BÁNH CUỐN
Có ai ở Hải Phòng, Nam Định, Thanh Nghệ chẳng hạn, về Hà Nội, mà
đã có lần được thưởng thức món bánh cuốn Thanh Trì ăn với đậu rán sốt, tất còn
lâu lắm mới có thể quên được món quà đặc biệt Hà Nội đó.
Khắp các nẻo đường, người ta vẫn được thấy những người đàn bà
mặc áo nâu dài, đội cái món quà đó đi bán từ lúc trời vừa hừng sáng.
Cơ nghiệp của họ không có gì: một cái thúng đội đầu, trên có đậy
một cái mẹt. Anh gọi, người bán hàng hạ thúng ở trên đầu xuống. Anh nhìn vào sẽ
cũng chẳng thấy gì lạ hơn: một chai nước mắm, một chai giấm, một chén ớt, dăm
cái chén, cái đĩa và mươi đôi đũa.
Thế thôi, nhưng thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi,
anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ
đi, nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ... nhớ
quá, nhớ khôn nguôi!
Hồi còn tạm lánh ở một làng vắng vẻ Khu Ba, có những buổi sáng êm
trời, tôi vẫn vọng phía Thanh Trì nghĩ đến những hàng bánh cuốn đó và thấy thèm
như thèm một hương yêu.
Nỗi “sầu Hà Nội” làm cho lòng người ta rã rời, se sắt. Lúc đó,
mặc hết cả, người ta chỉ còn biết cầm lấy cái gậy mà đi ngay, đi đến bất cứ chợ
quê nào cũng được, miễn là có hàng bánh cuốn để ngồi sà xuống một cái ghế nào
đó, ăn một đĩa bánh xem có thể vơi được phần nào sự thèm khát miếng ngon Hà Nội
không.
Không tài nào vơi được. Tôi đã đi nhiều chợ quê, ăn thử hết các
mặt bánh cuốn, nhưng hoặc là bánh tráng dày quá, hoặc là bột xay nồng quá, hoặc
là hành mỡ gia thô quá nên bánh nào cũng vậy chỉ làm cho tôi nhớ hơn thứ bánh
cuốn Thanh Trì.
Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng hành mỡ thoa
vào mướt mặt mà nếm vào thì thanh nhẹ, mát rượi đi. Ở trong thúng, bánh được
xếp thành lớp kiểu như bực thang, trên những lá chuối xanh trong màu ngọc
thạch; sắc trắng của bánh nổi bật lên nhưng nổi bật lên một cách hiền lành; và
người ta tưởng tượng đến những người con gái bé nhỏ đứng ở dưới tầu tiêu đẹp một
cách kín đáo và lành mạnh.
Ngay từ lúc trông thấy bàn tay người bán bánh bóc từng chiếc
một, rồi cuộn lại một cách lơ là, bày trên những chiếc đĩa khiêm nhường, ta đã
thấy yêu ngay những cái bánh óng ả, mềm mại đó rồi. Có khi đương cầm đũa, ta
muốn bỏ ngay ra để lấy ngón tay nhón từng chiếc bánh đưa lên cho khẽ chạm lấy
môi ta như kiểu một cái hôn yêu trong buổi trao duyên thứ nhất.
* * *
Bánh thơm dìu dịu, êm êm. Cầm một chiếc, dầm vào trong chén nước
chấm rồi đưa lên miệng, ta sẽ thấy cả một sự tiết tấu nhịp nhàng của bánh thơm
dịu hòa với nước chấm dịu hiền, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không
cay quá.
Pha được một thứ nước chấm vừa ngon như thế, cũng đáng kể là
tài. Có biết bao nhiêu nhà, nước mắm thì dùng nước mắm gia dụng, giấm thì chọn
thứ giấm thực của Tây, mà pha một chén nước chấm như của người bán bánh không
tài nào được.
Vì thế, nhiều người ăn bánh chuyên chú nhất về nước chấm rồi mới
xem đến bánh có mỏng và óng mướt không. Đương ăn ngon, mà gần hết, thiếu mất đi
một tí nước mắm, phải pha lấy ở nhà, có thể coi như là hỏng một bữa quà.
Nhà pha lấy, không tài nào được, dù là đã pha một chút nước sôi
và đường vào nước mắm rồi; nước mắm đó thể nào cũng có một cái gì ngang, hoặc
mặn quá, hoặc chua quá, cứng quá hay có khi nhạt quá.
Để làm nổi hẳn vị của nước chấm lên, người hàng bánh thường gia
thêm vào chai nước chấm một hai con cà cuống băm nhỏ, nó đem đến cho ta một cái
thú đậm đà hơn là cái thú cà cuống nước bán từng ve nhỏ ở các hiệu bán đồ nấu
phố Hàng Đường.
Ai muốn ăn nước mắm không giấm, nhưng vắt chanh xin tùy ý. Ơt,
lấy cay lắm hay vừa, cứ việc theo sở thích của từng người.
Ta chấm chiếc bánh trắng vào trong chén nước chấm màu hổ phách,
đưa lên miệng và chưa nhai đã tưởng như bánh “chưa đến môi đã trôi đến cổ” mất
rồi...
Cái ngon của nó dịu hiền, óng mướt, nhưng đối với một số người
thì có lẽ như thế hơi có ý “thanh nhã” quá nên người ta thỉnh thoảng đã điểm
vào một miếng thịt quay ba chỉ, bì giòn tan. Một thứ thì mềm mà thanh, một thứ
thì nục nạc mà lại giòn, tạo ra một “mâu thuẫn” cũng hơi là lạ.
Nhưng ăn bánh cuốn Thanh Trì, không gì trác tuyệt hơn là điểm
vào mấy miếng đậu thật nóng, rán thật phồng trông óng a óng ánh như kim nhũ.
Chẳng hiểu bây giờ ở Thanh Nghệ, Nam Định, Hải Phòng đã có ai
làm được đậu phụ ngon chưa, chớ vào khoảng mười lăm năm trở lại đây thì cái thứ
đậu phụ rán thật phồng, ăn bùi mà không chua, quả là một thức ăn đặc biệt Hà
Nội, không nơi nào làm được.
Tôi còn nhớ vào khoảng ba mươi năm trước đây có một ông ở Nam
Định, sành đi hát cô đầu và sành ăn, mỗi tháng thế nào cũng đảo lên Hà Nội một
lần. Cố nhiên, ông đi lên như thế không phải là vì công việc, mà chính là để
“đổi không khí” cô đầu, nhưng sau những đêm hành lạc, thể nào ông cũng phải về
thật sớm ở nhà để ăn quà.
Ấy là vì nhà tôi trông sang phố Hàng Hòm, mà ở đầu phố Hàng Hòm
thời đó có một hàng cơm chuyên rán đậu thật sớm để bán cho những người ăn bánh
cuốn Thanh Trì.
Củi trong lò nhóm to, mỡ đầy lòng chảo hò reo lách tách. Một
người đàn bà ngồi trong bóng tối lấy đũa vớt những cái đậu rán đã già rồi đập
đập vào bên thành chảo mấy cái, đặt lên hai thanh tre bắc ngang chảo để cho mỡ
rỏ xuống cho kỳ hết. Nhưng có bao giờ đậu để được lâu đâu: mẻ này chưa xong thì
đã có người đến mua mẻ khác rồi. Quang cảnh vừa ấm nóng mà lại vừa yên vui đáo
để.
Hàng đậu rán ấy bây giờ không còn nữa. Cùng với cửa hàng đó, cái
thứ đậu thái dài bằng ngón tay cũng không còn. Bây giờ, ở các chợ cũng có người
bắc chảo rán đậu để bán, nhưng đậu thái một kiểu khác, to bản hơn mà cũng có vẻ
dày hơn xưa, tuy vậy ăn với bánh cuốn vẫn hãy còn ngon lắm.
Nói như vậy thì muốn thưởng thức bánh cuốn Thanh Trì với đậu rán
sốt, người ta cứ là phải ở gần chợ hay sao?
Nhiều nhà, ăn uống cẩn thận, thường mua đậu đem về rán lấy. Bánh
cuốn và nước chấm xếp đặt đâu đấy cả rồi thì trong nhà rán đậu vừa chín, bưng
ra từng mẻ nhỏ dăm ba chiếc một, để nhà ngoài ngồi ăn.
Ăn hết đến đâu thì lại bưng thêm lên đến đấy. Như thế, đậu nóng
hổi mà lại giòn. Ăn bánh cuốn cần phải thế; trong cái giòn của vỏ đậu lại có
cái mềm của lòng đậu thành thử lúc nhai, cái nóng hòa hợp với cái mát, cái giòn
hòa hợp với cái mềm, tạo thành một cái gì vừa dẻo, tiết tấu như bản nhạc nhè
nhẹ, trầm trầm.
* * *
Ngoài bánh cuốn Thanh Trì ra, còn có nhiều bánh cuốn khác, mỗi
thứ có một vị khác nhau. Bánh cuốn nhân mộc nhĩ, thường bán gánh, dày mình mà
ăn vào hơi thô, nhưng nhai sậm sựt cũng có một cái hay riêng.
Thứ bánh cuốn trong có chiên một ít hành tai tái, ăn hôi mà mất
vẻ thanh. Đáng kể hơn là thứ bánh cuốn nhân thịt hiện nay bán nhiều ở các nẻo
đường, trong những gian nhà thấp bé, tối tăm: một người con gái nhà nghèo ngồi
bên cạnh một hai nồi nước nóng, trên có căng một mảnh vải phin mỏng, múc từng
thìa bột xay sẵn, tãi ra trên vải, rồi tra nhân vào bánh, cuộn lại rồi hấp lên.
Nhân thứ bánh này làm bằng thịt lợn băm nhỏ, gia hành với một
chút mộc nhĩ vào.
Bánh làm xong, người ta phết một chút mỡ rồi rắc một ít ruốc tôm
lên mặt bánh.
Bánh này ăn nóng, bùi, ngẫm nghĩ thì cũng có một cái ngon riêng,
nhưng chóng chán. Có lẽ cũng vì thế mà người ta luôn luôn tìm cách đổi vị đi:
ai thích lạp xường thì có thứ nhân lạp xường, ai thích thịt gà thì có nhân thịt
gà - và có nhà treo biển ở cửa gọi thế là “bánh cuốn nhân cải cách”! Buổi sáng
mùa thu, đi qua một hàng bánh cuốn “cải cách” đó, thấy khói tỏa nghi ngút từ
nồi nước hấp bánh lên như phủ những cái bánh đã hấp rồi trong một lớp the mơ
hồ, khách đi đường cũng thấy nở lên một cái thú dùng thử dăm ba chiếc.
Ăn vào đến đâu, ấm ngay lòng đến đấy. Thú hơn một bực là mình
được ngồi ngay đầu quán mà ăn, được chiếc nào, ăn chiếc đó, thiếu nước chấm thì
gọi lấy thêm ngay.
Ở nhà, mỗi lúc đâu đã có cái thú tự nhiên như vậy? Mình lại thấy
bắt thương cho những ông khệnh khạng, ăn một miếng giữ gìn một miếng, chỉ sợ
ngồi ở “đầu đường xó chợ” thì “nhĩ mục quan chiêm”.
Ôi chao! Cứ ăn cho thích cái thần khẩu đã! Những lúc đó mình
thấy ái ngại cho những vị tổng trưởng, bộ trưởng và giám đốc, không biết có bao
giờ được thưởng thức quà như thế này không?
Thường thường, bánh cuốn nhân thịt vẫn bán vào buổi sáng, nhưng
ban đêm những cửa hàng bánh cuốn đó mở cửa để bán cho khách chơi đêm, những con
bạc hay những ông vua “ăn thuốc” không phải là không có nhiều.
Trong những cửa hàng này, được nói đến nhiều nhất là hàng bánh
“bà hai Tàu” ở chợ Hôm. Đó là một gian hàng bé nhỏ và tiều tụy, ngoài bán đồ
thiếc, ngổn ngang những tấm tôn kêu loảng xoảng. Hàng bánh cuốn dọn ở bên
trong.
Một cái bàn con để người bán hàng bày những cái bát nhân và cạnh
đấy, một cái bàn khác và bốn cái ghế tồi để cho khách ngồi: đó là tất cả cửa
hàng. Nếu ông là người thấy khung cảnh đẹp mà xơi quà mới ngon miệng, xin đừng
vào! Người khách vào ăn ở đây bình dân lắm, nhất là phải biết chờ đợi, chứ vào
mà muốn ăn ngay, không được.
* * *
Bà hai Tàu bán một ngày hai buổi bánh: buổi sớm từ sáu, bảy đến
mười giờ, và buổi tối từ chín, mười giờ đến một giờ khuya. Thường thường, cả
hai buổi đó đều đông đảo khách ăn, phần đông là những người cầm bát đĩa đến mua
về nhà, ai đến trước mua trước, ai đến sau mua sau, có khi phải sắp hàng, thành
thử có khi mười giờ mình đến trông thấy người ta mua về kìn kìn, mà mình cứ
phải ngồi đợi thèm nhỏ nước miếng, bực không thể nào chịu được.
Đặc điểm của bánh cuốn ở đây là bột bánh nhỏ mà mịn - áng chừng
là gạo dùng để xay thành bột được nhà hàng chọn toàn thứ gié cánh, tám thơm.
Ngoài ra, nhân bánh cũng như các hàng khác, hoặc thịt lợn mông,
hoặc thịt gà, còn nước chấm thì cũng tạm vậy, không có gì đặc biệt.
* * *
Thích dùng bánh cuốn nhân, mà thật là muốn chiều vị giác, người
ta cần phải hơi cầu kỳ một chút: xuống phố Lê Lợi, tìm đến một hiệu riêng -
hiệu Ninh Thịnh - chuyên bán mấy thứ quà Việt Nam: bánh cuốn, xôi vò, chè
đường. Ăn ở đây, người ta có cảm tưởng ăn quà ở ngay chính nhà mình. Một phòng
khách kê cái sập, bộ sa lông; tường vẽ hoa xanh đỏ; đây đó, một vài bức vẽ lồng
trong khung kính. Ở ngoài, không có cửa hàng. Ông bà biết thì vào dùng thử mấy
món quà, chớ không có bày bán hay kêu la ầm ĩ.
Bánh cuốn ở nhà này đặc biệt về điểm nhân thịt nhưng không ăn
nóng, mà ăn nguội. Hình dáng cũng khác hẳn mọi nơi, không tròn, không to, cũng
không phải hình chữ nhật, nhưng vừa xinh, dài khoảng một ngón tay cái, mặt bánh
muôn muốt, nhân không nhiều, nhưng thơm ngon mà thỉnh thoảng nhai lại giòn.
Vì là thứ quà ăn nguội, nên nhà không có lò tráng mà cũng chẳng
có nồi nước sôi hấp bánh. Bánh làm sẵn từ buổi sáng, có khách đến, cứ việc xếp
đem ra. Nước mắm thì pha giấm hay chanh, tùy ý, cà cuống nước để ngoài, ai muốn
gia ít hay nhiều đều được.
Thứ bánh này ăn dẻo mà mát, nên hợp với buổi trưa trong ngày,
những ông nào nhàn rỗi, nghỉ trưa xong đi chơi dăm ba bước trong một trời gió
phây phây rồi tà tà đi vào thưởng thức dăm ba chiếc, rõ thực là thần tiên đấy.
Ăn từ từ, nhấm nháp thôi, đừng vội, và ông sẽ thấy bột bánh mướt
đáo để, mà nhân bánh thì tinh vi, tương tự phong vị nhân bánh bẻ. Thứ bánh này
không có ruốc tôm bày ở trên, ăn không chóng ngấy, nhưng nếu ông thích đậm
miệng hơn một chút thì vẫn có thể điểm vào đó một hai chiếc chả lợn của một cửa
hàng gần đấy, đã nục lại không pha bột, rán cứ vàng ửng lên như da đồng.
Không hiểu đối với các khách khác ra sao, cứ riêng tôi thấy thì
thứ bánh nguội này dễ ăn hơn bánh khác.
Những khi đi thưởng thức bánh này, tôi thường nhớ lại một quãng
thời gian đã qua rồi, khoảng ba mươi nhăm, ba mươi sáu năm nay. Cứ vào khoảng
hai ba giờ chiều, có một bà cụ đội một thúng bánh cuốn nhân thịt đến bán cho
những nhà ăn quen ở phố tôi - một phố xưa cũ có bán những pho kinh đóng bằng
bìa cậy và những truyện Kiều Cung oán chữ nôm in mộc bản, bày bán trên những
giàn sách bằng tre. Bà cụ ấy già lắm, lưng lại còng, đội thúng bánh đi bán,
trông lại càng còng quá.
Vì thế người ta gọi cụ là “cụ Còng” và bánh cuốn của cụ - độc
nhất trong hồi đó - là bánh cuốn cụ Còng - chớ chẳng gọi là bánh cuốn nhân
thịt, nhân tôm gì hết!
Bây giờ, mỗi khi ngồi thưởng thức thứ bánh cuốn Ninh Thịnh, nhai
nhè nhẹ rồi ngồi mà suy nghĩ, tôi lại tưởng thấy lại ở đầu lưỡi cái dư vị bánh
cuốn cụ Còng - ăn cứ êm lừ: nhân làm thanh cảnh, mà lại chấm với nước mắm ô long
hảo hạng, chết thật! Ngon đến thế là cùng...
Tức một nỗi là cái ngon đó nó thoang thoảng như da thịt của một
người đàn bà đẹp vừa gội đầu bằng nước nấu lá mùi; người ta mang mang tự hỏi
không biết mùi thơm đó từ đâu ra, từ hương nước tắm hay từ da thịt?
Hương đó thoảng qua, rồi mất đi, rồi hiện lại, không ai còn biết
lấy gì làm chuẩn đích để níu cái hương đó lại và phân tách xem sao. Cũng thế,
hương vị thứ bánh cuốn cụ Còng cũng thoang thoảng như vậy, không thể lấy riêng
một món nào để làm tiêu chuẩn cho sự ngon lành.
Có lẽ tất cả bánh, nước chấm và nhân cùng hòa hợp lại mà tạo ra
một cái ngon “toàn diện”, chớ không phải riêng bột ngon hay là nhân ngon.
Mọi thứ đều tiết tấu như thế, người ăn bánh, nếu gia nhiều ớt
quá vào nước chấm, có thể làm hại cho sự quân bình của cái ngon. Vì thế, bà cụ
Còng không thích để cho khách hàng pha lấy nước chấm và hễ thấy ai gia nhiều ớt
quá thì cụ ngăn tay lại.
Không phải là cái chuyện hà tiện quả ớt đâu, nhưng phàm ăn cay
quá thì cái cay nó bắt người ta để hết tâm não vào nó thành quên mất cái ngon
của bánh. Mà tội vạ gì lại ăn cay quá? Nó chỉ hại mắt, chứ ích lợi quái gì
Tôi còn nhớ lúc đó mỗi khi thầy tôi dùng bánh thì tôi thỉnh
thoảng lại được thí cho hai chiếc - và có hai chiếc, không hơn! Trông bánh thèm
quá, muốn ăn thêm một chiếc mà không tài nào có tiền! Biết bao hôm, ăn xong hai
chiếc bánh, vào nhà trong nằm võng kẽo cà kẽo kẹt, tôi đã ức ngầm về nỗi không
hôm nào được ăn bánh cho thỏa thích. Bánh này, thả ra, phải ăn cả một thúng mới
đã đời!
Ba mươi mấy năm đã qua rồi, bà cụ Còng nay đã chết, nhưng bánh
cuốn của cụ, tôi lại thấy hiện ra ở trong bánh của nhà Ninh Thịnh, tuy rằng
hình dáng có khác nhau chút ít - một thứ gói tròn và một thứ gói vuông.
Có lẽ cách làm của hai thứ bánh này cũng chẳng khác nhau mấy tí;
nhưng không hiểu tại bột, tại thịt hay tại nấm hương, mộc nhĩ bây giờ không
được bằng thời trước, hay chỉ tại người mình cùng với ngày tháng có suy đi, mà
tôi không thể nào thấy cái thèm muốn ăn cả một thúng hàng trăm cái bánh như
ngày trước nữa!
BÁNH XUN CẦU
Ngấy ơi là ngấy! Chân giò ninh với măng khô này: bánh chưng nhân
mỡ phậu này; thịt kho tầu và giò thủ này... bao nhiêu thứ đó nghĩ cũng đã ngán
đến tận mang tai rồi, mình cứ tưởng không tài nào nuốt được. Nhưng... nhưng
thịt mỡ là đặc điểm của ngày Tết cùng với dưa hành, câu đối, bánh chưng, có lẽ
nào lại không ăn? Ăn chớ! Ăn “kỹ” chớ! Thì lạ thay, mồng một Tết ăn vào ngon
đáo để, sang ngày mồng hai, vẫn ăn như thế lại thấy ngon hơn hôm mồng một, và
đến ngày mồng ba, ăn lại ngon hơn cả ngày mồng một và mồng hai!
Thế là tại làm sao? Tết ở
Bắc Việt thực quả là kỳ lạ! Đi trên những con đường nắng cháy ở miền Nam, nghĩ
đến mưa xanh rét ngọt ở miền Bắc dạo này người xa nhà tự hỏi:
“Ờ nhỉ, sao cùng là thịt
mỡ ngày Tết, mà thịt mỡ ở Bắc ăn mãi không thấy ngán, còn ở đây ăn hai miếng
rồi, bắt ăn miếng thứ ba thì cổ đứ ra không nuốt được? Có lẽ tại cái mỡ ở Nam
nó khác ở Bắc chăng? Hay tại trời ở Bắc rét, thân thể cần nhiều ”nhiên
liệu" để đốt, nên mỡ là một yếu tố cần thiết, vì thế ta ăn vào không thấy
ngán?". Có lẽ giải thích như thế thì khoa học lắm. Nhưng dầu sao... tôi
vẫn không chịu, vì tôi tin rằng ở Bắc Việt, ngày Tết người ta ăn bao nhiêu đồ
mỡ cũng không thấy ngán, ấy chỉ là vì ngày Tết ở đó có bánh xuân cầu để cho ta
nhắm thôi.
Bây giờ ở đây, ngồi
thưởng thức chiếc bánh phồng to như cái sàng, quết bằng nếp với đường, vào một
buổi đầu năm, ai là người còn nhớ đến cái “tác phong ăn Tết” ở Bắc không thể
nào không nhớ tới những chiếc bánh xuân cầu bé bé, xinh xinh, có đủ các sắc
tươi màu của một bức họa Gôganh.
Hỡi cô con gái đỡ tay bếp
núc cho mẹ trong ba ngày Tết! Cái chảo mỡ đun mà chưa thật nóng bỏng lên thì cô
chớ có thả bánh xuân cầu vào vội mà hỏng đấy. Bánh này làm ra sao? Có bột nếp
và còn gì nữa? Có gia một chất vị gì kỳ lạ không? Tôi nhớ lúc còn bé ngồi xem
mẹ rán bánh xuân cầu, tôi vẫn thấy mẹ tôi kể chuyện chỉ có một làng ở Hải Dương
là làng Xuân Cầu làm được bánh này thôi. Ngày Tết, khắp Bắc Việt đều mua bánh
đó và từ sáng mồng một, nhà nào cũng rán vài đĩa để trước cúng sau ăn.
* * *
Bánh vuông bằng hai ngón
tay và mỏng như tờ giấy bản. Bỏ nhè nhẹ vào trong chảo mỡ nóng, cái bánh nở
phồng ra như một nụ thủy tiên hàm tiếu. Mà có khi lại đẹp hơn nhiều, là vì hoa
thủy tiên đẹp cao nhã và đứng đắn, chớ cái bánh xuân cầu nở ra thì đẹp một cách
rạo rực, trẻ trung. Những màu xanh, đỏ, trắng, tím, vàng, của từng chiếc bánh,
lúc chưa rán, có hơi lờn lợt, nhưng rán rồi thì tươi lạ là tươi.
Gắp từng chiếc ra, vỗ vào
thành chảo cho ráo mỡ rồi để vào đĩa, hỡi người em yêu ạ! Nhè nhẹ tay thôi, kẻo
bánh nó đau, mà rạn nứt như cái bình đựng mã tiên thảo ở trong bài thơ của thi
sĩ Pơruyđom đấy! Đĩa thì trắng, màu sắc của bánh thì tươi, ta cảm giác như đứng
trước một núi hoa đủ các sắc màu vui mắt, và khẩu cái của ta tiên cảm là nếu
nhón lấy ăn luôn một chiếc thì ngon đáo để. Không, cái ngon đó có thấm vào đâu!
Phải chờ cho bánh hơi nguội đi một chút, rưới mật lên trên, cái đẹp và cái ngon
của bánh mới đến chỗ tuyệt ĐỈnh và người ta mới cảm thấy hết cả cái sướng ở đời
được ăn một thứ bánh bùi, béo, ngọt, cứ lừ đi, mà trôi đến cuống họng thì lại
thơm phưng phức!
Ngày Tết, người Tàu có
bánh bìa, người Nhật có bánh đậu đen và ngày Chúa Giáng sinh, Tây có bao nhiêu
là thứ bánh bằng bơ, phó mát, hạnh nhân, săng ti-y. Nhưng lạ lắm, thưa bà, cái
bánh xuân cầu của ta nó ngon đáo để là ngon - nếu tôi được phép dùng một danh
từ hơi phàm phu một chút, tôi phải bảo là ngon “da rít”!
Đó là cái ngon của da
thịt cô gái quê đẹp mê mệt, đẹp lành mạnh, lâm li trong khi bao cái ngon khác
là, cái ngon của cô gái tỉnh thành xanh xao và bịnh hoạn chỉ được cái môi tô
son đẹp và bộ áo may vừa khít với một giá đắt tiền!
Cầm lấy một miếng bánh mà
thưởng thức! Lấy lưỡi đẩy một miếng lên khẩu cái, bạn sẽ thấy bánh reo lên nhè
nhẹ, tan ra nhè nhẹ; dư vị của mật quyện lấy đầu lưỡi ta; cái béo, cái ngậy
cùng với cái ngọt, cái bùi vuốt be hầu đầu ta và đem lại cho ta cảm giác đương
nghe thấy trong lòng dạo lên một bản nhạc có tiếng đồng chen tiếng sắt.
Thực vậy, có người cho
mật có ý “ngọt sắc” nên thắng đường trắng rưới lên trên bánh và cho là ăn thế
thanh hơn. Không được, không thể được. Ăn như thế, cái bánh sẽ tẻ ngay, mà
trông vào đĩa bánh, người ta cảm thấy trơ trẽn, không có cái duyên dáng đậm đà,
quyến rũ. Ăn chiếc bánh rưới mật, cái ngon ngọt có ý triền miên, y như thể đọc
hết bài Trường Hận Ca của Bạch Lạc Thiên mà ta vẫn còn phảng phất thấy đâu đây
cái buồn lả lướt của đức vua Đường thương nhớ người đẹp họ Dương.
Ăn mà không có dư vị,
chán lắm! Mà thưởng thức cái bánh xuân cầu này cũng không thể ăn nhanh. Việc đó
cũng chẳng có gì lạ, bởi vì phàm thức gì ngon và đẹp ở đời, cũng phải thưởng
thức từ từ, chầm chậm, vội vã thì phí quá.
* * *
Ăn một bữa cơm thịnh
soạn, rồi bắc cái ghế ngồi dưới bông đào ngày Tết, nhởn nha ăn mấy miếng bánh
xuân cầu, bạn sẽ thấy bao nhiêu cái béo ngậy tan đi như một kỳ tích nên thơ.
Gió ở ngoài vườn thổi vào
trong nhà làm cho mấy tấm màn mỏng reo lên phần phật. Hoa đào, hoa cúc quyện
hương nhau; cành mai già cắm trong lọ in bóng lên trên tường y như thể một bức
tranh Nhật Bản.
Tự nhiên ta cảm thấy lòng
thơ thới; đời sống xô bồ bị đẩy ra xa như nước biển ban chiều và có một lúc ta
tưởng như mình là một nho sĩ ngồi trên một trái núi nghe thấy rõ ràng hơi thở
của Trời. Lúc đó, người vợ khéo ăn khéo ở mà pha một ấm trà mạn sen thơm ngát,
rót một chén đưa lên mời chồng nhắm nhót với bánh xuân cầu thì đến lúc răng
long đầu bạc, chồng vẫn còn yêu vợ với một mối tình đẹp như “trăng thu, tuyết
núi”.
Chồng mời vợ ngồi xuống
ghế. Hai vợ chồng cùng nhìn nhau mà không nói. Nhưng nói lên biết bao nhiêu!
Trong nhà, hội tam cúc
sôi nổi hơn lúc ban chiều. Lũ trẻ cãi nhau ý ới. Vợ phải vào phân xử và đánh hộ
cho con Lý. Thằng Khanh phụng phịu, chồng lại phải vào đánh hộ cho nó kẻo thua.
- Bộ ba tướng, sĩ, tượng
đây!
- Đôi!
Gió về khuya lạnh hơn,
như gợi những niềm xa vắng. Vợ đặt hai cây bài xuống chiếu và cười:
- Kết đây, ông ơi!
- Kết gì?
- Tốt đen! Tôi ăn kết tốt
đen đây!
Người chồng thở dài, làm
ra bộ thua, nhưng một lát sau xòe ra hai cây tốt đỏ, không nói gì. Và người vợ
đỏ mặt lên - hai má tươi như hoa đào.
- Thế là bị đè rồi!
* * *
Người chồng đắc ý cười
vang, nhấp thêm một chút nước trà sen; đoạn, thong thả lấy ngón tay cái và ngón
tay trỏ nhón một chiếc bánh xuân cầu màu hoàng yến đưa lên miệng...
CỐM VÒNG
Ở hậu phương, mỗi khi thấy ngọn gió vàng heo hắt trở về, người
ta tuy không ai nói với ai một câu nào, nhưng đều cảm thấy cõi lòng mình se
sắt.
Không phải nói thế là bảo rằng ở Hà thành, mỗi độ thu về, người
ta không thấy buồn đâu. Ngọn gió lạ lùng! Ở đâu cũng thế, nó làm cho lòng người
nao nao nhưng ở hậu phương thì cái buồn ấy làm cho ta tê tái quá, não cả lòng
cả ruột. Nhớ không biết bao nhiêu! Mà nhớ gì? Nhớ tất cả, mà không nhớ gì rõ
rệt!
Bây giờ ngồi nghĩ lại tôi nhớ rằng tôi không nhớ Tết, không nhớ
những ngày vui và những tình ái đã qua bằng nhớ một ngày nào đã mờ rồi, tôi hãy
còn nhỏ, sáng nào về mùa thu cũng được mẹ mua sẵn cho một mẻ cốm Vòng, để ăn
lót dạ trước khi đi học.
Thế thôi, nhưng nhớ lại như thế thì buồn muốn khóc. Tại sao?
Chính tôi cũng không biết nữa.
Và thường những lúc đó, tôi thích ngâm khẽ mấy vần thơ trong đó
tả những nỗi sầu nhớ Hà thành, nhất là mấy câu thơ của Hoàng Tuấn mà tôi lấy
làm hợp tình hợp cảnh vô cùng:
“...Đầu trùm nón lá nhớ kinh thành,
Anh vẫn vui đi trên những nẻo
đường đất nước.
Lúc xanh xanh, núi trùng điệp, đèo mấp mô...
Qua muôn cảnh vẫn sen Tây Hồ.
Sông vẫn sông Lô, cốm cốm Vòng".
Ờ, mà lạ thật, chẳng riêng gì mình, sao cứ đến đầu thu thì người
Hà Nội nào, ở phiêu bạt bất cứ đâu đâu cũng nhớ ngay đến cốm Vòng? Chưa cần
phải ăn làm gì vội, cứ nghĩ đến cốm thôi, người ta cũng đã thấy ngất lên mùi
thơm dịu hiền của lúa non xanh màu lưu ly đặt trong những tàu lá sen tròn cũng
xanh muôn muốt màu ngọc thạch!
Không, cốm Vòng quả là một thứ quà đặc biệt nhất trong mọi thứ
quà Hà Nội - đặc biệt vì cứ mỗi khi thấy gió vàng hiu hắt trở về thì lại nhớ
đến cốm, mà đặc biệt hơn nữa là khắp các “nẻo đường đất nước” chỉ có Hà Nội có
cốm thôi.
Cốm là một thứ quà của đồng ruộng quê hương mang đến cho ta
nhưng hầu hết các vùng quê lại không có cốm. Tôi còn nhớ lúc tản cư ở vùng Hà
Nam, mỗi khi thấy mây thu phủ ngang trời, người ta gặp nhau ở chợ vẫn thường
chỉ nói một câu: “Bây giờ ở Hà Nội là mùa cốm!”. Thế rồi nhìn nhau, không nói
gì nữa, nhưng mà ai cũng thấy lòng ai chan chứa biết bao nhiêu buồn...
Thực thế, cốm chỉ là một thứ lúa non, nhưng bao vùng quê bạt
ngàn san dã lúa mà không có cốm... Chỉ Hà Nội có cốm ăn... Và mỗi khi tiết hoa
vàng lại trở về, người ta nhớ Hà Nội là phải nhớ đến cốm - mà không phải chỉ
nhớ cốm, nhưng nhớ bao nhiêu chuyện ấm lòng chung quanh mẹt cốm, bao nhiêu tình
cảm xưa cũ hiu hiu buồn, nhưng thắm thiết xiết bao.
Tôi còn nhớ, lúc bé, mỗi khi có cốm mới, những nhà có lễ giáo
không bao giờ dám ăn ngay, mà phải mua để cúng thần thánh và gia tiên đã.
Vì vậy, riêng việc ăn cốm đã được “thần thánh hóa” rồi: do đó,
cốm mới thành một thứ quà trang trọng dùng trong những dịp vui mừng như biếu
xén, lễ lạt, sêu Tết - nhất là sêu Tết. Do đó, chàng trai gặp cô gái, nói đôi
ba câu chuyện, biết là đã bắt tình nhau, vội vã bảo “em”:
Để anh mua cốm, mua hồng sang sêu
Làm như sêu Tết mà đem hồng, đem cốm sang nhà gái là... nhất
vậy! Mà thật ra thì nhà trai đem Tết nhà gái, còn gì quý hơn là cốm với hồng?
Từ tháng Tám trở đi, Hà Nội là mùa cưới... Gió vàng động màn
the, giục lòng người ân ái... Cũng có đôi khi chàng trai đưa hồng và cốm sang
sêu thì mới biết là “người ngọc” đã có nơi rồi:
Không ngờ em đã lấy chồng
Để cốm anh mốc, để hồng long tai;
Tưởng là long một long hai,
Không ngờ long cả trăm hai quả hồng!
Nhưng thường thường thì hồng, cốm đưa sang nhà gái như thế vẫn
là báo trước những cuộc tình duyên tươi đẹp, những đôi lứa tốt đôi cũng như
hồng, cốm tốt đôi.
Có những hình ảnh đẹp quá, thoảng qua trước mắt một giây, mà ta
nhớ không bao giờ quên được.
Bây giờ, nghĩ lại cái đẹp não nùng của cốm Vòng xanh màu lưu ly
để ở bên cạnh những trái hồng trứng(1)
thắm mọng như son tàu, tôi thích nhớ lại một buổi chiều thu đã
xa lắm lắm rồi, có một nhà nọ đưa hồng và cốm sang sêu một người em gái tôi.
Trên một cái khay chân quỳ, khảm xà cừ, đặt ở giữa án thư, hai
gói cốm bọc trong lá sen được xếp song song, còn hồng thì bày trong một cái
giá, dưới đệm những lá chuối xanh nõn tước tơi, để ở trên mặt sập.
Đến bây giờ tôi hãy còn nhớ trời lúc ấy hơi lành lạnh; nhà tôi
kiểu cổ, tối tăm, lại thắp đèn dầu tây; nhưng trong một thoáng, tôi vẫn đủ sức
minh mẫn để nhận thấy rằng cốm Vòng để cạnh hồng trứng, một thứ xanh ngăn ngắt,
một thứ đỏ tai tái, đã nâng đỡ lẫn nhau và tô nên hai màu tương phản nhưng lại
thật “ăn” nhau. Rõ là một bức tranh dùng màu rất bạo của một họa sĩ lập thể,
trông thực là trẻ, mà cũng thật là sướng mắt!
Tôi đố ai tìm được một thứ sản phẩm gì của đất nước thương yêu
mà biểu dương được tinh thần của những cuộc nhân duyên giữa trai gái như hồng
và cốm!
Màu sắc tương phản mà lại tôn lẫn nhau lên; đến cái vị của hai
thức đó, tưởng là xung khắc mà ai ngờ lại cũng thắm đượm với nhau! Một thứ thì
giản dị mà thanh khiết, một thứ thì chói lọi mà vương giả; nhưng đến lúc ăn vào
thì vị ngọt lừ của hồng nâng mùi thơm của cốm lên, kết thành một sự ân ái nhịp
nhàng như trai gái xứng đôi, như trai gái vừa đôi... mà những mảnh lá chuối
tước tơi để đệm hồng chính là những búi tơ hồng quấn quýt.
Có ai một buổi sáng mùa thu, ngồi nhìn ra đường phố, thấy những
cô gái làng Vòng gánh cốm đi bán mà không nghe thấy lòng rộn rã yêu đương?
Đó là những cô gái mộc mạc ưa nhìn “đầu trùm nón lá” vắt vẻo đi
từ tinh mơ lên phố để bán cốm cho khách Hà Nội có tiếng là sành ăn.
Nhưng tại sao lại chỉ có con gái, đàn bà làng Vòng đi bán cốm?
Mà tại sao trong tất cả đồng quê đất Việt ngút ngàn những ruộng lúa thơm tho
lại chỉ riêng có làng Vòng sản ra được cốm?
Đó là một câu hỏi mà đến bây giờ người ta vẫn còn thắc mắc, chưa
nhất thiết trả lời phân minh bề nào. Là tại vì đất làng Vòng được tưới bón với
một phương pháp riêng nên ruộng của họ sản xuất ra được thứ lúa riêng làm cốm?
Hay là tại vì nghệ thuật truyền thống rất tinh vi của người làng Vòng nên cốm
của họ đặc biệt thơm ngon?
Dù sao, ta cũng nên biết rằng làng Vòng (ở cách Hà Nội độ sáu,
bảy cây số) chia ra làm bốn thôn là Vòng Tiền, Vòng Hậu, Vòng Sở, Vòng Trung:
nhưng chỉ có hai thôn Vòng Hậu và Vòng Sở là sản xuất được cốm quý.
Cốm nguyên là cái hạt non của “thóc nếp hoa vàng”. Một ngày đầu
tháng Tám, đi dạo những vùng trồng lúa đó, ta sẽ thấy ngào ngạt mùi lúa chín
xen với mùi cỏ, mùi đất của quê hương làm cho ta nhẹ nhõm và đôi khi... phơi
phới.
Hỡi anh đi đường cái, hãy cúi xuống hái lấy một bông lúa mà xem.
Hạt thóc nếp hoa vàng trông cũng giống hạt thóc nếp thường, nhưng nhỏ hơn một
chút mà cũng tròn trặn hơn. Anh nhấm thử một hạt, sẽ thấy ở đầu lưỡi ngọt như
sữa người.
Người làng Vòng đi ngắt lúa về và nội trong hai mươi bốn tiếng
đồng hồ phải bắt tay vào việc chế hóa hạt thóc ra thành cốm.
Ngoài cốm Vòng ra, Bắc Việt còn hai thứ cốm khác nữa, không quí
bằng mà cũng kém ngon: đó là cốm Lũ (tức là cốm làng Kim Lũ, một làng cách Hà
Nội 3 cây số trong vùng Thanh Trì (Hà Đông) và cốm Mễ Trì (tức là cốm làng Mễ Trì,
phủ Hoài Đức (Từ Liêm) cũng ở Hà Đông).
Hai thứ cốm này khác cốm Vòng ở một điểm chính là thóc nếp hoa
vàng khi vừa chín thành bông ở làng Vòng thì được ngắt đem về, còn ở Lũ và Mễ
Trì thì người ta gặt khi lúa đã bắt đầu chín hẳn.
Kể lại những công trình vất vả từ khi còn là bông lúa đến khi
thành hạt cốm, đó là công việc của nhà khảo cứu. Mà đó cũng còn là giá trị của
những tập quán truyền thống của người làng Vòng nữa.
Người ta kể chuyện rằng, về nghề làm cốm, người làng Vòng có mấy
phương pháp bí truyền giữ kín; bố mẹ chỉ truyền cho con trai, nhất thiết không
truyền cho con gái, vì sợ con gái đi lấy chồng phương xa sẽ đem phương pháp làm
cốm đi nơi khác và do đó sẽ đem tai hại đến cho làng Vòng.
Lúc ngắt đem ở cánh đồng về, kỵ nhất là không được vò hay đập,
mà phải tuốt để cho những hạt thóc vàng rơi ra. Người ta cho rằng bí quyết của
cốm Vòng là ở lúc đem đảo ở trong những nồi rang.
Tất cả cái khéo tay, cộng với những kinh nghiệm lâu đời xui cho
người đàn bà làng Vòng đảo cốm trong những nồi rang vừa dẻo; lửa lúc nào cũng
phải đều; nhất là củi đun phải là thứ củi gỗ cháy âm, chứ không được dùng đến
củi rơm hay củi đóm.
Công việc xay, giã cũng cần phải gượng nhẹ, chu đáo như vậy,
chày giã không được nặng quá, mà giã thì phải đều tay, không được chậm vì cốm
sẽ nguội đi, thứ nhất là phải đảo từ dưới lên, từ trên xuống cho đều, không
lỏi.
Những hạt thóc nào hái vừa vặn thì dẻo; hơi già, ăn cứng mình;
mà non quá, hãy còn nhiều sữa thì quánh lại với nhau từng mảng. Thứ cốm sau đó
gọi là cốm dót.
Thóc giã xong rồi, người ta sàng. Trấu bay ra cùng với những hạt
cốm nhẹ nhàng nhất: cốm đó là cốm đầu nia. Còn các thứ cốm khác thì là cốm
thường, nhưng tất cả ba thứ đó không phải sàng sảy xong là đã ăn được ngay đâu;
còn phải qua một giai đoạn nữa là hồ.
Người ta lấy mạ giã ra, hòa với nước, làm thành một thứ phẩm
xanh màu lá cây rồi hồ cốm cho thật đều tay: cốm đương mộc mạc, nổi hẳn màu lên
và duyên dáng như cô gái dậy thì bỗng tự nhiên đẹp trội lên trong một buổi sáng
mùa xuân tươi tốt.
Bây giờ, chỉ còn việc trình bày nữa là xong: cốm được tãi ra
thật mỏng trên những mảnh lá chuối hay những cái lá sen (người ta gọi thế là lá
cốm hay mẻ cốm) rồi xếp vào thúng để gánh đi bán, tinh khiết và thơm tho lạ
lùng. Đặc biệt là hàng nào cũng có một cái đòn gánh cong hai đầu; người bán
hàng bước thoăn thoắt hai cái thúng đu đưa, trông thật trẻ và thật... đĩ!
Hỡi các bà nội trợ lưu tâm đến miếng ăn ngon cho chồng cho con!
Hãy gọi hàng cốm lại và mua ngay lúc cốm hãy còn tươi, kẻo quá buổi thì kém dẻo
và kém ngọt, phí của trời đi đấy!
Đã có lúc ngồi nhìn người hàng cốm xẻ từng mẻ cốm sang chiếc lá
sen to để gói lại cho khách hàng, tôi đã lẩn mẩn ngẫm nghĩ nhiều. Ờ mà thật
vậy, sao cứ phải là lá sen mới gói được cốm? Mà sao cứ phải là rơm tươi của cây
lúa mới đem buộc được gói cốm? Có một khi tôi đã thử tưởng tượng người ta dùng
giấy bóng kính tốt đẹp để gói cốm và dùng dây lụa để buộc gói cốm, nhưng mới
thoáng nghĩ như thế, tôi đã thấy tất cả một sự lố lăng, tất cả một sự thô kệch,
nói tóm lại là tất cả một sự... khó thương! Còn gì là cốm nữa! Làm vậy, cốm có
còn là cốm đâu!
Cốm, một món quà trang nhã của Thần Nông đem từ những đồng quê
bát ngát của tổ tiên ta lại cho ta, không thể hứng chịu được những cái gì phàm
tục.
Vì thế, ăn miếng cốm cho ra miếng cốm, người ta cũng cần phải tỏ
ra một chút gì thanh lịch, cao quý! Phải biết tiếc từng hạt rơi, hạt vãi, và
nhất là phải ăn từng chút một, lấy ngón tay nhón lấy từng chút một, chứ không
được phũ phàng.
Ta vừa nhai nhỏ nhẹ, vừa ngẫm nghĩ đến tính chất thơm của cốm
thoang thoảng mùi lúa đòng đòng, tính chất ngọt của cốm phiêu phiêu như khí
trời trong sạch ta sẽ thấy rằng ăn một miếng cốm vào miệng là ta nuốt cả hương
thơm của những cánh đồng quê của ông cha ta vào lòng. Dịu dàng biết chừng nào!
Mà cảm khái nhường bao!
Tôi không thể nhịn được cười khi thấy những ông gặp buổi giao
thời mời người u - Mỹ dùng cốm mà lại xẻ vào từng bát để cho họ lấy “cùi dìa”
mà xúc! Thật là ai oán cho hạt cốm!
Lại có nhiều người khác, có lẽ cho rằng bơ sữa ở Hà Nội này chưa
đủ để làm tăng ra cái đồng cân của người, lại bày ra trò ăn cốm với chả, giò
hay thịt quay.
Tôi thiết tưởng như thế thì nhà lấy ít gạo tám thổi lên ăn với
những thứ thịt đó lại còn hơn, tội gì phải ăn cốm cho phí tiền!
Trong tất cả mọi thứ ăn đệm với cốm, có lẽ dung thứ được nhất là
cái thứ chuối tiêu “trứng quốc” ăn thơm phưng phức. Nhưng ăn như vậy chỉ có thể
coi là ăn chơi ăn bời.
Muốn thưởng thức được hết hương vị của cốm phải ăn cốm không, và
chỉ ăn cốm không thôi. Có thế, ta mới hưởng được chân giá trị của cốm, và càng
thấy rõ chân giá trị của cốm ta lại càng tiếc cho đồng bào ở các nơi xa, tiếng
là cùng sinh chung đất nước với ta, mà không được hưởng thứ quà thơm dẻo của
đồng lúa dâng cho mọi dân con.
Tôi ngẫm lại trước kia đường sá còn diệu vợi, một người ở Nghệ
ra thăm Hà Nội muốn đem ít cốm Vòng về làm quà cho bà con, thực quả là vất vả.
Cốm tãi ra trên một cái mâm đồng phải được sấy thật kỹ bằng hơi
nước sôi để khỏi mốc rồi cho vào trong một cái thùng sắt tây đậy kín. Người ta
lại còn kể chuyện vào thời Nguyễn, người làng Vòng mà mang cốm tiến vào được
đến Huế để dâng lên Ngài ngự thì lại còn công trình khó nhọc hơn nhiều: cốm
không được đóng vào thùng sắt tây, nhưng phải gánh bằng quang, hai bên hai
thúng, và trong mỗi thúng có một cái hỏa lò âm ‘ trên đặt hai cái nồi đất đựng
cốm.
Hơi nước bốc lên sẽ làm cho cốm được dẻo luôn dù phải đi tới năm
bảy ngày đường.
Bây giờ sự đi lại dễ dàng, người ở các tỉnh gần Hà Nội nhớ cốm
vẫn thường về tận Hà Nội để ăn vào những ngày đầu thu. Coi chừng mùa cốm tàn
lúc nào không biết đấy! Danh tướng và người đẹp tự nghìn xưa vẫn thế, không để
cho người đời được trông thấy mình lâu...
* * *
Để tận hưởng món quà trang nhã, người ta ăn cốm rồi còn chế biến
ra nhiều món khác, không kém phần thích thú.
Cổ kính vào bậc nhất là cốm nén. Có lẽ vì cốm là một thứ quà quí
mà lại không để được lâu, nên người ta mới nghĩ ra cách nén cốm, để cho cốm
không bị mốc mà ăn vẫn có thể ngon và dẻo.
Điều cần là trước khi cho cốm vào nước đường, phải vẩy một tí
nước vào cốm cho mềm mình; lúc xào, phải quấy đũa cho đều tay kẻo cháy. Riêng
tôi, ăn cốm nén, tôi sợ cái thứ ngọt sắc nó làm mất cả vị của cốm đi; nhưng nếu
một đôi khi có chỗ cháy ăn xen vào, cũng có một cái thú lạ, vì nó thơm mà lại
làm cho gờn gợn da ta lên, như tuồng sợ ăn phải mẻ cốm khê thì khổ.
Muốn cho đĩa cốm “đẹp mặt” hơn, có nhà rảy một tí phẩm lục vào.
Khi đó, cốm xanh thẫm hẳn lên, nhưng ta có cảm giác ăn vào đau bụng.
Tôi nghĩ rằng nén cốm mà bất đắc dĩ phải dùng đến phẩm lục là
chỉ khi nào người ta dùng cái thứ cốm Vòng mộc, hay cốm Lũ màu xanh nhạt. Đó là
hai thứ cốm mà các cửa hiệu bán bánh cốm vẫn thường dùng gói bán đi khắp mọi
nơi để người ta làm quà cáp cho nhau hay đem biếu xén trong những dịp cười
chung, khóc mướn.
Cốm nén gói thành bánh cũng được ủ rồi xào như đã nói trên kia,
nhưng ngoài thứ không nhân, còn một thứ có nhân làm bằng đậu xanh giã thật
nhuyễn với đường, điểm mấy sợi dừa trắng muốt. Hai thứ bánh này đều được gói
trong lá chuối, vuông vắn, buộc bằng dây xanh hoặc đỏ tùy theo trường hợp khóc
hay cười.
Những vị nào thích ăn thứ cốm nén này mà cháy và cứng mình hơn
có thể tìm đến các cửa hiệu cốm nén để mua từng lạng cái thứ cháy cốm ăn cứ
quánh lấy răng. Cháy nhân cũng được nhiều người thưởng thức, nhưng có lẽ thích
nhất thì là các ông “ăn thuốc” có tính ưa của ngọt.
Ít lâu sau này, có nhiều bà hàng giò, chả, lại chế ra một thứ
chả cốm (chả lợn trong có cốm) ăn bùi, mà lại béo ngầy ngậy, thử dùng một hai
nắm ăn vã cũng ngon - ăn thứ chả này phải thật nóng mới thú, nguội thì không
còn ra trò gì...
Nhưng nội các thứ quà làm bằng cốm, thanh nhã và dễ ăn nhất có
lẽ là chè cốm, một thứ chè đường có thả những hạt cốm Vòng. Sau một bữa cỗ béo
quá, ăn một bát chè cốm trong muốt, ta thấy nhẹ nhõm ngay vì hết ngấy; cuống
họng cứ lừ đi; nhưng cái lừ đây không phải chỉ ngọt lừ, mà lại còn cái thơm lừ
của cốm trương hạt, ăn đã trong giọng mà lại không quánh lấy răng như bánh cốm.
Dù sao, bánh cốm, cũng như chè cốm, cũng chỉ có thể coi như là
“một chút hương thừa” của cốm Vòng mà thôi. Có ăn hai thứ đó, ta lại càng thấy
rằng quả cốm Vòng tươi quí thật, mỗi một hạt cốm thật là một hạt ngọc của Trời.
Và người ta lại càng thấy quý hơn nữa mỗi khi đến mùa cốm mà tản cư, không được
trông thấy cốm và ăn cốm...
---------------
(1) Hồng ở Bắc Việt có thể chia ra làm hai thứ: - Một thứ ăn
chín như hồng nồi, hồng the, hồng trứng, hồng hột. - Một thứ ăn không cần chín
như hồng hạc, hồng lạng, hồng ngâm, hồng vuông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét