được một số băn khoăn, lo lắng ban đầu".
Võ
Văn Thành
BA MƯƠI MỐT NĂM GẮN BÓ CÙNG MÁY CHIẾU PHIM
Điện
ảnh từ "mặc kệ" chuyển
qua "vì khán giả", từ
sự trễ nải lười biếng chuyển qua
hăm hở tìm kiếm phim mới. Tôi tìm thấy điều ấy quachuyện kể của
người thợ chiếu phim lâu năm -anh
Nguyễn Cao Sang.
...Nếu
tính trong số những người thợ
chiếu phim hiện nay vẫn còn đang
làm việc, anh Nguyễn Cao Sang thuộc loại thâm niên nhấtSài Gòn!
Ngày
ấy - năm 1975, có người anh làm
thợmáy chiếu tại rạp Capitol (rạp
Thăng Long hiện nay) kéo anh Sang
về phòng máy phụ việc. Công việc lặng thầm, ngồi khuất trongphòng tối,
chỉ âm thanh "sè sè"
của máy chiếulàm bạn, chăm sóc kỹ thuật
sao cho buổi thưởng thức phim của
khán giả được suôn sẻ. Suốt 31 năm anh gắn bó với nghề, vô hình trung làm "nhân chứng" cho chuỗi dài điện ảnh thăng trầm, ngẫm ra có những điều không thể nào quên.
Thời
bao cấp, trong ký ức anh Sang, là
thờicủa phòng máy chiếu nóng hầm
hập đổ mồ hôinhư tắm, thời của chiếc máy
cổ lỗ sĩ xài than (với tác dụng
hệt như điện hồ quang, nếu đặt than ở hai cực xa quá thì... máy chiếu tắt cái phụt, nếu đặt than gần quá thì hình ảnh chiếu trên phim bị vàng khè, hệt như màu cháy khét) không chỉ khiến người thợ máy cứ như "lên cơn sốt", mà còn bị độc hại bởi khói than.
Khoảng
năm 1985 mới nhập máy chiếu xenon
Liên Xô thay cho máy xài than, đỡ hơn nhưng cũng chưa khấm khá gì, cứ phải đặt hai máy chiếu để thay phim, lỡ tay là phim bị đứt đoạn, khán giả ngồi xem bỗng dưng chứng kiến những vết dài loằng ngoằng trên màn ảnh rồi đen ngòm, sau đó lại loằng ngoằng những vệtdài. Lý do
là phần cuối của cuộn phim trước và phần đầu của cuộn phim sau chưa được lắpđồng bộ để chiếu
"chồng lấn" xóa đi
những đoạn thừa (không hình).
Ngày ấy xem phim là vậy đấy, nhưng vẫn được gọi là "phục vụ" khán giả thành công.
Thời
bao cấp, trong ký ức anh Sang,
còn là"nỗi kinh hoàng" khi phải chiếu
những bộ phim quá cũ, phim bị
giòn, răng phim bị vỡ. Chỉ chiếu một cuộn (một bộ phim có xấp xỉ 9-10 cuộn) mà đứt đến 4-5 lần, phim cứ phải ngừng chiếu, gián đoạn liên tục. Phim Việt Nam thì hình ảnh nhòe nhoẹt, âm thanh rền rĩ khó nghe.
Phim
Liên Xô, phim Đông Âu phần lớn
cũng làphim cũ, sản xuất từ nhiều
năm trước rồi mớiđưa qua cho khán giả xứ
ta xem. Khán giả làm gì có quyền
được yêu cầu phim mới
"nónghổi", có phim để xem tàm
tạm là may lắm rồi.
"Hồi
đó cực lắm anh ơi, nhiều người đã
phảibỏ nghề." Thời bao cấp -
anh Sang cho biết,thợ máy chiếu hưởng đồng lương
cố định, cũng như bao anh em nhân
viên khác trong rạp, bất kể suất chiếu đông hay vắng người xem. Sao anh không bỏ nghề? "Tại tui có lòng ham phim mới theo nghề nổi. Đứng máy chiếu,qua ô nhỏ của
phòng chiếu, xem phim hiện lênmàn
ảnh to đùng, tui... khoái!"
