Thứ Ba, tháng 7 30
Thứ Hai, tháng 7 29
Miếng ngon Hà Nội (vũ bằng ) chương 6
TIẾT CANH, CHÁO LÒNG
Tôi không biết ý cô Bảy ra sao, nhưng cái món cháo tiết của “các
chú” bán rong ở ngoài đường, ăn với “dồi chau quảy”, tôi không thể nào “thương”
được. Đã đành rằng đôi khi lạ miệng, cắt vài miếng “dồi chau quảy” cho vào cháo
thì cũng “dễ ăn” thực đấy nhưng cháo là thứ cháo nào kia, chớ đến cái cháo tiết
cái thứ cháo bắt chước cháo lòng một cách vụng về cứng nhắc đó, thì ăn vào
không những không thể ngon lành mà lại còn mang tiếng lây cả đến “dồi chau
quảy” nữa.
Cái gì mà lại có thứ cháo loãng thờ, loãng thệch nước đi đàng
nước, cái đi đàng cái, lềnh bềnh mấy miếng tiết, cháo và tiết rời rạc, đuểnh
đoảng như “ông chẳng bà chuộc” vậy!
Không, cháo lòng phải là một cái gì khác thế, lạ lùng, huyền bí
và lâm ly hơn nhiều lắm. Nhưng khoan đã, sao ta lại có thể nói tới cháo lòng
trước khi nói tới tiết canh, lòng lợn? Lòng lợn, tiết canh và cháo lòng là một
tam đầu chế, thiếu một thứ thì mất cả sự nhịp nhàng, tiết tấu, vì thế, nói tới
cháo lòng, phải nói đến lòng lợn, tiết canh, mà nói có thứ tự, vì ba thứ đó
không tha thứ sự vô trật tự.
Nghĩa là muốn thưởng thức ba thứ đó, người ta cần phải ăn có
trật tự, tôn ti, ăn cho đúng phép, chớ món đáng lý ăn trước mà lại ăn sau, món
đáng lý ăn sau mà lại dùng trước thì “hỏng kiểu” hết, không thành ra cung bực,
mà lại còn làm mang tiếng cả lòng lợn, tiết canh, cháo lòng.
Thực ra, cháo lòng, tiết canh, và lòng lợn ăn ở chỗ nào - giữa
chợ, ngoài đường, trong hiệu hay ở nhà - thì cũng phải ăn cả ba thứ mới cảm
thông được hết cả cái hay, cái đẹp, cái ngon, cái lạ.
Ăn mãi cơm tẻ và thịt thà cũng chán, mà ăn cơm Tàu béo ngấy mãi
cũng chán, một hôm trời trở gió kia, anh thấy như nhơ nhớ một cái gì xa xôi lắm
lắm, kiểu cái nhớ vẩn vẩn vơ vơ lúc mới nổi ngọn gió thu... Anh tự hỏi nhớ gì:
nhớ ngày vàng đã qua rồi, nhớ một cặp mắt người yêu cách biệt, hay nhớ một mối
tình não nuột đã liệm vào tấm vải xô của thời gian?
Không phải cả. Ta rầu rầu trong bụng, suy nghĩ vẩn vơ mãi, sau
mới biết rằng “đối tượng” của sự nhớ nhung đó không có gì khác là tiết canh,
cháo lòng: “À đã lâu lắm mình không thưởng thức...”
Nhưng nghĩ thế, đủ rồi. Có cần phải nói ra làm gì đâu! Vợ chồng
yêu thương nhau, mình chưa buồn vợ đã biết mình buồn, mình chưa vui vợ đã biết
mình vui thế thì làm gì mà không đoán được nỗi buồn se sắt nhỏ bé ở trong lòng
người bạn trăm năm.
Thế là dưới ngọn đèn ấm cúng, cơm nước và thức ăn bốc khói lên
nghi ngút đã dọn ra bàn đâu vào đó cả rồi cũng mặc để đó cho các con ăn, còn
chúng mình thì mặc quần áo, đi một chút đi! Cả hai người đều biết ở Hà Nội muốn
thưởng thức cháo lòng thì có những đâu “ăn được”; nhà cả Thủy ở trong cái cổng
xế rạp chiếu bóng Đại Nam phố Chợ Hôm; nhà Tiềm ở đầu Hàng Lọng chỗ ngã ba
trông sang chợ Cửa Nam; nhà cả Chảy ở Tiên Sinh Nhà Hỏa, gần chỗ rẽ sang phố
Hàng Bát cũ.
Ngày xưa ngon có tiếng là nhà cả Thủy, nhưng về sau, nghe thấy
nói rằng vì bà cụ mẹ vợ cả Thủy mất đi, cả Thủy chơi bời cờ bạc, không chăm
chút cửa hàng như cũ nên mỗi ngày số khách vào ăn hàng mỗi kém đi. Nhà Tiềm
tiết canh đánh cũng lâm ly đáo để, nhưng chỗ ngồi chật chội mà khách ăn lại quá
tạp nham, nên hạng trung lưu thường ít khi lui tới.
Người ta thường thấy ra vào ở cửa hàng này các anh em xe kéo,
các bà buôn trên chợ, các công nhân. Còn các công chức, các thương gia, các kỹ
nghệ gia, các bà “tử tế” thường thường là hay đến ăn ở nhà Tư Công, gần hiệu
cơm tám giò chả cũ ở Hàng Buồm hay nhà cả Chảy ở phố Tiên Sinh Nhà Hỏa. Hai nhà
này bán cũng đã lâu đời, cho nên không cần có biển quảng cáo mà những người
sành ăn ở Hà Nội thảy đều biết cả.
Nhưng coi chừng đó, cái món tiết canh cháo lòng bán ào ạt chỉ
trong khoảng ba, bốn tiếng đồng hồ, nếu quả là muốn “ăn lấy được”, nên mau chân
lên một chút. Có những buổi tối ngồi ăn trong một gian phòng đầy nghẹt những
người, tôi đã từng thấy có những bọn khách chậm bước đến ăn mà không có bàn
ngồi, hoặc có bàn mà đã hết cả lòng, hoặc còn lòng mà hết cháo, đành tần ngần
kéo nhau ra. Trông những người đó, thực là tội nghiệp.
Ở nhà ra đi với cái mộng làm thỏa mãn khẩu cái quyết định phải
dùng một bữa “đã đời”, vậy mà đến nơi lại phải về không, nỗi thất vọng lựa là
phải nói ra ai nấy đều biết cả.
Ờ, chẳng lẽ đã bảo ở nhà là đi ăn rồi, bây giờ lại về thúc người
nhà dọn cơm ra dùng hay sao? Thôi, đành là phải đi tìm “cái” khác mà ăn vậy.
Nhưng cái khác là cái gì? Thịt rắn ư? Cơm Tàu ư? Chả cá ư? Cơm gà ư? Tôi biết:
đã lỡ như thế, ăn yến cũng không thú nữa.
Tiết canh, cháo lòng ám ảnh ta, không thể làm cho ta quên được.
Sự “trượt ăn” đó càng làm cho ta thèm muốn và càng tưởng tượng, ta lại càng
thấy tiết canh cháo lòng ngon quá. Ông Tây nhứt định là không biết ăn lòng lợn,
tiết canh rồi, còn ông Tàu thì chỉ biết độc có một món là làm thành “lù mỵ” cặp
vào bánh mì ăn hay lấy một que tăm xiên từng miếng nhắm vào tới ba xị đế. Không
ngon, ăn như thế không thể nào ngon được.
Cái tiết canh, cháo lòng của ta chính ra là một món ăn rất bình
dân, mọi lớp người trong xã hội đều có thể ăn chơi thong thả, nhưng trái lại,
lại là một thức ăn thanh lịch vào bực nhất.
Không có ai lại nhồm nhoàm tống luôn ba miếng gan hay cổ hũ vào
miệng một lúc bao giờ. Dù bận rộn hay háu ăn đến thế nào đi nữa, người ta cũng
nhởn nha gắp từng bộ phận của con heo. Ăn nhiều, kém ngon đi. Nhưng muốn thưởng
thức lòng cho ra trò, phải đưa cay tí rượu. Khà, “nó” lạ lắm, ông Hai ạ. Có tí
rượu, lòng tự nhiên nổi hẳn vị lên, cái bùi dường như bùi hơn, cái béo dường
như cũng béo hơn lên một chút. Gắp một miếng lòng tràng, chấm đẫm mắm tôm chanh,
ớt mà ăn, rồi thong thả lấy hai ngón tay cái và ngón tay trỏ nhón một cánh mùi
hay lá rau thơm điểm vị, anh sẽ cảm thông hết cả cái tốt đẹp của buổi thanh
bình ăn uống nhởn nha, đồng thời, lại thấu hiểu cái đặc biệt của miếng ngon đất
nước.
Thực mà, không nước nào lại có một thức ăn lạ như lòng lợn của
ta. Cũng là trong con lợn cả, mà mỗi bộ phận ăn ngon một cách: gan thì ngòn
ngọt mà lại đăng đắng, ăn vào với rau mùi lại thấy thơm thơm; tim nhai vào
trong miệng mềm cứ lừ đi; cổ hũ giòn tanh tách; lòng tràng sậm sựt; còn ruột
non thì quả là đáo để, mới cắn tưởng là dai nhưng kỳ thực lại mềm, ăn vào cứ lo
nó đắng thành thử đến lúc thấy nó ngọt và bùi và thì cái bùi cái ngọt ấy lại
càng giá trị.
Tất cả những thứ đó, cùng một vài miếng phổi và mấy miếng dồi mỡ
thái bằng một con dao thật bén và xếp đặt lớp lang như một bản tuồng diễm
tuyệt, à, trông quí lắm, thưa cô!
Điểm vào đó, còn ớt màu đỏ, thơm mùi và húng màu ngọc thạch,
thiên thanh, mắm tôm chanh màu hoa cà... ba thứ đó tươi cười ngự ở bên màu
trắng ngà của lòng tràng, màu trắng xanh của ruột non, màu trắng phơn phớt lòng
tôm của cổ hũ, tạo thành một cuộc “chơi màu sắc” hòa dịu làm cho tâm hồn người
ăn tự nhiên thơ thới.
Thú nhất là ăn từng thứ một đã ngon, ăn đệm thứ này với thứ kia,
như ăn một miếng cổ hũ với một miếng gan hay lấy một miếng lòng tràng điểm với
một miếng ruột non lại cũng ngon cách khác. Quanh đi quẩn lại có mấy thứ mà cái
ngon biến ra trăm ngàn sắc thái khác nhau; không, ta phải nhận rằng như thế quả
cũng là một cái lạ mà ít khi ta thấy trong khoa ẩm thực.
Nhưng hỡi người sành ăn, hãy coi chừng! Đừng có thấy lòng tràng,
cổ hũ, ruột non, lá lách ngon miệng mà cứ xơi tì tì mãi. Ăn chơi chút đỉnh
thôi, chớ đừng để cho khẩu cái hoàn toàn thỏa mãn mà rồi đến lúc tiết canh đưa
lên lại thấy hết thèm. Ta phải vừa ăn vừa đợi, vừa ăn vừa giục tiết canh, thì
đến lúc được tiết canh ta mới thực cảm thấy cái ngon mát, bùi béo của nó ra
sao.
Vì đưa cay mấy hớp rượu, lại bắt đầu bằng những miếng ăn khô, cổ
ta có ý hơi rao ráo. Miếng tiết canh thứ nhất nuốt vào, quả có y như là một
trận mưa xuân rưới vào lòng đất làm cho đất thêm tươi đẹp và nhuần nhị.
Không, mưa không lấy gì làm to đâu, chỉ phiêu phiêu, nhỏ nhỏ
thôi, nhưng đủ làm cho đất mỡ ra, đẹp ra, không hanh hao, úa héo. Cũng vậy,
miếng tiết canh thứ nhất ăn vào không võng nước như xúp hay canh, nhưng đem đến
cho ta một cảm giác mát mẻ, nhuần nhị, làm mát gan, nở phổi.
Tài nhất nó không phải là nước mà vào đến cổ lại lừ đi như nước,
nhưng không vì thế mà hóa ra “đoảng” trôi qua cổ họng thì thôi.
Chính vào đến cổ họng, tiết canh mới phát huy được hết thơm ngon
của nó, cũng như một thiếu nữ chỉ phát triển hoàn toàn sau khi đã sinh nở một
lần rồi. Cũng như người con gái dậy thì, tiết canh đẹp một cách rực rỡ, lộng
lẫy, não nùng. Màu đỏ tươi hơn hớn của tiết bật lên trong đám sụn băm, gan thái
chỉ thơm, mùi rắc bên trên, với lạc giã nhỏ làm cho người ta nghĩ đến làn da
thơm mát ngạt ngào của một thiếu nữ đầy tràn nhựa sống.
Một người đẹp như thế, mà chạm mạnh vào, ta cảm thấy như có
tội... Không, ta chỉ muốn nhìn để thưởng thức cái đẹp thôi...
Chính vậy, ăn một miếng tiết canh vào miệng, ta thấy như nhai
mạnh tức là mắc cái tội phí phạm của trời. Nhưng sự ham muốn bao giờ cũng mạnh.
Những miếng phổi và sụn, những miếng gan, những hạt lạc rang thơm phức quyến rũ
ta: tất cả những thứ đó quyện vào với tiết và tạo ra một mâu thuẫn nên thơ vừa
mềm lừ, vừa sậm sựt, tưởng như là chống đối nhau nhưng trái lại, lại ăn ý với
nhau như thể âm với dương, trai với gái.
Trai sánh với gái, bao giờ cũng nên thơ, điều đó ai cũng đã biết
cả rồi. Nhưng có một đôi lứa hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn xứng ý, không phải
là việc dễ dàng. Muốn tạo nên một cuộc sống ái ân lý tưởng, người đàn bà và
người đàn ông cần phải biết những nhiệm vụ, những nhượng bộ, những hy sinh đối
xử với nhau, tóm lại, phải biết sống cho có nghệ thuật, thì, để hoàn thành một
đĩa tiết canh lý tưởng, ta cũng cần phải sửa soạn công phu, công tác một cách
nghệ thuật, theo một phương pháp cổ truyền nhứt định.
Tiết canh kỵ nhất là đánh nát, dù là tiết canh vịt hay tiết canh
heo.
Đánh tiết canh heo, người ta cho một chút muối vào trong chậu
rồi cắt tiết vào đó. Tiết chảy ra thì lấy đũa quấy đều lên, cho tiết khỏi đông.
Trong khi đó thì sụn, lòng, phổi, cổ họng v.v... đã được băm nhỏ để vào bát
hoặc đĩa riêng. Đến khi đánh, người ta xúc thịt đã băm cho vào tô, rồi múc tiết
hòa lẫn với nước xuýt rưới vào từ từ. Tiết và nước xuýt trộn với nhau cần phải
theo tỷ lệ hai thìa tiết một thìa nước. Trong khi rưới tiết, phải lấy đũa khuấy
đều rồi để nguyên một chỗ, không được ai chạm đến. Lúc nào dùng thì thái mỏng
mấy miếng gan bày lên trên, rắc lạc rang và để mấy cánh thơm và mùi cho đẹp
mắt.
Tiết canh vịt, đánh tương đối khó hơn một chút. Thường thường,
người ta cắt tiết cổ, nhưng có những người cầu kỳ lại chú trương cắt tiết ở mỏ
hay ở khuỷu chân thì được nhiều tiết hơn. Tiết chảy ra được hứng vào một cái
bát, trong đó đã đổ già nửa thìa nước mắm để cho tiết khỏi đông.
Tiết canh vịt thường đánh với những miếng sụn ở trong con vịt
như cổ, chân, cánh và lòng. Những thứ đó được băm nhỏ rồi dàn lên một cái đĩa
lớn; đoạn, người ta rưới tiết đã được hòa vào nước xáo, đánh lên cho đều. Cũng
như tiết canh lợn, tiết canh vịt đánh xong rồi phải để riêng biệt một chỗ cho
đông lại. Khi nào dùng thì thái mấy miếng gan mỏng để lên, trên rắc lạc giã nhỏ
và ăn với các rau ngổ, răm và húng.
Tôi không tin rằng có người đánh tiết canh tài đến nỗi có thể
xâu lạt vào tiết canh mà mang đi mang lại như miếng thịt, nhưng quả có bà nội
trợ Bắc Việt đánh tiết canh đông y như thể là vừa mang ở trong tủ ướp lạnh ra.
Đánh được như thế, quả là một thiên tài. Có người nói rằng muốn vậy, người ta
phải dùng “ngoại khoa” là đánh tiết canh xong thì lấy một bẹ chuối đặt lên trên
tiết canh cho cái bẹ chuối hút hết nước thừa đi. Để một lát, lấy ra dùng, phần
nhiều khi tiết canh rắn, ăn trơn miệng.
Ngoài tiết canh lợn và tiết canh vịt, còn có tiết canh chó và
tiết canh gà, nhưng hai thứ sau này ít phổ thông. Là vì tiết canh chó không
đánh khéo dễ tanh, mà trông thấy người ta dễ sợ, còn tiết canh gà, theo lời tục
truyền lại, dễ truyền bịnh cho người dùng, nhất là bịnh suyễn. Chẳng biết có
đúng hay không?
Dẫu sao, tiết canh ngon mà có đến những hai thứ thiết tưởng cũng
đã đủ lắm rồi.
Người đẹp thường hiếm thấy... Nhưng người đẹp dẫu nghiêng nước
nghiêng thành đến bực nào đi nữa mà đứng một mình thì cũng hoài mất cái đẹp đi.
Bởi vậy, ăn tiết canh rồi thôi, người ăn vẫn cảm thấy thiếu thốn một cái gì:
bực lắm. Thì đã bảo rằng lòng lợn, tiết canh và cháo lòng là một “tam đầu chếỉ
bất khả chia lìa mà! Tiết canh dùng rồi, có cháo mới lại càng nổi vị.
Thử tưởng tượng một buổi chiều tà, hiu hiu gió thổi, hai vợ
chồng ngồi kề vai ở trong một quán lạnh, liếc nhìn nhau đợi hai bát cháo nóng
mang lên.
Cái bát đựng cháo bình dân một cách lạ thường, nhưng hơi nóng
của cháo đưa lên thì quả là một hương thơm vương giả. Hành không nhiều, chỉ vừa
đủ ngát thôi; cháo không thô và sặc mùi “mà dầu” như kiểu “kêạp chúc” nhưng
cũng không vì thế mà đuểnh đoảng hay nhạt nhẽo.
Nó có một hương vị riêng, ông ạ, một hương vị không thể so sánh
với bất cứ hương vị của một thứ cháo nào khác, một hương vị đất nước kín đáo,
xa xôi, hàm súc. Ngửi hương vị đó, rồi đưa mắt nhìn vào bát cháo mà nhận chân
lấy cái quánh của nó với màu tím lờ đờ do tiết tạo thành, ta sực nhớ đến người
con gái trong câu hát:
Một ngày hai bữa trèo non
Lấy gì mà đẹp, mà giòn,
hỡi anh!
...
Một ngày hai bữa cơm đèn
Lấy gì má phấn răng đen
hỡi chàng! Thuần túy Việt Nam, người con gái trong câu hát nói như vậy chính là
nói nhũn. Thực ra, người con gái ấy mạnh vô cùng, bởi vì dám nói cái xấu ra,
tuy là người con gái đã tin chắc vào cái đẹp của mình rồi; mà tin vào cái đẹp
của mình, nhưng vẫn cứ nói ra như thế, âu cũng là một cách làm duyên để cho
chồng thương hơn.
Thực vậy, cháo lòng cũng
như một người con gái mà duyên dáng lẫn vào bên trong, chớ không bong ra bên
ngoài. Có thể rằng ăn ở với một người đàn bà đẹp một cái đẹp huy hoàng, rực rỡ
và ác liệt, ta mê say đến quên cả đời đi, nhưng sự mê say đó làm cho ta rờn
rợn, có khi thấy như đau nhói ở ngực, và kết cục chẳng bao lâu ta sẽ thấy tim
ta mệt mỏi.
Đối với một người vợ tấm
mẳn, cũ kỹ, có duyên thầm, không thế. Vợ chồng càng ăn ở với nhau thì người
chồng lại càng tìm thấy ở người vợ những tính tình tốt đẹp, mới lạ, làm cho
tình yêu của chồng mỗi ngày mỗi thắm đượm hơn.
Đối với một người vợ như
thế không thể nào bỏ được, càng về xế chiều lại càng thương mến nhau hơn; có
khi người vợ ho mà chồng thấy như chính mình đau nơi ngực người chồng buồn mà
vợ thấy như cả bầu trời ủ rũ, tang thương.
Thương biết bao nhiêu,
ngon biết chừng nào!
Thường thường, cháo gà,
cháo vịt, cháo cá, húp vào qua cổ thì thôi, không để lại cho ta cảm giác một dư
hương gì đáng kể; riêng có cháo lòng, húp xong rồi, ta vẫn còn thấy ở khẩu cái
còn dư lại một cái gì: đó là cái tiết bóp lẫn vào cháo, ngọt lừ lừ, trơn muồn
muột.
Cháo đậm đà, đôi khi lại
lẫn một miếng tiết, vừa nuốt, vừa nhai khẽ như đùa với hạnh phúc... thỉnh
thoảng lại điểm thêm một miếng dồi mỡ và một ngọn rau thơm... tôi dám cá một
trăm ăn một đồng có thứ cháo nào lại ly kỳ và tiết tấu như vậy hay không?
Ở Huế, ở Sài Gòn, người
ta cũng ăn cháo heo, nhưng thường là vẫn “hầm bà là” cả dồi, tiết, lòng tràng,
nõn khấu và cổ hũ vào luôn trong cháo. Ăn như vậy không lấy gì làm thú. Cháo
lòng, phải ăn riêng, cháo ra cháo, lòng ra lòng, húp một miếng cháo lại ăn một
miếng lòng, sau khi đã chấm nước mắm có chanh tiêu và ớt cho cẩn thận.
Ăn như vậy, vị của cháo
mới bật lên, chớ húp cháo mà lại lổn nhổn hết thứ này thứ nọ, người ta, chỉ chủ
tâm nghĩ cách làm cho khỏi nghẹn thì làm sao mà thưởng thức được hết cả cái
thơm ngon của nó?
Ăn một bát cháo lòng thực
ngọt và biết điều hòa các gia vị cho vừa vặn, kể cả cà cuống pha vào mắm tôm
hay nước mắm cho thực vừa, người biết ăn ngon thường khi thấy còn sướng hơn là
ăn vây, ăn yến.
Nếu thêm vào đó, để tráng
miệng, ta lại dùng mấy cái kẹo sìu Thiều Châu rồi nhởn nha đi về nhà, bảo trẻ
đun một ấm nước cho ta tự tay pha lấy một ấm trà mạn sen do vợ ướp, đời tươi
hết chỗ nói, không còn “ngôn” vào đâu được, có phải không, ông Cả?
Những lúc đó, mới biết
cái điếu thuốc lào quý thật: ăn tiết canh, cháo lòng và uống trà mạn sen xong
rồi mà hút thuốc lá trời đi nữa, cũng là phí cả một bữa ăn ngon.
Vì thế, tôi tán thành
những người ăn tiết canh cháo lòng xong mà hút một hai điếu thuốc lào. Và cũng
vì lẽ đó, mỗi khi đi ăn tiết canh cháo lòng ở đâu xa, tôi vẫn man mác nhớ tới
những cửa hàng tiết canh, cháo lòng Hà Nội mỗi khi tiễn khách, lại đưa ra mời
một miếng trầu cau tươi ăn cho thơm miệng và ấm bụng, để cho các bà dùng với
thuốc lá “sâu kèn” vừa đậm đà, ý vị mà lại vừa trang nhã.
HẨU LỐN
Có phải ở trong Nam người ta gọi món đó là “sà bần” không?
Không ai bảo cho tôi biết tại sao người ta lại kêu như thế. Tôi
cứ gọi nó là “hẩu lốn”. Chiều tháng Chạp, trời hơi lành lạnh, một mình thơ thẩn
đi trên các nền đường xa vắng, nhìn vào nhà người thấy cơm canh bốc khói dưới
đèn, tôi thường nhớ đến món “hẩu lốn” ngày nào...
Tất cả buổi chiều đương vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh, mà
chợt nhớ đến món hẩu lốn như thế, thì lòng mình tự nhiên ấm áp hẳn lên, nhưng
sau đó lại trầm trầm thêm một chút, rầu rầu thêm một chút. Là vì mình lại tương
tư miếng ngon Hà Nội mất rồi!
Thực là kỳ lạ: cũng thuộc vào loại hẩu lốn, Tàu có “tả pín lù”
Tây có “lâm vố”, mà ở đây thì có “sà bần”; ba thứ này, cũng như hẩu lốn, đều do
các thứ ăn đổ lộn lại với nhau nấu chín lên, nhưng tại sao ăn vào tôi vẫn thấy
có một cái gì “khang khác”, không làm cho mình mãn nguyện hoàn toàn?
Thưởng thức “tả pín lù”, công phu lắm. Muốn cho thực đủ vị, phải
có cá, tôm, mực, gà, lợn, bào ngư, hầu sì, bong bóng... mỗi thứ gắp một miếng
nhúng vào trong nước dùng, rồi gia thêm cải bẹ xanh, cải soong, hành hoa để cả
cuộng, rưới nước dùng vào bát mà ăn, chính lúc các món ăn đương nóng. Ai muốn
có nhiều đản bạch tinh cho mạnh, thì đập thêm một cái tròng đỏ trứng gà vào.
Trứng sống, rưới nước dùng sôi lên trên, chỉ một lát thì tái: mời ông cầm đũa
xơi ngay cho, kẻo nguội... Trời lạnh, ăn món nóng vào có phải ấm lòng lạ lùng
không? Nước dùng gà bỏ thêm đầu tôm, đầu mực, lại đập trứng, húp vào một miếng,
nó cứ ngọt lừ đi trong cuống họng... Nói cho thực thì mùa rét, mấy anh em tri
kỷ dắt nhau lên một cái lầu cao, gọi tả pín lù ăn kể cũng nên thơ.
Phổ ky đưa ra một cái “cù lao hổ”; trong cù lao có để than tầu
hồng; nước dùng ở quanh cái cù lao sôi lên sùng sục làm cho người ăn đã ấm
trong lại ấm cả ngoài. Thỉnh thoảng, mấy bông hoa lửa bay lên đem lại cho ta
cái cảm tưởng mình là những vị tiên ngồi chung quanh lò bát quái luyện linh
đơn, ăn một miếng vào bụng thì trường sanh bất tử.
“Sà bần”, không ăn như vậy. Bí rợ, bún tầu, cá nướng, khoai tây,
nấm, tỏi tây, haricôve, đổ chung vào một cái nồi nấu lên ăn. Cũng như tả pín
lù, các món ăn này còn nguyên vẹn, mới toanh, chưa hề đụng đũa: nhưng cũng có
một thứ sà bần “hầm bà là” tất cả các thức ăn ngày hôm trước nhà có tiệc tùng
còn lại đun nhừ lên, gia thêm rau cỏ rồi bắc ra ăn thật nóng.
Thấp xuống một bực, người bình dân còn ăn đồ “lâm vố” cũng là
một thứ sà bần, nhưng đây là “sà bần” gộp các món ăn Tây nấu nhừ ra: ragu,
rôti, ôđơvơ, ăngtê, sucút cùng bơ, phó mát, cho tất cả vào một cái nồi nấu
chín.
Đừng có bảo những biến chế đó không ngon vì là những món dư, rẻ
tiền, được đun nấu theo một “hệ thống vô trật tự”. Sà bần, lâm vố và tả pín lù,
mỗi thứ có một vị riêng, ăn vào lạ miệng, nhưng thực tình mỗi khi thưởng thức
một món đó rồi, tôi chỉ thấy thương món “hẩu lốn” hơn lên. Món hẩu lốn giống
tất cả những món đó, nhưng lại không giống riêng một món nào.
Tả pín lù, ăn thô và béo quá, nước lại ngọt một cách giả tạo; đồ
lâm vố thì lai căng, lổn nhổn, ăn một miếng chơi, cũng được đi, nhưng đến miếng
thứ hai thì “chán mớ đời”; còn sà bần kể cũng hay, nhưng không hiểu làm sao tôi
cảm thấy nhạt nhẽo... và duy vật như kiểu cô gái Việt học trường đầm, thân thể
cứ căng ra mà lại mặc một cái quần cóc se, rất chật, đi núng na núng nính như
biểu diễn rum ba ngoài phố.
Ăn một miếng, ngon liền; hai ba miếng, được đi; nhưng đến miếng
thứ tư mình thấy khẩu cái nó nhàm, “không vô” nổi nữa. Thế là tại làm sao? Tại
“sà bần” thừa chất gì chăng? Hay là tại thiếu một thứ rau gì mà ở trong Nam này
không có sẵn?
Chao ôi, hẩu lốn thì khác hẳn...
Một buổi chiều đông, hoa rét trở về với mưa xanh, gió thu, anh
bước vào nhà, tự nhiên thấy ngào ngạt một mùi thơm... Hỏi: “Ờ, nhà làm món gì
mà ngát thế?”. Đáp: “Hôm nay lạnh, làm món hẩu lốn ăn đấy mà!”
Vợ đã biết tính chồng hơi khó, thích món gì mà không đủ vị thì
hay “lẫy”, cho nên từ buổi trưa đã phải mua đủ các thứ rau cần thiết như thìa
là, cải cúc, cải xanh, rau cần... Bao nhiêu thứ đó rửa sạch, để cho ráo nước.
Xong đâu đấy, mới đi lấy tất cả những món ăn còn lại của bữa cỗ hôm qua để riêng
ra một chỗ, đợi giờ chồng về thiếu mười phút thì bắc vấu lên bếp, bắt đầu làm
món ăn thích ý của chồng. Bát thịt lợn ninh với măng khô cho vào trước, rồi đến
bát miến, long tu, bào ngư, vây, bóng, kế tiếp trút vào sau. Lại còn đĩa gì kia
nữa? Giò, chả cũng cho vào nốt, và cho vào luôn cả mấy miếng phì tản, thịt
quay, mấy cuộng hành, và chớ có quên đĩa thịt gà luộc và bát chim hầm với hạt
sen và cốm!
Lửa reo lách tách như cười. Từ cái vấu tỏa lên một ngọn khói lam
huyền ảo. Người nội trợ gia mắm, muối vừa vặn ngon thì chồng đã thay quần áo
xong rồi, mà người nhà cũng bày bàn kê ghế đâu vào đó. Mời ông ngồi trước, xong
rồi đấy! Có uống rượu thì lấy chai rượu sen ở ngăn dưới cùng tủ buýp phê, chớ
cái chai để ở trên mặt tủ là thứ xoàng, uống phí công đi. Người vợ vừa nói vừa
lấy rau ở trong rổ cho vào vấu: rau cải cho vào trước, rồi đến rau cần, cuối
cùng là thìa là, tất cả trộn lẫn, vừa tái thì bắc ra, đập một quả trứng, đảo
lên vài nhát nữa rồi trút ra bát lớn.
Ngoài sân, mưa lăn tăn làm ướt giàn thiên lý. Mấy con ngỗng trời
bay tránh rét, buông ở trên bầu trời xám màu chì mấy tiếng đìu hiu. Cơm vừa
chín tới, hẩu lốn lại nóng hổi, bốc khói lên nghi ngút, mà ngồi ăn ở trong một
gian phòng ấm cúng với một người vợ má hồng hồng vì mới ở dưới bếp lên, có họa
là sất phu lắm mới không cảm thấy cái thú sống ở đời!
Vợ thương chồng, gắp một miếng hẩu lốn vào trong bát, mỗi thứ
một tí, rồi chan nước dùng vào, mời ăn. Ăn một miếng, tỉnh cả người! Ai cũng
tưởng các món xào xáo lộn xộn với nhau như thế thì ăn vào lủng củng và không
thành nhịp điệu, nhưng lầm. Các món nấu “loạn xà ngầu” đó, không hiểu vì một lý
do tuyệt diệu gì, quyến chặt lấy nhau như một giàn nhạc tân kỳ, dương cầm,
phong cầm, vĩ cầm, thoạt đầu tưởng như là lộn xộn, nhưng lắng tai nghe một chút
thì hòa hợp, ăn ý nhau từng tý.
Làm nổi bật được tất cả vị của hẩu lốn lên là món nước dùng: nó
không ngọt cái ngọt của mì chính, nhưng ngọt cái ngọt tinh túy của tất cả các
miếng ngon đúc lại.
Tuy vậy, đừng tưởng như thế mà ngán đâu. Rau cải non, không chín
mà cũng không sống, đánh tan đâu mất hết các chất béo đi; rau cần nâng vị của
tôm và thịt lên cho vừa, không để cho thanh quá mà cũng không thô quá; rau cải
cúc ăn vào tưởng là nồng nhưng chính ra lại hòa hợp với thịt kho tàu và phì
tản; thêm thìa là vào nữa thì vừa vặn ngon mà thơm nhè nhẹ như người đàn bà đẹp
ngày Tết gội đầu với nước lá mùi, ngồi xõa tóc ở trước ngọn gió xuân dìu dịu.
Phải rồi, hẩu lốn ngon chính vì nó là sự tiết tấu thoát thai từ
ở chỗ hỗn mang ra vậy. Cái và nước là hai mâu thuẫn, nhưng tài tình thay, lại
hòa hợp với nhau như tiếng chim loan hòa với tiếng kêu của chim phượng, như
trai hòa với gái, như tình nhân trong một phút yêu thương diễm ảo hòa trộn linh
hồn vào với tình nhân.
Ta phải nhận rằng “sà bần” nấu cho thực công phu mà thưởng thức
thì cũng ngon đáo để. Thịt luộc, dưa cải, dưa giá, thịt quay, chuối hột, cá trê
nướng... tất cả ninh dừ lên, đem dùng đương lúc khói lên nghi ngút cũng đã “gia
dung” lắm, nhưng tôi vẫn thấy có một cái gì như vấp váp, như xung khắc, nó làm
cho khẩu cái của người ta không được thỏa mãn hoàn toàn. Có phải tại vì thiếu
thìa là, cải cúc không? Có phải tại trong sà bần có cá nướng làm cho điệu đàn
ngang cung không? Hay là tại ăn sà bần, người ta không ăn chung với nước dùng
như hẩu lốn mà là dùng riêng nước đó để chấm rau, bắp chuối và dưa giá?
Không. Tôi ưa sà bần, nhưng tôi yêu hẩu lốn gấp trăm lần. Có
những người sành ăn thưởng thức sà bần, thường chỉ lấy mấy khúc cá nướng và vài
khoanh chuối hột ra nhậu nhẹt, còn các thứ khác để cho đàn bà trẻ con dùng, và cho
ăn uống như thế là khôn ngoan rất mực.
Hẩu lốn thì không thế: hẩu lốn không dùng được rượu. Có muốn thì
dùng một ly nhỏ trước khi ăn, còn đã mang hẩu lốn ra bàn rồi phải ăn liền, ăn
riêng có một thứ hẩu lốn không thôi, hay là ăn luôn với cơm nóng - cơm gạo tám
thơm, thơm ngào ngạt, thơm nhức mũi, thơm có thể tưởng chừng ăn vào một miếng
rồi thân thể ta có tan biến vào hư vô cũng được.
Ấy vậy mà thưởng thức món hẩu lốn như thế, cũng chưa thấm vào
đâu. Muốn nhận thức thế nào là “ngon chết người đi được”, ta phải đợi đến ngày
mồng bốn, hay mồng năm Tết, hóa vàng xong rồi, bao nhiêu cỗ bàn còn lại đem
trút cả vào nồi, “hẩu lốn” lên ăn. Có thể nói rằng ăn như thế tức là ăn cả cái
Tết đầy hương và ngát hoa vào bụng.
Ba ngày Tết, uống rượu, đi lễ và nịnh đầm: mệt lắm. Đã thế, giờ
giấc ăn uống, ngủ nghê lại thất thường, cơ thể khỏi sao trục trặc? Vì thế ta
không lấy làm lạ trong ba ngày Tết chỉ nghĩ đến cơm cũng đã thấy ngán quá rồi.
Giả thử không phải ăn thì thú lắm. Nhưng nào có được: vợ thương chồng, dỗ phải
ăn cho kỳ được một chút cơm để có “hơi ngũ cốc”, mình đành là phải theo cho
được vừa lòng, xứng ý nhau; nhưng cứ mỗi lần nể nhau như thế thì lại càng sợ ăn
quá lắm.
Điểm đặc biệt của hẩu lốn là làm cho người ta tẩy được tất cả
cái gì béo ngậy, ngán ngẩn của ba ngày Tết mà vẫn cứ thưởng thức được tất cả
cái ngon lành của Tết.
Ngày thường, nấu hẩu lốn còn có thể thiếu thức này thức nọ, chớ
đến ngày Tết thì đủ, không còn thiếu món gì. Thịt kho tàu, miến vây, bóng, bào
ngư, long tu, nấm dưa hành, giò gà, thịt bò kho, kim tiền kê... và bao nhiêu
thứ rau thơm mát như da người thiếu nữ đương tơ. Không cần phải thưởng thức,
những trông một bát hẩu lốn thế cũng đã thấy đê mê tâm hồn rồi.
Màu xanh tươi của hành, rau kết hôn với màu vàng quỳ của thịt
kho tàu, nấm hương, mộc nhĩ, chim quay, màu hoa hiên của cà rốt sát cánh với
màu bạc ố của vây, miến, long tu; màu xanh nhạt của nước dùng hòa với màu trắng
mờ của nấm tây, thịt thăn luộc, chân giò hầm, tất cả lung linh trong một làn
khói lam uyển chuyển: à, ngồi trước một bát hẩu như thế, mình quả thấy mình là
một ông tiên chống gậy một sớm mùa thu đi vào một cánh rừng mù sương và ngát
hương.
Có người gọi hẩu lốn là “Long vân khách hội” - rồng mây gặp gỡ
nhau - nghĩ cho kỹ thì cũng không có gì là quá! Ăn một bát hẩu lốn đầy đủ như
thế - nhất là nấu lối hỏa thực, nghĩa là để ngay cái lò trước mặt, nấu sôi lên
rồi gắp ra ăn liền... sướng không để đâu cho hết. Ăn như thế, mình có cảm giác
may mắn suốt năm. Chẳng nói xa xôi làm gì, vợ chồng con cái ngồi thưởng thức
với nhau một bát hẩu lốn thật ngon, thật nóng, ngay lúc ấy cả nhà cũng đã thấy
vui ra phá. Ông chồng ăn miếng ngon vào miệng như thấy nở gan nở ruột, nhìn vợ
mà thấy đẹp hơn. Ờ, ra từ hôm Tết đến nay vợ chồng túi bụi, người thì lo đi lễ,
người thì lo tiếp khách, vợ chồng quên mất cả nhìn nhau. Đến hôm nay, hóa vàng
tiễn các cụ về rồi, ngồi nhởn nha thưởng thức món hẩu lốn do vợ làm, vừa lúng
liếng nhìn vào mắt vợ - ờ nhỉ, sao hôm nay má hồng thế, mà con mắt đen rưng rức
thế? Thì ra vợ nấu được bát hẩu lốn ngon, làm được cho chồng xứng ý, cũng thấy
cõi lòng hớn hở, vì được vui cái vui của chồng.
Món hẩu lốn, tổng hợp của các món ăn ngon ngày Tết, còn là thành
tố của tình yêu gia đình nữa. Ngày Tết, ăn hẩu lốn tức là con cháu thừa hưởng
kết tinh các món ngon bày lễ do người chết còn để lại cho người sống; giữa
người sống với người sống, món hẩu lốn xiết chặt tình thân yêu lại với nhau vì
bố cũng như con, chồng cũng như vợ, thưởng thức món đó đều chung một tâm sự như
nhau là không thể có món ăn ngày Tết nào “lâm ly” hơn thế.
Bao nhiêu chất ngấy của thịt kho tàu, chân giò ninh, chả gà, giò
thủ... nấu chung trong hẩu lốn đã biết đi đâu mất hết, mà nước dùng của nó lại
có thể thanh như vậy? Đó là một bí quyết chưa ai khám phá ra. Chỉ biết rằng ăn
một bữa hẩu lốn như vậy thì lòng người ta hình như cũng dịu hiền đi, chồng
thương vợ, vợ yêu chồng, đến khi có họp nhau lại rút bất hay đánh tam cúc thì
cười vui ra phá, chớ không có sự càu nhàu, trách móc ‘ ôi.
Về tối, mưa xuân lún phún ở trên các chòm cây. Gió heo may rì
rào giục người ta đóng cửa, đi nghỉ sớm. Sắp thiu thiu ngủ rồi, chồng hãy còn
nhớ đến bát hẩu lốn buổi chiều bốc khói lên nghi ngút ở bên cạnh nồi cơm gạo mễ
trì thổi vừa vặn, hạt nào hạt nấy cứ óng như là “con ong”. Cải xanh, cải cúc và
rau cần non, vừa tái, nhai vào sậm sựt, ngọt lừ, đến bây giờ dường như vẫn còn
để lại một dư vị nơi khẩu cái cùng với cái ngát thơm của thìa là... Và tự nhiên
lòng mình thấy phơi phới thương yêu - yêu thương người vợ bé nhỏ, biết đón
chiều ý thích của người chồng không muốn mâm cao cỗ đầy, chẳng thiết nem công
chả phượng...
Tiếng cười ở bên cạnh vọng sang cho biết rằng hội tam cúc ở nhà
bên vẫn chưa tàn. “Đây, kết nhất bộ nhị đây”, “Tôi xe pháo mã”, “Có ai có pháo
không, không có, mã tôi ăn đây này!”
Nhìn ra ngoài thì cành đào cắm lọ in bóng lên tường lung linh
như một bức tranh thủy mạc Tàu. Gió lay động bức màn the. Về khuya, người chồng
cảm thấy lạnh hơn, nằm sát lại với vợ thêm chút nữa. Người vợ mỉm cười trong
bóng tối và cảm thấy lòng mình nở hoa. Chồng khẽ thủ thỉ vào tai vợ:
- Đến mồng bảy này, nhà làm lễ khai hạ, mình làm hẩu lốn ăn nữa
nhé!
- Vợ, như chợt nhớ ra điều gì, đập khẽ vào má chồng:
- Thôi, quên mất rồi, mình ạ. Em cứ thấy thiếu cái gì mà không
tài nào nghĩ ra. Thì ra hôm nay hẩu lốn của nhà quên mất món đậu phù trúc rồi:
tiếc quá! Có món đậu phù trúc, còn ngon nữa!
- Ờ phải. Đậu phù trúc, cái màng mỏng ở trong thân cây tre, nấu
với hẩu lốn thì tuyệt diệu.
- Hẩu lốn có đậu hòa lan, cải cúc, cần, thìa là mà chưa có đậu
phù trúc thì vẫn chưa hoàn toàn. Đến hôm ấy, mình nhớ nhắc em đấy nhé!
* * *
Đêm xuân rải bóng xanh lên chăn nệm của đôi lứa thương nhau. Màu
thời gian tim tím, hương mùa xuân thanh thanh.
Ở nhà bên, tiếng cười nói vẫn giòn tan, nhưng ở bên này, viễn
ảnh của một bữa “long vân khánh hội” có đậu phù trúc đã mặc nhiên tạo thành một
thế giới mơ màng kỳ lạ: chỉ có hai người nằm im lặng không nói gì, mà là cả một
thế giới hương hoa!
Thứ Năm, tháng 7 25
Miếng ngon Hà Nội (vũ bằng ) chương 5
QUÀ BÚN
Có người bảo tôi rằng: “Ngồi mà kể lại những miếng ngon Hà Nội
thì biết đến bao giờ mới hết?”
Thật thế, món ngon Hà Nội kể ra còn nhiều, nhưng ngồi mà nhẩm ra
thì những món ngon đặc biệt Hà Nội cũng chẳng còn bao lăm nữa.
Ấy là vì Hà Nội 1953 đã thay đổi khác đi nhiều rồi, cũng như hầu
hết các nơi. Sau một trận chiến tranh khốc hại, có nhiều món ngon đã mất hẳn
như bánh ngỗng (áo bằng bột tẻ, nhân bằng thịt thăn, gia mộc nhĩ), bánh xèo; có
nhiều món ngon nhưng bây giờ hiếm, lựa là kể tới, như bánh bò, bánh bèo, bánh
xâm, bánh củ gừng; lại cũng có nhiều món ngon khác nữa, kể cũng thú lắm nhưng
không... tiện nói ra như cái món “mộc tồn” chẳng hạn.
Để bù vào chỗ đó, bây giờ phố xá Hà Nội có những món ngon mới,
hầu hết là lai Tây hay lai Tàu, như món thịt bò khô gồm đu đủ thái nhỏ, mùi và
giấm, “lạp chín chương”, ăn vào thấy đủ các vị cay, chua, mặn, chát, món bánh
“đùi gà” làm bằng bột mì và đậu xanh (rán mỡ), món mơ, mận, táo, khế ngâm nước
đường (áng chừng ăn vào mát giọng nói trơn như khướu!); món cháo tiết dùng với
“dồi chao quảy”, một đồng một bát; món bánh cari nếm thử một miếng cay cứ như
nhai ớt; món phở Lạng Sơn ăn chua lòm lòm...
Hay lắm. Mỗi ngày thêm một vị mới để mà đổi giọng đi cho hợp với
thời đại, cái đó cũng chẳng có hại gì... có thứ thì bắt chước Tàu, có thứ thì
bắt chước Tây, có thứ lại quảng cáo ăn ngon như đồ Mỹ, đồ Anh, nhưng rút cục
lại Hà Nội còn có một món quà, không theo ai cả, đặc biệt Việt Nam, mà tôi dám
chắc không có người Việt Nam nào không ăn, mà tôi lại dám chắc thêm rằng không
có người Việt Nam nào không thích: đó là quà bún.
* * *
Bún, nhưng mà bún gì?
Quà bún có cả một trăm thứ, nhưng ai đã ở Hà Nội, ai đã đi qua
Hà Nội, làm sao mà quên được thứ quà bún phổ thông nhất, bán với cái giá bình
dân nhất, ăn một miếng mà nhớ đến một năm, là thứ quà bún chả?
Không một nẻo đường đông đúc nào của Hà Nội không có thứ quà
này. Nhất là ở các chợ thì lại càng nhiều lắm. Ai cũng ăn chơi. Không nhiều đâu
với đồng tiền bây giờ chỉ năm đồng bạc, ta đã có thể có một mẹt bún thật ngon,
vừa dễ ăn mà lại vừa mát ruột, ăn tiện đáo để, không có phiền toái, nhiêu khê
gì hết.
Người bán hàng xếp những lá búnóng muốt vào trong một cái mẹt
con trên trải một mảnh lá chuối xanh non, rồi gắp rau vào đó. Mấy cái rau xà
lách, vài ngọn thơm, mấy cánh mùi: chỉ có thế thôi, nhưng lạ một điều là chưa
đụng đến đũa, ta đã thấy thèm rồi, thèm quá, tưởng chừng như phải đợi lâu hơn
một chút, không thể nào chịu được.
Ấy chính là vì trong khi ta ngồi nhìn người bán hàng gắp rau
xanh ong óng để xen vào những lá bún trắng tinh thì mùi thơm của chả nướng đã
cám dỗ khứu giác của ta mất rồi! Cái mùi quái lạ thay, nó tỏa ra trong không
khí sao mà bay đi xa đến thế!
Ngồi ở trong nhà giữa phố, ta có thể ngửi thấy mùi thơm những
gắp chả của hàng bún đỗ ở cuối phố nó bay đến nịnh nọt và khiêu khích những vị
dịch tuyến của ta.
Mùi thơm quái ác, mùi thơm huyền ảo, nó làm cho ta nhớ đến nhiều
kỷ niệm thiếu thời, lúc ta hãy còn ở trong những căn nhà cổ tối tăm như hũ,
trưa trưa thì mẹ lại gọi hàng bún chả quen ở hàng Bông Nệm hay ở đầu ngõ Tô
Tịch lại để cho con mỗi đứa một mẹt hai xu.
Thời kỳ đó xa xôi lắm rồi, nhưng vị ngon của bún thì không sao
quên được. Bao nhiêu năm đã trôi qua? Đời người ta đã ăn bao nhiêu ngàn, vạn
mẹt bún chả rồi?
Ấy thế mà cho đến tận bây giờ, cứ hồ ngửi thấy mùi thơm của chả
quạt ngoài đường hay trông thấy mẹt bún óng mềm, giữa có một chén nước mắm
trong đựng mươi miếng chả thì ta vẫn cứ thấy còn thèm và đôi khi không nhịn
được, phải tạt vào nhà bạn hữu nào gần đó bảo làm ngay một mẹt ăn chơi cho
thỏa.
Bún thì nhỏ sợi mà trắng, rau rửa sạch trông cứ mát lì đi, chấm
nước mắm thật ngon, rắc một chút hạt tiêu và điểm dăm ba nhát ớt, tất cả mấy
thứ đó nổi hẳn vị lên nếu ta biết cách ăn điểm vào cho thật đúng lúc những
miếng chả nướng vừa vặn một cách thần tình.
Có hai thứ chả: băm và nướng. Muốn ăn riêng một thứ cũng được,
nhưng ăn cả hai thứ chả trong một chén nước mắm, ta dễ thấy được hoàn toàn vị
thơm ngon, nhất là thứ chả băm mềm “đi” với thứ chả miếng sậm sựt tạo thành một
sự nhịp nhàng cho khẩu cái, ngồ ngộ, mà dùng có nhiều hơn một tí cũng không
thấy nản.
Có người lấy làm lạ sao chả của hàng bún lại ngon hơn của nhà
làm. Vì thế, những bà có tính hay nghi đoán rằng có lẽ lúc ướp thịt, hàng bún
chả có thêm “một thứ gì” (mà thứ gì đó hình như là mỡ... cầy); nhưng nhiều
người không nghĩ như thế và cho rằng tất cả nghệ thuật làm cho chả thơm ngon là
lúc đặt gắp chả lên lò than vậy.
Theo lời các bà này thì chả nướng ở nhà phần nhiều hay nướng
bằng than hồng quá thành ra mỡ ở trong gắp chả rỏ mất cả xuống than, lắm khi
lại bốc lên và làm cháy mất cả thịt bên ngoài, mà thịt ở bên trong có thể nhiều
khi còn sống.
Những hàng bún chả rong không mấy khi làm thế: cái lò của họ nhỏ
(thường là những hộp bánh qui bằng sắt tây) và chỉ có một chút than thôi.
Đặt mấy gắp chả lên, họ phe phẩy cái quạt cho than cháy vừa
hồng, thành ra mỡ trong chả không mất nhiều và chả thì âm ‘, vừa vặn, không bị
cháy, bên ngoài se mặt mà bên trong vừa chín. Thành ra thơm như thế!
Chẳng biết bảo như vậy có đúng không?
Nhưng có một điều mà ai cũng nhận thấy rất rõ ràng là nước chấm
của hàng bún chả được chế hóa một cách rất tài tình, đặc biệt. Bún chả nổi vị
chính là nhờ đó: nước mắm không mặn, giấm pha rất vừa tầm, thêm một tí hạt tiêu
và ớt vào, chấm bún và rau ăn cứ êm lừ đi thôi, không bao giờ xóc mà cũng không
bao giờ cứng.
Chính cái thứ nước chấm đó làm cho người ta nhớ bún chả vô cùng,
đã ăn một bận không thể nào quên được. Hơn thế, có người lại còn ghiền nữa. Tôi
vẫn nhớ đến tận bây giờ một bà cụ ở Nghệ, trước đây, vẫn ra cất hàng ở nhà tôi,
mê bún chả lắm, hễ chuyến nào ra Hà Nội là y như phải ăn bún chả kỳ cho thỏa
thích. Nghĩa là bất cứ nhà nào mời bà ta xơi cơm gà cá gỏi, bà cũng khước từ,
chỉ toàn một ngày hai bữa bún chả - mà ăn cứ như thể là chan nước chấm...
Bún chả có tiếng ở Hà Nội bây giờ không có mấy, không phải vì
làm kém, nhưng chính vì hàng nào cũng sàn sàn như nhau. Nhưng hàng bún ở trên
chợ Đồng Xuân ít khi vắng khách; các bà hàng phố, sau khi mua bán, thường vẫn
ngồi ăn uống tự nhiên trên những tấm ghế dài, trước những cái lò nướng chả,
khói bốc mù mịt và thơm phưng phức. Ai có tính ngượng nghịu, không dám ngồi
thưởng thức miếng ngon Hà Nội ở những chỗ đông người, có thể tìm đến một cửa
hàng bún chả có tiếng ở phố Gia Ngư - một hàng nho nhỏ xinh xinh, khá nổi tiếng
và đông khách lắm.
Đây có lẽ là cửa hàng bún chả thứ nhất ở Hà Nội, vì từ trước đến
nay, bún chả chỉ gánh bán rong ở đường hay bán quán ở trong chợ mà thôi. Ngoài
bún chả, nhà hàng này chỉ toàn bán quà Việt Nam như bánh tôm, chả ràn và thang,
nên những người thèm nhớ quà đất nước lấy làm thú vị, hay năng lui tới - nhất
là các bà, các cô xót ruột thường ưa thưởng thức những quà gì mát, có giấm
chua, có ớt và rất nhiều rau sống.
Trái với bún chả, món cuốn, trước kia chỉ ăn vào dịp Tết và do
người nhà làm lấy thì bây giờ ở Hà Nội lại thường thấy bán rong ngoài phố - và
bán gánh như bánh đúc, bánh tro, bánh bèo, bún chả hay cháo sườn.
Ăn món này, được một cái là lạ miệng, chớ thực ra thì không biết
thế nào là ngon đặc biệt.
Bởi vì cuốn quanh quẩn chỉ có mấy thứ: tôm, thịt, củ cải khô và
vài thứ rau như mùi, thơm cùng với bún cuộn vào trong một lá rau diếp, ăn với
giấm cái và chấm nước mắm cà cuống, nên phần nhiều cái ngon không được trội
hẳn, nhưng không phải vì thế mà món cuốn không làm cho ta thích thú.
Tôi thích cái thứ cuốn chính do tay mình cuốn lấy, dùng bún “con
bừa” mỗi miếng to độ bằng con dao bài, cho thật vừa giấm cái, tay thì gắp món
này món nọ mà miệng thấy thèm được ăn ngay.
Giây phút chờ đợi đó làm cho cái vị ngon của cuốn tăng thêm lên
nhiều. Chấm vào chén nước mắm cà cuống rồi đưa lên miệng, cuốn đem lại cho ta
một cảm giác dịu hiền, mát ruột, ăn một rồi lại muốn ăn hai - mà ăn thì ăn to
mới thú, ăn cuốn mà nhỏ nhẻ thanh nhã phần nhiều là mất ngon đi.
Đó cũng là một sự đáng tiếc cho những người thích ăn ngon vậy.
Trái với cuốn, thang lại càng ăn cho thật nóng rẫy lên bún chần
kỹ đơm ra từng bát rồi trứng tráng, giò thái chỉ, thịt gà băm với nấm hương,
ruốc, tôm he, rau răm cũng băm nhỏ; giữa, một hai miếng trứng muối đỏ như hoa
lựu: tất cả những thứ đó tạo thành một bức họa lập thể có những màu sắc rất bạo
mà lại ưa nhìn trông vui mà lại quý.
Quý, nhưng mà làm cho thang ngon, nhất định là phải nhờ ở nước
dùng nấu cách nào cho thật ngọt, mà đừng béo quá, lúc chan vào bát bún nóng cứ
bỏng rẫy lên. Lúc đó, một chút mắm tôm cà cuống đệm vào làm tăng vị của thang
lên đến cái mức ăn ngon gần như “không thể nào chịu được”, nhất là thỉnh thoảng
ta lại đệm vào một miếng củ cải trắng nõn trắng nà, ngâm nước mắm tốt, nhai cứ
giòn tanh tách.
Trước kia, thang và cuốn là hai món ăn quý, chỉ dùng vào ngày
giỗ chạp hay trong dịp Tết - vào hôm hóa vàng.
Nhưng bây giờ thì thang và cuốn đã được bình dân hóa, ngày nào
cũng có bán ở các cửa hiệu, ở chợ, ở các hàng “cơm tám giò chả” và bán cũng vẫn
chưa được lấy gì làm đắt; tuy vậy, thang và cuốn cũng vẫn chẳng lấy gì làm phổ
thông.
Kể về quà bún, mà phổ thông hơn cả, là bún riêu. Thứ bún để dùng
trong món quà này không phải là bún lá nhỏ sợi, mà cũng không phải là thứ bún
“con bừa” để ăn cuốn, nhưng là một thứ bún to sợi hơn một chút chế tại vùng Mơ,
Vẽ, không trương lên như bún khác.
Không nhiều, một bát bún riêu chỉ năm hào, một đồng thôi, nhưng
không phải vì thế mà không đẹp mắt. Bún óng mướt; chan riêu nóng lên trên, lấp
la lấp lánh, màu gạch cua sắc tím điểm những chấm vàng kim nhũ li ti giữa vài
cái dong cà chua hồng tái; rồi gia một tí mắm tôm vào, ăn với rau diếp non thái
nhỏ như những sợi chỉ xanh... Đó là một món quà cổ kính, có thể bảo là quê mùa
được, nhưng tôi đố ai trông thấy một mẹt bún riêu của người bán hàng dâng lên
trong khói xanh nghi ngút mà lại không thèm và bảo “quà Việt Nam rẻ, không cầu
kỳ mà quả là ăn ngon ra dáng!”
Cũng làm với thứ bún to sợi đó, còn quà canh bún nữa, cũng nấu
với cua đồng, nhưng thêm mấy món rau rút ăn mát mà làm tăng cái ngọt của chất
cua đồng lên bội phần. Nhưng đây là một cái ngọt chất phác của đồng ruộng, một
cái ngọt thật thanh, một cái ngọt khác hẳn với cái ngọt của bún bung hơi ngậy.
Ai thích ăn quà bún mà xao những mỡ lên thì nên nếm món này; có
bún mát, có nước dùng ngon, điểm mấy miếng đu đủ; dăm sợi dọc mùng, vài miếng
sườn, nấu với cà chua và một chút nghệ óng ánh một màu vàng vương giả trông
thật là vui mắt.
Nhưng mà đẹp mắt hơn và được nhiều người thèm hơn nữa có lẽ là
bún ốc. Đó là một thứ quà, có thể bảo là đã đạt được tới cái đích nghệ thuật ăn
ngon của người Hà Nội.
Ờ, ta cứ thử ngồi mà nghĩ thì có thứ quà gì lại lạ lùng đến như
thế bao giờ? Chỉ mới trông thấy người đàn bà gánh hàng đi qua trước mắt, ấy thế
mà ta đã bắt thèm rồi, bao nhiêu thóa tuyến đều như muốn làm loạn, không ngớt
tăng cường nước miếng của ta.
Nhất là khi người bán hàng đỗ gánh xuống, xếp những khoanh bún
trắng to bằng đồng bạc lên trên cái mẹt đệm một tờ lá chuối xanh, thì có thể
nói ta gần như không thể chờ đợi lâu hơn nữa, phải ăn ngay không có thì khổ
lắm.
Ấy là vì cái món ốc lõng bõng trong bát giấm nó quyến rũ người
ta một cách thi vị quá: ốc béo cứ mọng lên; bỗng đậm, lại loáng thoáng dăm nhát
khế, vài cái dong cà chua ngầy ngậy; nhưng tất cả những thứ đó có thấm vào đâu
với làn váng nổi lên trên liễn giấm, óng a óng ánh vàng thắm như vóc nhiễu...
Gắp một khoanh bún lên chấm vào nước bỗng, hay húp một tí bỗng
đó rồi gắp một con ốc lên điểm vào, anh sẽ thấy rùng mình một cách sảng khoái
vì cái chất anh mới húp vừa thơm vừa ngậy, rơn rớt chua lại cay đáo để là cay.
Ăn xong một mẹt bún như thế, nhiều khi chảy nước mắt ra, như
khóc. Nhất là các bà các cô thì ngượng quá, nhưng có biết đâu rằng nhiều khi
giọt lệ đó, có người lại còn thấy ý nghĩa hơn giọt lệ tình, mà ta vẫn thấy nhắc
nhở trong những tiểu thuyết hạ giá ca tụng những mối tình đau ốm.
Ai muốn thanh cảnh, chỉ ăn bún với đậu chấm nước mắm chanh ớt
cũng thấy hay. Bún ăn với lòng là một món quà bây giờ phổ thông ở các cửa chợ
và dân các phố đông người qua lại; thưởng thức với mắm tôm, chanh ớt, lòng
tràng, ruột non, cổ hũ và gan phổi, cũng là một thú đặc biệt - mà giá có một
chén rượu đưa cay, cũng chẳng... chết ai!
CHẢ CÁ
Nhưng rượu uống thật ngon, uống mãi không say, uống quên cả trời
cả đất thì là rượu uống trong những bữa chả cá mà người Hà Nội vẫn ưa thưởng
thức vào những buổi tối mưa sa gió lạnh.
Có ai cùng với người bạn thiết, một đêm, trèo lên một căn gác
cũ, ngồi vào một chiếc bàn con, vừa nhắm nhót chả cá mà lại vừa nhìn xuống con
đường mưa bay mà xem người ta đi lại như trong một cái đèn kéo quân tháng Tám,
mới có thể biết rằng ăn chả cá ở hiệu thú vị đến chừng nào. Ăn ở nhà, nó tẻ mà
ít khi ngon thật sự.
Tôi không hiểu các ông Tàu nhiễu sự, mua chả cá ở Hà Nội rồi
đóng bồ, cùng với mắm tôm và các thứ rau, đi tàu bay để đem về Hương Cảng chén
với bà con bên đó thì phong vị chả cá ra thế nào?
Riêng tôi thì thấy có một cái thú riêng được thưởng thức chả cá
trên căn lầu một cửa hiệu cũ kỹ - mà cửa hiệu đó phải là ở phố hàng Chả Cá -
chật chội, tối tăm, thấp bé, mà bàn ghế thì mộc mạc và ám khói - nếu không muốn
nói là không lấy gì làm sạch lắm.
Có lẽ đó chỉ là một cách nại tính, cũng như người ăn thuốc quen
tiệm mà thôi; nhưng tôi nghiệm thấy rằng chả cá mà bán ở chợ hay là bán ở một
phố khác phố Chả Cá, đều là không “thọ”, hay là được rất ít người biết đến.
Cũng vậy, chả cá làm ở nhà cũng kém ngon và do đó không được
hoan nghênh mấy, cho nên chồng thấy rét về thèm bữa chả cá, thường là dắt vợ đi
ăn hay vợ muốn đổi bữa cho chồng, vẫn đề nghị “hay là ta lên chả cá?”
Đi ăn như thế, mà gặp hôm trời lạnh thì nên đi sớm sớm. Muộn một
tí, thường là đã hết rồi vì chả cá ngon chỉ có hai hàng ăn được - mà hai hàng
đó thường là đông khách, lắm khi phải đứng đợi mới có chỗ mà ngồi.
Đứng ngoài mà trông, thèm lắm; nhưng thú hơn, là cái không khí
trên lầu; thoạt để chân lên là mình đã thấy ấm cúng ngay; sự ồn ào, tấp nập,
tuy có làm cho mình hoa mắt lên một tí thực, nhưng mà vui đáo để.
Trẻ hầu bàn chạy cứ nhốn nháo cả lên. Đây, một ông rượu đã ngà
ngà kêu bún; đó, một gia đình phàn nàn gọi mãi “hai chụp gắp chả mà chưa thấy
đưa lên”, lại này một cậu bé hầu bàn nói như bắc loa để cho mọi người nghe
tiếng: “Thưa các cụ, hết cả chả lòng rồi ạ!”
Từ các bàn ăn khói bốc lên nghi ngút, những trông đã đủ ấm rồi.
Đưa cay một cốc mai quế lộ nhấm nháp với lạc rang, ta ngồi đợi chả mà như cảm
thấy có bàn tay bé nhỏ cù vào tim. Đời người đẹp quá.
Người nào người nấy đều như tìm thấy chân hạnh phúc ở cái ăn,
chuyện trò ầm ĩ, bàn tán, chê trách từng cái rau, từng chiếc đũa, từng mảnh
giấy lau tay, và đôi khi lại dỗi hay ghen với bàn bên cạnh. Có ông cầu kỳ hơn
một chút lại gọi lấy một cái lò đất con rừng rực than hồng để lên giữa bàn, rồi
đặt lên trên một cái sanh con; trong cái sanh con đó, người khách sành ăn, lát
nữa, sẽ trưng mỡ rồi nhúng từng miếng chả vào; hay sau khi chán miệng thì cho
hầm bà là cả bún, cả rau thìa là vào đó, đập một quả trứng rồi xào hẩu lốn lên,
lấy ra bát để ăn cho thực nóng.
Bởi vì cái chả cá này, muốn ăn cho thật thú, lắm khi cũng phải
cầu kỳ một chút, không thể nào xong thôi. Nhất là các gia vị thì có những thứ
không thể nào thiếu được: hành, mắm tôm, chanh, ớt, lạc rang, bánh đa vừng...
Còn về rau cũng không nhiều, nhưng thiếu một thứ, bữa chả kém vẻ ngon đi nhiều
lắm.
Đầu vị là rau thìa là và
hành hoa. Sau khi đã sửa soạn các đĩa rau và các gia vị xong rồi, mời ông nâng
chén nhắm “chay” vài củ lạc hay mấy miếng bánh đa; nhà bếp đem chả gắp lên, gỡ
ra bát, rồi phủ thìa là rưới mỡ nóng lên là ta lên đũa... nhắm ngay đấy, đừng
có để trùng trình mà nguội!
Trên lớp rau thìa là êm
ái mướt xanh như nệm cỏ, những miếng cá nục nạc màu vàng nghệ nằm thảnh thơi
như những đứa bé nằm chơi ở cánh đồng quê trông thật ngộ nghĩnh và đẹp mắt.
Tiếng mỡ nóng phi hành
hoa rưới lên kêu lép bép mới làm cho lòng khách ăn rộn ràng làm sao! Một miếng
bún, một miếng bánh đa, rồi hành tây, hành ta, rau thơm, mùi, lạc rang, kèm một
hai miếng chả chấm đẫm mắm tôm chanh ớt, và từng miếng to, sau khi đã đưa cay
hớp rượu, khà khà! Béo quá, bổ quá, bùi mà thơm ngon quá...
Rượu đã ngà ngà rồi, ông
đảo mắt nhìn chung quanh gian gác mờ mờ trong bóng tối, mỗi bàn có khói xanh
nghi ngút bốc lên cao rồi nhẹ tỏa trên những cái xà nhà vàng thẫm màu bồ hóng
mà nước vôi trắng không thể che lấp được, ông tưởng tượng mình là một nhân vật
trong chuyện Tầu xưa, ngồi nhắm rượu trên một tầng lầu của một thứ Bồng Lai
quán.
Ngon lành mà ấm bụng quá,
hiền huynh ạ! Có thể như thế này cứ ngồi cả sáng đêm. Chả hiểu, họ làm cách nào
mà tài thế? Ở nhà, mình đi kiếm cá chiên, cá lăng hay cá nheo tươi để làm nhưng
chả vẫn không được se mặt, nướng lên vẫn nát, mà nướng quá tay một tí thì lại
khô xác, ăn không ngậy. Ở hiệu, chả bao giờ cũng vừa vặn, không sống mà cũng
không khô. Hơn thế, vị của nó lại đậm đà, thơm phức, quyến rũ lạ lùng. Sở dĩ
được như thế, có người bảo tại hàng chả cá có một bí quyết là gia một chút “mỡ
cầy” vào cá khi đem ướp - chẳng biết có đúng không?
Tài nhất là điểm này: chả
cá ăn không tanh. Tôi đã từng thấy nhiều người sợ cá lắm, động món gì có cá là
không ăn được, vậy mà thử dùng hai ba lần món chả cá thì thấy thích, rồi đâm ra
nghiện, mùa rét đến mà không được thưởng thức thì cho như là đã bỏ lỡ một dịp
gì tốt lắm.
Vì thế có nhiều người ở
các tỉnh xa về chơi Hà Nội vào dịp mùa đông không thể bỏ qua được món chả cá và
những người Hà Nội có khách lạ về thăm, nhiều khi không nghĩ ra cách nào mời ăn
khác hơn chả cá, vì theo ý họ, chỉ có chả cá mới là phong vị đặc biệt mà các
nơi không có.
THỊT CẦY
Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca
tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng
thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy,
người ta quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao
la hiu quạnh... huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao?
Thực vậy, có ai một buổi chiều lất phất mưa xanh, trời căm căm
rét, mà ngả một con cầy ra đánh chén với đôi ba bạn cố tri mới có thể cảm thấy
rằng không phải đời lúc nào cũng không đáng để cho người ta sống.
Rõ rằng là mình đương buồn muốn chết, người ủ rũ ra, mà “làm một
bữa” vào, chỉ giây lát là “nó sướng tỉnh cả người ra”, không chịu được. Tôi có
thể cam đoan với các anh: một người thất tình, muốn đi tự tử, nếu người ấy biết
thưởng thức món thịt cầy, mà các anh lại mời y dùng chơi chút đỉnh rồi muốn đi
chết đâu hãy chết, tôi có thể tin rằng mười bận thì chín bận ăn xong anh ta sẽ
đổi ý định ngay.
Là vì đời có thịt cầy, thỉnh thoảng ăn chơi một bữa ta thấy nó
cũng bõ để cho ta sống, mặc dầu có nhiều lúc cái kiếp con người còn khổ hơn cả
cái kiếp con chó vài ba bực.
Lo cho con học, vợ hỏi tiền làm giỗ; phắc tuya đèn chưa trả;
nhân tình dọa bỏ đi; cuối tháng, lại phải đến chủ nhà hỏi xem hắn có bằng lòng
cho thuê nữa hay không... bao nhiêu nỗi lo âu khốn nạn làm cho lòng người ta
day dứt!
Những lúc đó, ăn vàng vào miệng cũng không ngon. Ăn vàng vào
miệng không ngon, nhưng ăn một miếng chả chó, ta lại muốn ăn hai để chờ món tái
đem lên, ta vừa nhắm nhót vừa suy nghĩ trong khi đợi món dựa mận, chết chết!
Sao nó ngầy ngậy, béo béo, ngòn ngọt mà lại có thể thơm đến thế!
Ta tự bảo: “Ờ mà, sống ở đời bất quá nhiều lắm cũng chỉ đến sáu,
bảy chục năm là cùng. Mà trong sáu, bảy chục năm đó, ngày vui quá ít, lo âu,
sầu não lại nhiều, thế thì tội gì lại chuốc phiền khổ vào người cho mệt!
Ngả con cầy ra đánh chén! “Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó,
chết xuống âm phủ biết có hay không?”.
Thôi thì được ngày nào hãy cứ biết chiều ông thần khẩu ngày ấy
đã, sau ra sao sẽ liệu. Ấy thế mà chưa biết chừng ăn một bữa cầy vào, cái vận
mình nó lại chuyển hung thành cát, chuyển đen thành đỏ thì lại càng hay, chớ có
sao đâu?
Thật vậy, thịt cầy ở nước ta không phải là một món ăn như thịt
dê, thịt lợn, nhưng nó lại còn là một niềm tin tưởng trong dân gian nữa.
Vận đương xúi quẩy, ăn một bữa thịt chó vào, người ta rất có hy
vọng giải đen. Đánh bạc thua liền ba đêm, này! Ăn một bữa thịt chó, có người gỡ
lại hết cả tiền thua, mà lại còn được thêm là khác. Thử hỏi trong tất cả các
món ăn trên thế giới có món ăn nào khả dĩ lại di chuyển được vận hạn của con
người đến thế hay không?
Nhưng dẫu sao, chuyện di chuyển vận hạn cũng là chuyện của tương
lai huyền bí. Nói ngay chuyện thiết thực ở trước mắt mà chơi.
Một chiều mưa phiêu phiêu ở chốn đồng ruộng căm căm gió rét, không
đi chơi đâu được, mà trải một cái chiếu lên thềm gạch ngô, đưa cay vài chén
tửu, trước mặt có một mâm thịt chó làm đủ các món: chả, tái, cary, dựa mận,
chạo, nem... riêng cứ trông thôi, ta cũng đã thấy lòng phiêu phiêu như mở hội
rồi.
Thịt luộc đỏ tươi, bì vàng màu da đồng, đặt bên cạnh đĩa rau
húng chó; vài dĩa riềng thái mỏng tanh; chả nướng, béo ngậy, màu cánh gián; đĩa
bún trắng bong nằm cạnh những bát hầm dựa mận màu hoa sim; những liễn xào nấu
với chuối “chưa ra buồng” thái con bài; những đĩa dồi tươi hơn hớn, miếng thì
trắng, miếng thì hồng, miếng thì tím lợt, đôi chỗ lại điểm những nhát hành xanh
màu ngọc thạch... tất cả tiết ra một mùi thơm làn lạt như mùi hoa đồng thảo lại
ngồn ngộn như mùi thịt gái tơ... xin hỏi có ai mà chịu được, không thưởng thức
một hai miếng làm duyên?
Người chưa ăn bao giờ ăn thử một miếng lại muốn ăn hai, còn
người đã biết ăn rồi thì phải nói rằng trông thấy thịt chó mà không được ăn thì
buồn bã ủ ê, nếu không muốn nói là bủn rủn chân tay, bắt chán đời muốn chết.
Thôi, hãy xếp mọi thứ ưu phiền lại, cầm đũa “làm” mấy miếng đi,
người anh em! Xin mời! Rượu này là thứ rượu sen cất ở Tây Hồ nhưng không xóc,
uống vào một tợp mà như uống cả một làn sen ngào ngạt của Hồ Tây ngạt ngào vào
bụng.
Nhắm một miếng dồi, lại đưa cay một tợp rượu, rồi khẽ lấy hai
ngón tay nhón một ngọn rau húng điểm vào một vị hăng hăng, man mát cho tất cả
cái bùi, cái béo, cái cay, cái mát, cái hăng quyện lấy nhau, anh sẽ nói với tôi
cảm tưởng của anh ra thế nào... Quả vậy, nếu sau này, người ta chết xuống âm
phủ mà không có dồi chó để ăn thì âu cũng là một mối hận thiên thu mà ta cần
phải đề phòng ngay tự giờ.
Oc chó có tiếng là ngon, nhưng có ý vị, càng ăn càng thấy ngon
thì chính là dồi chó. Sao mà lại có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra
được cách làm một cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu
đến như thế, hở Trời?
Gắp một miếng chấm muối chanh, rồi đưa cay một hơi rượu, ta thấy
tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đỡ nhau, đoàn kết
nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái
mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự
nhất trí tạo thành.
Ai cũng đã ăn dồi lợn, và ai cũng ăn dồi của người Tây mà ta
thường gọi một cách nôm na là “sốt sích”.
Bằng thế nào được dồi chó, phải không ông? Dồi chó làm khéo thì
cái ruột phải ken kỹ cho mỏng như tờ giấy, đến lúc ăn vào nó cứ giòn tan, không
mềm lừ những tiết như dồi lợn, mà cũng không bã như rơmi kiểu dồi tây; nhưng nó
nhuyễn lừ đi, nhai kỹ lại hơi sừn sựt, bùi béo nhưng không ngấy, ngan ngát
nhưng không nồng mùi tỏi.
Nhưng muốn thưởng thức một món cầy thật cho nổi vị, ai cũng sẽ
phải công nhận với tôi không có món gì “điển hình” hơn món chả.
Có một hôm trời lạnh bàng bạc màu chì, đứng tựa vào một hàng rào
dâm bụt xanh, hoa đỏ, ta gọi một hàng thịt chó gánh đi qua mua một đĩa chả vào
trong nhà nhắm rượu, cái ngon cũng đã “lẫm liệt” lắm rồi.
Vậy mà nói cho thực, cái ngon đó chưa thấm với cái ngon của một
món chả do một người hiền nội trợ khéo chiều chồng đã làm ra, nó tinh khiết mà
lại đủ vị hơn nhiều, ăn vào đến môi, trôi liền đến cổ, ôi, thơm phải nói là...
điếc mũi!
Là bởi vì các tiệm thịt chó, cũng như những hàng thịt chó gánh
rong, không thể nào làm các món thực công phu, thực đúng kiểu, theo như ý chúng
ta mong đợi.
Muốn làm một món chả chó thật đúng với ý thích, người ta phải
mất công phu nhiều hơn thế. Có thể bảo rằng ta phải tốn công phu y như thể nuôi
chim yến đẻ.
Trước hết, không phải là cứ có tiền ra chợ mua bất cứ con chó
nào về thịt rồi làm thành món mà ăn được cả đâu. Riêng một việc lựa con chó
“dùng” được cũng là cả một sự tìm tòi, học tập công phu rồi. “Chó già, gà non”,
câu nói cửa miệng của người ta là thế: ăn thịt gà tìm gà non mà làm thịt, chó
phải là chó già mới thú.
Nhưng thực ra, theo những người giàu kinh nghiệm, thịt chó già
thường nhạt nhẽo, mà ăn hơi bã. Muốn cho thực ngon, phải là cái thứ chó không
già mà cũng không non - cái thứ chó “chanh cốm” trung bình từ hai năm tới hai
năm rưỡi, cái thứ chó mà nếu các bà cho phép, ta có thể ví với các thiếu nữ dậy
thì “xanh lên ngọn tóc, nhựa căng vú đào”.
Song le, đừng tưởng chọn như thế mà đã đủ. Tuổi tác của con chó
mới là một điểm mà ta cần lưu ý. Còn phải lưu ý nữa là bộ lông con chó, chớ
không phải cứ là chó thì “hầm bà là” cả một lứa đâu.
Theo các chuyên viên ăn thịt chó, sắc lông ảnh hưởng tới mùi vị
của thịt rất nhiều. Cái giống chó “bẹc giê”, “pêkinoa”, cái giống chó “bát sê”
cũng như giống “phốc”, nói tóm lại tất cả các giống chó tây phương, cấm có ăn
thịt được.
Thịt cứ dai như chão rách, mà hôi quá, ăn không ra cái “thớ” gì.
Chó ăn, phải chính cống là giống chó ta, không được lai căng một tí một li ông
cụ.
Người Tàu thường cho rằng những người hen suyễn hoặc suy thận mà
ăn thịt mèo đen, không có một cái lông trắng nào, thì bổ ngang uống rượu ngâm
bách nhật hươu bao tử. Giống chó thì không thế. Cái anh chó mực không được
trọng dụng như mèo đen.
Những người sành ăn thịt chó cho rằng nhất bạch, nhị vàng, tam
khoang, tứ đốm, ngoại trừ ra đều “không trúng cách” cả - tuy vẫn biết rằng cứ
ăn thịt chó, mà lại thịt chó ta, thì đã ngon chết đi rồi...
Ấy đấy, trong bốn thứ chó bạch, vàng, khoang, đốm đó mà ta vớ
được một anh giết thịt, nhất thiết ta không thể làm cẩu thả. Trái lại, phải cẩn
thận từng li từng tí, mà có khi càng cẩn thận bao nhiêu thì lúc ngả ra đánh
chén lại càng thấy thú vị bấy nhiêu.
Bởi thế, tôi đã từng thấy có những người thui chó tử công phu y
như thể một nghệ sĩ đem hết tâm cơ ra để tạo nên một đứa con tinh thần lưu lại
cho hậu thế.
Con chó giết rồi, rửa ráy sạch cứ như ly như lau, treo lên cho
khô hết nước rồi mới thui. Thui bằng rơm. Thui cả con. Thui xong, đem ra mổ,
cắt đầu, cắt chân để riêng ra, duy chỉ lấy bộ lòng, làm thực kỹ, gia giảm đậu
xanh, hành tỏi thực thơm cho vào đấy, rồi lấy những cành lá ổi bọc thực kín con
chó lại, bọc cho dày, ngoài lại phủ một lần lá chuối, dàn hậu mới lấy bùn quánh
đắp ra phía ngoài cùng.
Đoạn bắc kiềng lên, đặt chó vào, chung quanh chất củi cho những
đầu củi chụm vào với nhau ở phía trên, kiểu những cái “tăng” hướng đạo, rồi
đốt, đốt cho cháy hết củi. Củi tàn, còn than cũng đừng bắc ra vội; cứ để âm ‘
thế, cho đến khi than tàn hẳn.
Nói thì dễ, nhưng làm trọn công việc đó cũng mất mấy tiếng đồng
hồ. Những nghe mà sốt ruột. Nhưng thử tưởng tượng lúc gỡ bùn, giở lá chuối và
lá ổi ra mà thấy con chó béo ngậy, cái da cái thịt óng a óng ánh, cách gì mà
lại không bắt thèm nhểu nước miếng ra, đòi ăn kỳ cho chết thì thôi.
Nhưng mà ăn ngay thì còn ra cái quái gì. Phí cả thịt đi: muốn
nên miếng chả, còn là lắm chuyện.
Riềng già giã cho thật kỹ, đấu với mẻ, gia thêm vào đủ mắm tôm,
để đấy cho ba thứ cấu kết với nhau thành một khối chặt chẽ, rồi mới bóp vào với
những miếng thịt thái không to không nhỏ, cứ độ vào một đốt ngón tay cái là
vừa.
Đừng lấy ra ngay. Hãy ướp tất cả chừng vài tiếng đồng hồ rồi hãy
lấy ra xếp vào một cái cặp chả, đặt lên trên than hồng mà nướng.
Này, nướng chả chó, kỵ nhất cái thứ than tây đấy nhé. Nướng bằng
củi cũng không được. Phải nướng bằng than tàu, quạt liền tay cho đỏ, mỡ có rỏ
xuống than đừng tiếc. Mỡ đó vào lửa, bốc lên thành khói, khói đó quyện lấy chả,
tạo ra một mùi vị đặc biệt không tiền khoáng hậu, thơm phưng phức nhưng không
thô, thanh thoát cao sang mà vẫn gần nhân loại. Một người đau bịnh nặng, nằm ở
bên cửa sổ nhìn ra giàn hoa thiên lý, chợt ngửi thấy mùi thịt bò xào hành tây,
có thể ngấy mà lợm giọng; một người có chứng nhức đầu tự nhiên thấy bay đến
trước mũi mùi chả lợn nướng có thể thấy khó chịu vì mùi tuy thơm nhưng có ý hơi
nóng; nhưng ngửi đến mùi chả cầy ngát trong gió hiu hiu, ta có thể chắc chắn là
người khó tính đến mấy đi nữa cũng phải thấy như cởi gan, cởi ruột.
Gắp một miếng thịt đó, đừng ăn vội, hỡi người háu ăn ơi! Cứ từ
từ, chầm chậm để làm khổ ông thần khẩu đã! Anh đưa miếng chả lên trước mắt mà
xem: miếng thịt cứ săn lại như thịt một người lực sĩ, mà bóng nhễ bóng nhại một
cách mới lành mạnh làm sao! Nó thơm quá đi mất thôi, anh ạ. Thơm quá chừng là
thơm, thơm không phải chỉ làm khổ riêng khứu giác của những người ở trong nhà
mà thôi đâu, còn làm khổ tất cả láng giềng, hàng xóm.
Ở cạnh những người ăn ngon như thế, mình lâu lâu mà không được
“thưởng thức”, cũng có khi phải phát bực lên mà “ai oán” cho cái kiếp người
không được mấy khi xứng ý...
Chả chó cũng như thịt luộc, ăn cho thật hợp giọng không nên chấm
nước mắm, mà chấm với muối chanh. Ai thích cay, ăn vài miếng lại cầm cái cuống
xanh của một trái ớt đỏ, cắn một chút, một chút thôi, rồi vừa ăn vừa suy nghĩ
thì mình dù lãnh đạm với cuộc đời đến bực nào cũng phải thương hại cho những ai
không biết thưởng thức mùi thịt chó!
Tài thế, sao mà cứ cái thịt ấy làm món gì ăn cũng cứ ngon ơ? Có
thể anh không thích tái chó, đuểnh đoảng với món nem chạo, thấy món cari chó
cũng ngon nhưng không thú vì nó không được thuần túy Việt Nam; nhưng đến cái
món dựa mận thì nhất định cả trăm người ăn thịt chó đều phải công nhận đó là
một món ăn... bất hủ!
Chẳng biết ông tổ nào nhà mình, trong một phút xuất thần, lại
nghĩ ra một món kỳ tuyệt đến như thế được?
Tôi dám nói quyết với các anh rằng có nhiều lúc ngồi thưởng thức
món đó, tôi đã từng ví với bản nhạc “Le Danube Bleu” của Johan Strauss(1), nó
dìu dặt, khoan thai, cuồn cuộn một cách êm dịu, có đôi khi lại như nhảy nhót
lên trong ánh sáng.
Ấy đấy, cái món dựa mận vào trong miệng nó cũng từa tựa như thế
đấy. Thoạt mới dùng, ta thấy nó dìu dịu, hiền hiền, nhưng điểm mấy lá húng cho
vào rồi đưa đi mấy lá bún trắng tinh, chấm với cái thứ nước quánh đặc một mầu
đào mận, ta thấy nhạc điệu khác hẳn đi, khác nhưng từ từ, chậm chậm, theo thứ
tự từng gam một, chớ không lỡ điệu, không đột ngột.
Khẩu cái ta như nhảy múa tưng bừng, có lắm lúc tưởng chừng như
có cái gì sắp “hỏng kiểu”, làm cho ta hơi sợ; nhưng tài tình là chính lúc ta sợ
như thế thì sự ngang trở uyển chuyển vượt qua một cách thần điệu và tạo nên một
nét nhạc mới thần tình đến lạ lùng.
Song đừng tưởng rằng muốn hưởng một “nhạc điệu” như thế vào
trong lòng mình là một công việc dễ dàng đâu.
Thực vậy, món dựa mận muốn ăn cho ra ăn, cần phải làm công phu
rất mực, có khi còn công phu hơn cả món chả là khác nữa. Thịt chó thơm mà ngọt,
thui vàng ngầy ngậy lên rồi, đem ra nấu dựa mận mà không quánh, đưa bát đựng
dựa mận lên ngang mặt, nheo một con mắt lại mà không thấy nổi lên những rằn ri
của bảy sắc cầu vồng, thế là chưa biết nấu.
Muốn có một bát dựa mận thật là gia dụng, ta cần phải chú ý đặc
biệt tới ba thứ nòng cốt là mắm tôm, riềng và mẻ.
Mắm tôm phải là thứ mắm tôm “tiến”, lọc cho sạch; riềng giã thực
kỹ, cần nhiều, kém thì không dậy mùi; mẻ cũng phải lọc đi lọc lại. Ba thứ đó
trộn với nhau thực đều, gia thêm hành muối vừa độ, ướp với thịt chó sống, sau
khi đã bóp kỹ rồi. Tất cả để đó, chừng một tiếng đồng hồ, chớ có đụng vào, rồi
hãy lấy ra ninh.
Chó già ninh kỹ, chó non đun vừa tới. Nhưng dù là chó già hay
chó non cũng vậy, điều phải nhớ là không bao giờ nên gia nước - dù là nước xuýt
- riêng cái tiết chó đánh vào cũng đủ làm cho nổi vị lên rồi.
Nói đến tiết chó, ta cũng nên biết một chút về cách mổ chó thế
nào cho lông tơ của chó không rụng vào trong bát tiết.
Thường thường, người ta cắt tiết chó như cắt tiết lợn. Song,
những người cầu kỳ muốn tận hưởng một bữa thịt chó thực “ra trò” không chịu làm
như thế, nhưng lại vẽ thêm ra một “mốt” xét ra cũng vô hại trong nghệ thuật “đả
cẩu” ở nước ta; họ tìm đúng cái mạch máu lớn ở nơi giữa cổ con cầy mà cắt; máu
ra, họ cho một ống tre con vào mạch máu đó và truyền tiết vào trong một cái
liễn lau rửa kỹ càng.
Sự thực, tiết đó không đặc biệt gì hơn thứ tiết cắt thường,
nhưng được một điều là không có lông tơ chó lẫn vào. Vả chăng, ai lại còn không
biết rằng đối với các ông ẩm thực rỗi rãi thì giờ quá, làm một món ăn càng cầu
kỳ, tỉ mỉ bao nhiêu thì họ vẫn thường tưởng tượng càng ngon miệng bấy nhiêu.
Trí tưởng tượng của người ta ẻo ọe y như người đàn bà trẻ đẹp:
chiều thì thích, mà quên đi một chút thì “mặt lưng mày vực” ngay...
Chính cũng vì lẽ đó, có nhiều ông ở nhà quê làm dựa mận ngon
chết đi được rồi, mà vẫn không chịu ăn ngay, lại còn cầu kỳ muốn cho nó phải
“đông” mới thú. Mà ở nhà quê, thường thường không có tủ ướp lạnh thì mới biết
làm sao đây? Đừng lo. Người sành ăn uống cầu kỳ cũng như người ghiền a phiến
vậy.
Dựa mận mà xong đâu đó cả rồi, không đụng tới mà cho vào trong
một cái hũ, bịt kín lại, lấy dây thép quấn chặt rồi trát bùn ở ngoài, lẳng
xuống đáy ao một ngày một đêm mới vớt lên. Chao ôi, có cầu kỳ một chút kể cũng
bõ cái công vất vả! Ăn miếng dựa mận đông đó, nó tỉnh người ra như con sáo sậu,
ông Ba ạ. Lạ miệng, bùi, ngầy ngậy, thơm thơm...
Quái lạ đến thế là cùng! Thịt chó chất nóng, “sốt” thì lạnh, hai
cái mâu thuẫn đó, ngồi mà nghĩ tưởng chừng như không thể nào dung hòa được với
nhau; ấy thế mà ngờ đâu nó lại y như thể là đại số học vậy; hai cái “trừ” cộng
với nhau thành ra “cộng”, lựa là cứ phải một âm và một dương!
Có người đã nói thức ăn ngon mà chỗ ăn không ngon, không ngon;
chỗ ăn ngon mà không khí không ngon, không ngon; không khí ngon mà không có bè
bạn ăn ngon cũng không ngon. Câu đó đúng. Nhưng tôi muốn thêm vào “Tất cả đều
ngon, nhưng ăn ngon mà không đúng thời tiết cũng không ngon nốt”.
Lắm lúc ngồi nhắp một chén rượu tăm cất ở Tây Hồ, thưởng thức
một mình một đĩa tái chấm muối tiêu, chanh, ớt, tôi vẫn thường nghĩ hình như
trời sinh ra thịt chó là để ăn riêng ở Bắc Việt, chứ không phải ở bất cứ đâu đâu.
Từ tháng Tám trở ra, trời Bắc Việt nặng những mây mù, đìu hiu một ngọn gió hanh
hao, lành lạnh, gợi nhiều niềm tưởng nhớ xa xưa.
Lòng mình không buồn não ruột, nhưng sầu nhè nhẹ và mình ưa cái
sầu đó, bởi vì nó không hại người mà lại nên thơ. Đó, chính ở trong tâm trạng
đó mà thưởng thức một bữa thịt chó thì không còn gì hợp lý, hợp tình, hợp cảnh
hơn.
Lòng đương lạnh tự nhiên thấy ấm; đời đương bàng bạc bỗng tươi
lên một nét đậm mầu. Một thức ăn mà có lúc thay đổi được cả nhân sinh quan của
người ta, âu cũng là một cái lạ ít khi thấy vậy.
Vì thế, nhiều khi ngồi trong nhà trông ra giàn thiên lý để cho
lòng lắng xuống, tôi vẫn thấy cần phải tha thứ cho những nhà tu hành chỉ vì quá
yêu cái đẹp, cái ngon, cất lẻn ra đi xơi thịt chó mà bị mang cái tiếng xấu là
“hổ mang, hổ lửa”.
Chao ôi, một Lỗ Trí Thâm, một Hồ Quỳ, làm sao mà chịu được sự
câu thúc của một thủ tục chật hẹp không cho người ta sống tự do - tự do tư
tưởng, tự do thưởng thức, tự do ẩm thực?
Nếu tôi có tài, tôi quyết sẽ phải viết một loại bài đăng báo cổ
xuý những nhà hữu trách trong các giáo phái nên để cho các vị tu hành “đả cẩu”
tự do, và hơn thế, lại dùng thịt chó vào trong lễ tam sinh nữa, bởi vì theo các
truyện kể trong dân gian thì dường như các ông thổ địa, các ông Thần Trà, Uắt
Lũy, kể cả vua Diêm Vương nữa, cũng ưa món ấy. Thần mà còn thích thịt chó,
huống chi là người!
Trong các truyện cũ của Tàu, người ta thường thấy có những con
hồ ly tinh gần thành chánh quả mà chỉ vì trong một lúc thèm thịt đàn ông, con
trai đã làm điều càn bậy để đến nỗi phí cả mấy ngàn năm tu luyện.
Ngồi mà suy nghĩ, tôi tưởng thịt đàn ông con trai, đối với các
con tinh cái, ngon bất quá cũng chỉ bằng đến thịt chó đối với chúng ta là cùng.
Chẳng thế mà thịt chó đã thành ra món ăn được ca tụng trên cửa miệng mọi người,
và hơn thế, lại còn đi sâu cả vào trong văn chương bình dân nữa.
Đàn ông biết đánh tổ tôm,
Biết ăn thịt chó, xem nôm Thúy Kiều.
Thịt chó, thịt cầy, thịt “sư tử đất”, bao nhiêu danh từ được đặt
ra, nhưng “làng đánh đụng” vẫn cho thế là chưa đủ, nên luôn luôn những danh từ
mới vẫn được người ta “sáng chế”, không ngoài mục đích đề cao món ăn “số dách”
kia: thịt chó còn có tên là mộc tồn - ra cái ý rằng mộc tồn là cây còn, cây còn
là con cầy; nhưng linh động và ý nghĩa chính là cái danh từ “hương nhục” - thịt
thơm.
Này, có dịp nào gặp người biết thưởng thức thịt cầy, anh thử nói
về thịt chó mà xem. Một trăm lần như một, anh sẽ thấy người ấy bắt đầu như thế
này: “Không có thứ thịt gì lại có thể thơm như nó...”
Nhưng dù thơm, dù ngon, dù ngọt, dù bùi, bao nhiêu “đức tính” đó
nào đã thấm vào đâu với cái đức tính bao quát của thịt chó trong công cuộc
thống nhất dân tâm, san bằng sự phân biệt giữa các giai cấp trong xã hội?
Thực vậy, tôi đố ai lại tìm ra được một miếng ngon nào khả dĩ
liên kết được dân ý đến như vậy, một miếng ngon mà từ vua chí quan, từ quan chí
dân, từ ông tư bản đến người làm công, thảy đều ưa thích, thảy đều dùng được,
thảy đều thèm muốn, thảy đều công nhận... “ba chê”.
Ôi, cứ nghe người ta nói thì đổ thóc giống ra mà ăn! Ăn thịt chó
là thiếu văn minh, ăn thịt chó là bẩn thỉu, ăn thịt chó là bất nhân bạc ác...
và còn gì nữa, và còn gì gì nữa!
Người ta viện lý con chó là bạn của loài người, ăn thịt chó là
mọi rợ, thế thì tại sao con ngựa, “một chinh phục cao cả nhất của loài người”
mà người u Mỹ cũng đem ra “đánh chén”? Bảo là con chó ăn bẩn, thế thì con gà,
con lợn, con cá ăn uống sạch sẽ ư?
Không. Con chó là con vật để cho người ta ăn thịt; ăn thịt chó
không khác gì ăn thịt thỏ, ăn thịt nai, ăn thịt bò. Huống chi thịt chó lại còn
ngon và bổ; vì thế tôi cho rằng mặc dầu người ta đàm tiếu thế nào đi nữa, thịt
chó vẫn cứ là một món ngon bất diệt của dân ta và tôi tin rằng: “Nước ta còn,
thịt chó còn” mà văn hóa ẩm thực của ta mai sau hay, dở là ở điểm có biết duy
trì thịt chó hay không vậy.
---------
(1) Sông Đanuýp xanh của nhạc sĩ Ao Giôhan Xtrôt.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)