- anh Sang giảithích.
Anh
Sang luân chuyển qua nhiều rạp,
đến tháng 3/2003 về đứng máy tại
rạp Đống Đa cho đến nay. Nơi đây có máy chiếu Strong (Mỹ) hiện đại. Các cuộn phim (8-10 cuộn) được đổ vào trong một "bành" rất tiện dụng, do đó một bộ phim được chiếu một lèo cho đến hết, không bị đứt đoạn chờ nối phim như trước, không còn "sự cố" chiếu hết một cuộn thì cuộn kế tiếp... chưa kịp đưa từ rạp khác về (như lúc chiếu máy Xenon hoặc máy than).
"Phòng
đặt máy chiếu rộng rãi, thoáng
mát, lương bổng thay đổi theo
tháng. Làm việc bây giờ thật
sướng" - anh Sang cho biết. Tôi bật cười trước cái cách anh bộc lộ sự hào hứng, ở độ tuổi 51 mà vẫn có gì đó rất tươi trẻ. Lương khoảng 3 triệu, với anh Sang vậy đã là "thật sướng", Tết vừa rồi lương còn cao hơn nữa vì tùy thuộc số lượng người xem.
Rạp
Đống Đa ngoài hai khán phòng cố
định, đã "nắm bắt thời
cơ" tận dụng mặt bằng nhà
hàng để biến thành khán phòng mới. Trong sự năng động chung đó, có phần đóng góp của người thợ máy chiếu Nguyễn Cao Sang. Anhlao vào
cuộc, tăng năng suất đứng máy.
Nói với tôi, anh Sang thổ lộ: "Tui coi rạp chiếu phim này như nhà của mình".
Nguyễn
Chương
KÝ ỨC THỜI "SỔ GẠO"
Hòa
bình rồi, tiếng reo vui chưa được
bao lâuthì người dân hai miền Nam
- Bắc phải đối mặt với biết bao
gian nan. Cả nước chạy gạo ăn từng bữa. Nhiều người vẫn còn giữ những tờtem phiếu, sổ gạo
ngả màu ố vàng thời gian,gợi cho
họ cả một quãng đời mà người
taquen gọi là thời bao cấp.
Sài
Gòn những năm 1980
Sống
giữa Sài Gòn thời ấy, ông giáo
Nguyễn Văn Hàng thèm bát cơm
trắng và đủ thứ: cây viết trơn tru, tờ giấy trắng, chiếc lốp xe chưa vá, chiếc xích chưa lộn... Hơn 20 năm rồi ông Hàng vẫn còn nhớ cái hôm chiếc xe đạp cà tàng bị thủng lốp.
Ông
mượn cây kim to và sợi cước dài
vật lộn với chiếc lốp suốt đêm. Sáng hôm sau, ôngđến lớp mà không
cầm nổi viên phấn nhưng không biết phải giải thích thế nào với học sinh. Mấy ngón tay nứt toét, sưng lên. Thế mà ông vẫn ngày hai buổi đến lớp. Năm ấy, vợ ông sinh con đầu lòng. Tiêu chuẩn gạo hằng tháng được 13kg/khẩu, nhưng thường chỉ lĩnh được3kg, còn lại
quy đổi lúc bo bo, lúc bột mì, lúc mì sợi vụn, lúc khoai lang...
Cả
tiêu chuẩn gạo của ông giáo Hàng
cũng ưutiên dành cho vợ, mấy tháng
trời ông quên mấttrên đời còn có món cơm
trắng. Còn thịt chỉ là thứ mơ
ước. Một hôm hội đồng giáo viên bỗng nảy ý định biến mơ ước thành hiện thực: nuôi một con heo.
Nhưng
bằng cách nào? Cả tập thể nhảy
vào bàn bạc và quyết định tập thể cùng nuôi. Con heo được nhốt vào khoảng trống giữa hai dãy phòng học. Ai có thức ăn thừa mang đến, nhưng khổ nỗi người không đủ ăn thì làm gì có thừa cho heo.
Nhưng
rồi vẫn có: nước vo gạo, ruột cá,
gốcrau... Nhưng nước vo gạo thì
trong veo, gốc rau thì cụt ngủn.
Con heo con thèm cám như trẻ con thèm sữa.
Một
học kỳ trôi qua, con heo chẳng
lớn đượcbao nhiêu. Nhưng đến ngày đến
tháng hội đồng giáo viên cũng
đành xẻ thịt liên hoan. Thế mà
buổi liên hoan vẫn linh đình vì có được mấy miếng thịt.
Thầy
Hàng bảo nửa năm rồi ông chưa
ngửi được mùi thịt. Nuôi heo cực quá, trường thầy Hàng chuyển hướng "đầu tư" nuôi chó. Ông hiệu trưởng "lý luận": không có gì cho chó ăn thì nó vẫn có thể tự kiếm lấy cái ăn.
Tưởng
nói đùa hóa ra ông hiệu trưởng đi
xinchó con thật rồi gửi nuôi ở
nhà bà cụ trong trường. Thầy cô
giáo có canh thừa, cá cặn lại gom góp mang đến cho con chó của tập thể.
Cuộc
sống cứ thế trôi. Cây vẫn đơm hoa
kếttrái. Thầy cô cưới nhau trong
cảnh mượn của người này chiếc áo
trắng, của người kia chiếc cà
vạt. Chén, đũa, ly, đĩa... tập hợp của nhau lại bày cho đủ mâm.
Nói
thế cho sang chứ khẩu phần mỗi
người ăncỗ cưới chỉ có một miếng
chả giò, một miếngdưa hấu và một quả chôm
chôm. Thầy Hàng ra sân trường
chặt một cành sứ vào trang trí,
quét dọn sơ sơ để biến thành căn phòng... hạnh phúc.
Nhưng
chiếc giường quá ọp ẹp, chân gãy
tự bao giờ. Một ông thầy bạn thân thầy Hàng vốn khéo tay được tín nhiệm giao chăm chút lại "tổ ấm" cho đôi uyên ương. Chiếc giường đến giờ chót đủ bốn chân. Chú rể cười: xem như xong cái căn bản nhất...
Không
chỉ giới công chức, nhà giáo mà
giới kinh doanh cũng khốn khó.
Khi cuộc cải tạo công thương bắt đầu thì cuộc sống của ông Trần Văn Thành (nay trú tại 26C, ấp 4, xã Tân Kiên, Bình Chánh, TP.HCM), từng là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung, nhà cửa đàng hoàng,thường ăn
cơm tiệm, cuối tuần hay đi mua
sắm... cũng bắt đầu đổi khác.
Sau
bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy
nhường nhau bát cơm độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái xe của ông quá cũnát, không an toàn
khi bắt buộc phải chở quátải trên
những đoạn đường trường, bởi chắc
chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng lậu để bù vào tiền xăng, dầu, bơm vá...
Tiền
lương của ông mỗi tháng không đủ
chi tiêu cho một tuần sinh hoạt gia đình. Vì sao vậy? Ông kể: nối nghiệp gia đình theo nghề lái xe, đến năm 1973 ông Thành sắm được một chiếc xe ca trị giá 3,5 triệu đồng, tương đương hơn 100 lượng vàng thời đó.
Đây
là một tài sản lớn, nghề khác
không dễ có được. Ông Thành được xem là nhà tư sản"nhỏ" và
ông đã có thể mơ đến chuyện
thànhlập một hãng xe. Lúc ấy dân
tài xế nói riêng, những nhà buôn,
dịch vụ nói chung làm ănkhấm khá.
Bến
xe miền Tây khi đó có một số hãng xe lớn sở hữu hàng chục phương tiện đắt tiền như Hiệp Thành, Phi Long, Á Đông... không ngừng phát triển.
Nhưng
sự phát triển đã dừng lại bởi
"sáng kiến" công ty
công tư hợp doanh. Tất cả mọi
chiếc xe lớn nhỏ dù của ai cũng đều phải đemgóp vào công ty.
Giá xe do Nhà nước định mà trên thực tế thì nó chỉ tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dùcó được trả hết thì khoản tiền đó cũng khôngđủ mua chiếc
xích lô.
Bán
xe xong, ai biết lái xe thì được
nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ănlương theo quy
định. Ai không biết lái xe thì coi như mất xe.
Có
những ông chủ hãng xe 30- 40
chiếc, caiquản hàng trăm lái, phụ xe
nay muốn quá giang 30-40km nếu
không mua được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin mãi mới được làm phụ xe, còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi khi trái ý.
Hà
Nội sau niềm hân hoan
Bà
Đinh Thị Vận - 63 tuổi, phường
Tương Mai, Hai Bà Trưng (Hà Nội), là công nhân Nhà máy Dệt 8-3 - vẫn còn nhớ: sau giải phóng miền Nam, gia đình, cơ quan, khu phố của bà cũng như nơi nơi đều ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô bờ.
Nhưng
sau đấy một vài năm thì giá cả
tăngvùn vụt, cơ quan của bà không
việc làm. Nồicơm của gia đình bà nấu
gạo "mậu dịch" (gạotừ kho các cửa hàng lương thực của Nhà nước) hôi đủ các thứ mùi: gián, mốc và có khilà xăng dầu..., có
khi lẫn những hạt sạn to như hạt ngô.
Sau
đó gạo mậu dịch cũng thiếu và
ngày mộtlẫn đầy những sắn, ngô, khoai...
Hường, con gái bà, từng nói lên
mơ ước trong bài văn nộp cô giáo: "Ngày tết em mong sao có một nồi cơm trắng và một bát thịt kho...". Một ước mơ không có trong tâm thức những người trẻ bây giờ, nhưng thời đó là một ước mơ.
Mỗi
tháng, theo chỉ tiêu, cả nhà bà
Vận đượcnhận 2kg thịt. Gọi là thịt
nhưng toàn mỡ vụn,bạc nhạc và lại chia làm
hai lần. Lần nào cơ quan bà cũng
chỉ đủ thịt chia cho 2/3 công nhân.
Mỗi
tổ phải tự bắt thăm. Ai trúng thì
lĩnh trước, không trúng thì chờ đợt sau. Các chị tiếpphẩm (bộ phận
chia thực phẩm) cân hụt mất một lạng, có biết cũng phải cố mà cười. Ngày lĩnh thực phẩm cả nhà cứ phấp phỏng, chờ đợi và hít khói bếp.
Rán
cho cùng kiệt mỡ, cẩn thận đổ vào
liễn rồi bà mới cho muối, mắm mặn chát vào kho với mấy miếng thịt để ăn dè. Cả khu tập thể công nhân nhà máy vui như hội. Khu phố lên đèn, ở những gia đình không được lĩnh, có tiếng chì chiết của ông chồng nào đó vì vợ không bốc trúng thăm...
Rất
nhiều nhu yếu phẩm khác như xà
phòng, mì chính, chất đốt... của
tất cả cán bộ công nhân viên chức khác cũng như vậy. Có năm ba tháng liền bà chỉ được lĩnh vải mà không xà phòng.
Có
người như cô Hoa chồng chết, nhà
có bốnngười toàn phụ nữ (mẹ chồng,
Hoa và hai congái) nhưng khi lĩnh tiêu chuẩn
quần áo lót thìtoàn quần đùi, áo may ô
và... dao cạo râu. Cô Hoa khóc cả
tuần liền...
Công
ty của em bà sản xuất sứ tích
điện.Không có tiền, công ty trả
lương cho công nhân bằng tích
điện. Đơn vị có cao su trả
bằngcao su, xí nghiệp có mũ cứng
thì trả lươngcông nhân bằng mũ cứng... Những
lúc như vậy lĩnh lương xong cũng
không biết đem về đâu, để làm gì?
Chuyên
gia kinh tế Lê Văn Viện bảo rằng
đó là bối cảnh chung của đời sống người dân trướcnăm 1986. Hầu
như những mặt hàng thiết yếu đều đến tay người tiêu dùng qua kênh phân phối bằng hiện vật, tem phiếu và định lượng bằng chỉ tiêu.
Bài
đăng trong "Đêm trước đổi
mới", NXB Trẻ
HÀNG
CHỨC NGUYÊN - XUÂN TRUNG - QUANG
THIỆN
"
VÒNG KIM CÔ"
Những
câu chuyện bi hài của "đêm
trước" đổi mới thật khó
tưởng tượng được nếu không phải
là chứng nhân thời kỳ đó. Tất cả đều chạy theo và chạy đua với chỉ tiêu được ấn từ trên xuống bất chấp quy luật thị trường. Người ta tìm mọi cách để hoàn thành chỉ tiêu cho thật đẹp sổ sách báo cáo, còn đằng sau là đủ thứ sáng kiến cải tiến, cải lùi.
Chỉ
tiêu "đổ than"
Câu
chuyện thời bao cấp khó tin nhưng
có thật: Năm 1979, một công ty khai thác than ở Thái Nguyên được giao chỉ tiêu khai thác 150.000 tấn than. Nhưng năm đó các công ty khách hàng không đủ nguyên liệu sản xuất, máy móc, dây chuyền hỏng hóc... nên hoạt động cầm chừng, không cần nhiều đến than.Sản phẩm của
công ty than nọ cứ ngày mộtchất
chồng trong kho bãi. Đến lúc kho
bãi không thể chứa thì công tác khai thác cũng phải "phanh" dần.
Tuy
nhiên chỉ còn hai tháng nữa là
hết nămmà cái chỉ tiêu đó mới
thực hiện được hơnnửa. Nỗi ám ảnh không đạt
chỉ tiêu đe dọa số phận chính trị
của tất cả ban lãnh đạo công ty, đến đồng lương tất cả cán bộ công nhân cũng như danh hiệu thi đua của toàn đơn vị. Không thể "bó tay", ban lãnh đạo công ty quyết định ăn ngủ tại công trường, thức trắng đêm cùng công nhân, vượt qua sương muối, gió may miệt mài khai thác cho bằng đủ chỉ tiêu được giao. Công việc lúc này bận rộn và khó khăn gấp đôi bình thường vì sau khi mất công khai thác, công ty còn mất một công nữa là... đổ than đi. Đổ xuống vực, xuống suối, xuống hang... hay bất cứ đâu cũng được.
Sự
việc cuối cùng cũng đến tai cấp
trên. Giámđốc công ty than bị khiển
trách. Thế nhưng trong phiên họp
tổng kết năm của toàn công ty,
ông giám đốc mặt mũi đen nhẻm, hốc hác chạy lên bục phát biểu hào hứng: mặc dù gặp rất nhiều khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua, nhưng với tinh thần đoàn kết, nhấttrí cao, chúng
ta đã phát huy phẩm chất sángtạo,
nỗ lực lao động và đã hoàn thành
tốt chỉ tiêu cấp trên giao. Tỉnh đã có bằng khen cho tất cả các đơn vị hoàn thành chỉ tiêu.
Ông
Bùi Văn Long, nguyên tổng giám
đốc Liên hiệp Dệt Việt Nam (tiền
thân Tổng công ty Dệt may), vẫn còn ám ảnh những con số chỉ tiêu: Dệt Thành Công được giao chỉ tiêu sản xuất 3 triệu m2 vải/năm. Nhưng khi 1/3 dây chuyền đắp chiếu vì không phụ tùng thay thế, vốn lưu động Nhà nước cấp không nổi 1/2 nhu cầu thì cái chỉ tiêu ấy vẫn giữ nguyên.
Đến
lúc công ty khắc phục được khó
khăn, năng lực dư thừa, thị
trường "cháy" hàng thì
chỉ tiêu ấy cũng không thay đổi. Hai chữ "chỉ tiêu" trở thành "vòng kim cô" khủng khiếp trùm lên toàn bộ mọi hoạt động sản xuất. Nhà nước cung cấp nguyên nhiên vật liệu và vốn lưu động mỗi năm cho doanh nghiệp, kèm theo một con số sản phẩm nhất định mà doanh nghiệp phải làm ra rồi cũng nộp cho Nhà nước.
Tuy
nhiên, do thiếu tất cả mọi thứ
cộng vớiphương thức quản lý "của chung"
nên hầu như không bao giờ những
gì Nhà nước giao tương ứng với những gì Nhà nước muốn thu lại từ doanh nghiệp. Và những chỉ tiêu nàycũng hủy diệt gần
như hoàn toàn mọi sáng tạo, năng động của doanh nghiệp.
Chuyên
gia sử kinh tế Đặng Phong kể lại
câuchuyện cao su chạy từ Nam ra
Bắc rồi quay lại Nam cũng chỉ vì cái "vòng kim cô" chỉ tiêu: Xí nghiệp Đồ hộp xuất khẩu TP.HCM vì thiếumiếng lót cao
su dưới nắp hộp trái cây xuấtkhẩu
nhưng đến mua ở Công ty Cao su
miềnNam không được. Lý do: không
có chỉ tiêu kếhoạch. Xí nghiệp cầu cứu Ủy
ban Kế hoạch TP thì nơi đây
chuyền "quả bóng" cho
Ủy ban Kế hoạch nhà nước.
Sau
khi cân đối đầu ra - đầu vào, Ủy ban Kế hoạch nhà nước đồng ý giao chỉ tiêu 300kg mủ cao su cho xí nghiệp nhưng đó là chỉ tiêu năm tới. Hỡi ôi, trái cây không thể chờ sang năm mới đóng hộp xuất khẩu. Xí nghiệp không thể chịu chết vì cái chỉ tiêu kế hoạch vô hồn. Bà giám đốc xí nghiệp sực nhớ có quen ông giám đốc Nhà máy cao su Sao Vàng Hà Nội. Đánh liều bay ra đàm phán với "ông Sao Vàng", "bà Đồ Hộp" vay được 300kg mủ caosu quý ơi là quí. Sau đó xí nghiệp không có mủ mà trả, đành trả bằng đồ hộp. "Ông Sao Vàng" càng mừng vì có quà cải thiện đời sống công nhân.
Cuộc
sống quá khốn khó, động lực sản
xuất, tinh thần trách nhiệm ngày
một tiêu hao, nhiều căn bệnh phát sinh ở hầu hết các nhà máy xí nghiệp. Điển hình nhất là tệ ăn cắp. Ông Nguyễn Xuân Hà (nguyên giám đốc Công ty dệt Thành Công) vẫn còn nhớ kỷ niệm buồn:năm 1982, khi ông
chuyển sang làm giám đốc Công ty dệt Thắng Lợi, có 5.000 công nhân nhưng tệ nạn trộm cắp trong nhà máy quá mức khủng khiếp.
Trong
ba tháng thực hiện "bàn tay
sạch", nhà máy bắt được 15
kẻ gian trong đó có năm đảng viên. Thậm chí cả bí thư chi bộ cũng lấycắp môtơ. Trộm cắp
được lập thành băng nhóm trong cơ quan, liên kết với bên ngoài và thực hiện bằng các thủ thuật rất tinh vi. Nhưng khi tìm hiểu thì hầu hết thủ phạm đều từng là những người lao động rất tốt nhưng vì hoàn cảnh túng bấn nên họ nhắm mắt làm liều.
Xe
chạy xăng thành... chạy than
Ông
Trần Văn Khang, nguyên giám đốc
Công ty công tư hợp doanh Điều
hành bến xe miền Tây, nói: sau giải phóng vài năm thì xăng không đủ cấp cho xe chạy. Những xe chạy xăng thời đó là loại hiện đại, máy móc tốt nhưng chẳng lẽ để đắp chiếu. Một đề tài khoa học rất... nổi tiếng thời đó có khả năng biến loại động cơ hiện đại lùi lại hàng trăm năm đã được áp dụng. Đó là cải tạo xe chạy xăng thành chạy than.
Thế
là từ vận tốc 70-100km/h thành
20-35km/h. Từ êm nhẹ chiếc xe
thành con quái vật không ngớt kêu gào. Xe chạy đến đâu, lửa, xỉ than rơi vãi ra đường đến đó và lửa từng làm cháy rừng khi đi qua rừng núi. Hành khách, nhà xe mặt lúc nào cũng đen nhưngười âm phủ. Gặp
dốc lớn, tất cả lại xuốngxe: 1- 2
-3 hò dô ta... đẩy xe lên dốc.
Bến
xe miền Tây (TP.HCM) hai mươi mấy
năm trước khi thành phố chỉ có 1/4 lượng khách so với bây giờ, nhưng cảnh chen chúc vạ vật của người chờ xe không khác gì chạy loạn. Nhiều người đi từ tờ mờ sáng, ngoài tư trang, hàng hóa, họ còn đem theo một viên gạch. Đến cửa quầy bán vé khi trời chưa rõ mặt người, hành khách đã đua chen nhau đặt hòn gạch để xí chỗ xếp hàng mong mua vé trước. Vậy mà không ít người đợi đến 2-3 ngày vẫn không mua được vé, đành ra về. Lễ tết thì khỏi phải nói.
Bến
xe phía Nam (Hà Nội) cũng y như
thế.Thời bao cấp không mấy khi
hành khách mua được vé trực tiếp
từ bến xe mà chủ yếu là vé chợ đen. Riêng bến xe Kim Liên - Hà Nội (cũ) lúc nào cũng có 5-7 băng nhóm phe vé. Mỗi nhóm 5-7 người. Bọn họ bám chặt và sống ký gửi vào bến xe này với công việc duy nhất: mua càng nhiều vé xe càng tốt. Ngày đó những cảnh như một bà lão còng lưng dốc hết tay nải để tìm những đồng tiền cuối cùngnhưng vẫn không
đủ đòi hỏi của tay phe vé.Bà phải
rớt chuyến. Những hành khách tội
nghiệp như bà vừa khóc vừa liêu xiêu giữa bến xe chiều không phải là chuyện hiếm.
Lái
xe Trần Văn Thành than: hành
khách khốn khổ thì phận lái xe
cũng rất khốn nạn. Săm lốp,phụ
tùng, thùng, máy, xăng dầu... đều
được tính theo chỉ tiêu (tính số
kilômet vận hành để được cấp mới hay trung đại tu) nhưng cái chỉ tiêu ấy chỉ có thể áp dụng trên giấy vì nó rấtphi lý. Hỏng hóc
thiếu thốn, chắp vá đủ kiểunhưng
vẫn không thể sống được. Nhiều
người bỏ xe giữa đường, bỏ nghề,
bỏ cơ quan về luôn. Mấy tháng sau, địa phương yêu cầu công ty mới cho xe ra kéo cục sắt ấy về. Ai không dám bỏ nghề thì buộc phải bỏ tiền túi mà cải tạo. Tiền đâu? Lại phải buôn hàng lậu (thật ra chỉ là gạo, thịt, mắm muối, xà phòng...) hay bắt thêm khách, lại phải lo lót, luồn cúi... Trong giới lái xe cũng có rất nhiều người đã phải bán nhà để sửa xe cho Nhà nước. Cho đến tận bây giờ nhiều người khi đã bỏ nghề chạy xe vẫn không mua nổi căn nhà cũ để ở.
NXB
Trẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét