Thứ Năm, tháng 9 19

Bí Mật Hồ Cá Thần - (Nguyễn Quang Thiều) chương 8

Việc họp bàn bắt con cá một mắt của lũ trẻ xóm trại phải kéo dài mấy buổi tối mới xong. Chúng tôi nhất trí dùng lưỡi câu lớn để câu con cá. Chúng tôi sẽ lấy một chiếc răng bừa để đánh lưỡi câu, mua đay để bện dây câu và mồi câu là một con vịt sống. Vì lâu nay hễ có con vịt nào bơi ra giữa đầm Vực đều bị con cá một mắt đớp gọn. Chúng tôi phải chế tạo một chiếc tời để cuộn dây câu. Tất cả đã được phân công tỉ mỉ. Chúng tôi chọn một gò đất ven sông mọc um tùm những cây dại làm nơi chuẩn bị bộ đồ câu khổng lồ để bắt con cá. Tời cuốn dây câu và dây câu chúng tôi có thể tự làm lấy. Nhưng việc uốn cong cái lưỡi bừa thì phải thuê thợ rèn. Việc quyên tiền là việc khó khăn nhất vì chúng tôi chưa đến tuổi tiêu tiền. Hơn nữa, mọi gia đình trong xóm trại chúng tôi đều rất nghèo. Người lớn có được đồng tiền trong túi đã khó, huống hồ lũ trẻ con chúng tôi. Nghĩ mãi, cuối cùng chúng tôi cũng tìm được cách kiếm tiền. Vào các buổi trưa, chúng tôi phân công nhau đi móc cua và tát dòn bắt cá, rồi mang cua, cá vào làng bán. Và sau ba tháng hè chúng tôi đã có một món tiền đủ để mua sắm cho bộ đồ câu. Tôi được phân công giữ tiền. Tôi nhét tiền vào một chiếc túi nilông và giấu dưới chiếu ở đuôi giường. 

Một buổi tối, bố tôi mua một hũ rượu lớn và mời một số bạn bè đến uống rượu. Bố tôi đưa tiền cho mẹ tôi mua đôi vịt về làm thịt. Mẹ tôi hậm hực nhưng rồi cũng phải đi mua và nấu cho bố tôi đãi khách.

Đến khuya, khi khách khứa đã về hết, mẹ tôi hỏi:

- Ông lấy tiền ở đâu mà ăn uống hoang như thế?

Bố tôi lè nhè:

- Không việc gì đến bà. Tiền tôi tôi tiêu.

Mẹ tôi to

- Không có tiền nào là của riêng ông cả. Ông đi làm có tiền, ông phải đưa tôi. Nhà túng thiếu từng xu, thế mà một bữa ông tiêu cả đống tiền.

Bố tôi gắt:

- Đừng có lắm lời.

Mẹ tôi cãi:

- Tôi không lắm lời để ông giấu tiền tiêu riêng à?

Bố tôi chỉ tay vào mẹ tôi:

- Này, hỏi xem ai giấu tiền. Ai giấu? Tôi mà nói ra thì bẽ mặt.

Mẹ tôi gắt:

- Ông nói xem nào? Chỉ có ông chứ nhà này không có ai giấu tiền riêng cả.

Bố tôi cười nhạt:

- Chính bà giấu tiền ở đuôi giường thằng Mon kia kìa. Tôi thấy, tôi tiêu cho bõ, cho bà chừa cái thói giấu tiền làm của riêng đó.

Mẹ tôi nói:

- Thôi. Đừng có gắp lửa bỏ tay người. Tôi không nói chuyện với ông nữa.

Nói xong, mẹ tôi bỏ vào buồng. Tôi hoảng hốt ngồi dậy, vội lật chiôi giường tìm gói tiền của tôi. Thấy vậy, thằng Mên hỏi:

- Anh tìm gì đấy?

Tôi thì thào:

- Mày thấy gói tiền của tao đâu không?

- Tiền gì? Mà anh để đâu?

Tôi nói:

- Tiền để sắm bộ đồ câu con cá một mắt. Tao giấu ở đuôi giường.

- Anh ơi! - Thằng Mên ghé tai tôi - Có khi bố lấy mua rượu rồi.

- Ừ nhỉ! - Tôi thần người. - Đúng thế rồi. Bố tưởng tiền của mẹ nên bố đã lấy.

- Bây giờ làm thế nào? - Tôi lo lắng.

- Anh đòi bố í! - Thằng Mên nói.

Bố tôi nghe thấy hai anh em tôi thì thào nói chuyện trong màn, quát:

- Hai thằng ngủ đi, còn trò chuyện gì nữa.

Hai anh em tôi vội im bặt. Bố tôi thổi tắt đèn và leo lên giường. Chỉ một lát sau bố tôi đã ngáy vang nhà. Tôi nằm trong bóng tối thao thức mãi không ngủ được vì gói tiền bị m

Mới sáng sớm, tôi đã gọi lũ bạn ra gò sông để thông báo về số tiền bị mất. Nghe tin đó, cả bọn xịu mặt. Một vài đứa tỏ vẻ muốn từ bỏ kế hoạch câu con cá một mắt. Nhưng thấy tôi khóc và nhắc lại lời ông Bộc trước khi chết thì lũ trẻ xóm trại lại quyết tâm thực hiện kế hoạch đã bàn. Lũ trẻ lại tranh thủ sau buổi học đi bắt cua, cá mang vào làng bán lấy tiền. Số tiền ấy không giao riêng cho đứa nào giữ. Chúng tôi quyết định tìm một nơi giấu tiền ở gò sông. Và chỉ sau ba tháng, chúng tôi lại kiếm đủ số tiền để mua sợi đay và thuê bác thợ rèn ở chợ Tía uốn chiếc lưỡi bừa để làm lưỡi câu.

Buổi trưa, lũ trẻ chúng tôi phân công nhau ra gò sông bí mật xe dây đay và giũa lưỡi câu. Chúng tôi thực hiện công việc đầy háo hức nhưng cũng đầy bí mật. Đến cuối thu, khi nước đầm Vực rút thì chúng tôi cũng đã hoàn thành công việc. Chúng tôi chỉ chờ ngày mà những người đàn ông xóm trại vào mùa lấy cát thuê, hoặc chở vôi, gạch thuê là chúng tôi mang bộ đồ câu ra đầm Vực. Vì những ngày ấy, những người đàn ông xóm trại theo thuyền ba bốn ngày liền. Như vậy, không ai có thể phát hiện ra kế hoạch của chúng tôi.

Một buổi chiều trước ngày những người đàn ông xóm trại dong thuyền xuôi sông Đáy, chúng tôi tụ tập ở gò sông để bàn kế hoạch thực hiện. Tất cả đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ tời cuốn dây đến tiền mua vịt làm mồi. Nhưng một vấn đề quan trọng lại được đưa ra, làm chúng tôi lo lắng. Đó là việc con cá một mắt còn ở đầm Vực hay đã theo đường thông ngầm ra sông Đáy, ra biển rồi.

- Từ hồi hè đến giờ chẳng ai thấy con cá ấy quẫy gì cả. - Một đứa nói.

- Hay là nó bỏ ra biển rồi. - Đứa khác lên tiếng.

- Nó vẫn ở trong đầm Vực đấy. - Tôi lên tiếng.

- Sao mày biết? - Lũ trẻ hỏi tôi.

- Ban đêm tao vẫn ng thấy nó kêu i i. - Tôi quả quyết.

- Dế kêu mày lại nghĩ là con cá một mắt kêu thì có. - Một đứa nói.

Nghe vậy cả bọn phá lên cười.

- Thật đấy! - Tôi đỏ mặt. - Ngày trước tao và bà tao đêm nào cũng nghe thấy.

- Vậy thì tối nay mày lên đê nghe xem nó còn kêu không.

Một đứa đề nghị. Cả lũ trẻ nhao nhao đồng ý.

Sau bữa cơm tối, tôi lẻn bố mẹ lên mặt đê ngồi. Tôi dỏng tai để nghe tiếng cá kêu. Nhưng tất cả đều im lặng. Chỉ có tiếng lá dứa dại khua khẽ khi có gió thổi qua.

Tôi rời mặt đê đi xuống sát chân đê gần bờ đầm Vực. Tôi ngồi xuống trong bóng tối se lạnh của những ngày cuối thu. Tôi cố nín thở để lắng nghe mọi tiếng động từ đầm Vực. Mặt đầm tối sẫm. Thi thoảng vọng lại tiếng bắt mồi của lũ cá quả nhỏ nghe mơ hồ. Tôi ngồi mãi. Sương xuống làm tôi lạnh run lên. Nhưng tôi vẫn không thấy dấu hiệu gì của con cá một mắt.

Đêm ấy, tôi tỉnh giấc. Tôi lần mò trong bóng tối ra hiên nhà. Tôi ngồi xuống bên cạnh cái cột hiên, nơi ngày trước bà tôi vẫn thức giấc ngồi đó, lặng lẽ nhai trầu trong đêm. Tôi lắng nghe và cầu mong tiếng con cá một mắt từ đầm Vực bên kia đê vọng lại. Nhưng đêm vắng lặng lạ thường. Chỉ có tiếng ngáy của bố tôi vẫn đều đều vọng ra. Và tiếng thằng Mên cười khanh khách trong mơ.

Sáng hôm sau, tôi buồn bã thông báo cho lũ trẻ xóm trại rằng tôi không nghe thấy gì. Và tôi cũng không biết con cá một mắt còn ở đầm Vực hay không? Hay là nó đã ra sông Đáy và bơi ra biển như những người đàn ông xóm trại thường nó

Lũ trẻ con xóm trại không thể chịu nổi sự đợi chờ quá lâu, chúng nài nỉ tôi hãy ra bờ đầm Vực một đêm nữa.

Sau bữa cơm tối muộn, tôi trốn mẹ tôi lên đê. Rồi cũng như đêm trước, tôi lại sốt ruột và mò xuống sát chân đê. Nhưng tôi không làm sao nghe thấy dù chỉ là mơ hồ tiếng kêu của con cá một mắt. Đến khi lạnh quá, tôi phải trở về nhà.

Vừa leo lên đến mặt đê, tôi khựng lại. Bên tai tôi vừa vọng lên tiếng con cá một mắt. Tôi quay người nhìn xuống mặt đầm Vực. Mặt đầm tối sẫm. Từ phía bóng tối mênh mông ấy, vọng lên tiếng kêu buồn bã của con cá một mắt. Tôi đứng bất động trong tiếng i i bất tận. Những mắt tôi giàn giụa.

Rồi tôi bỗng quay ngoắt người lao xuống chân đê về xóm trại. Tôi chạy như bị ma đuổi. Hai bên tai tôi tiếng i i của con cá vọng theo. Tôi chạy đến từng nhà lũ bạn, hổn hển nói: “Nghe thấy rồi. Nghe thấy rồi”.
 Lũ trẻ xóm trại không ai bảo ai đều chạy về phía gò sông. Chúng tôi quyết định ngày mai vào lúc tối trời sẽ mang bộ đồ câu khổng lồ ra đầm Vực. Đêm ấy, lũ trẻ chúng tôi đi ngủ rất muộn. Tất cả đều nghe thấy tiếng kêu i i của con cá một mắt suốt đêm.

Buổi chiều tôi và mấy đứa bạn ra khu nghĩa địa làng để thăm mộ ông Bộc. Ông Bộc mất đã gần một năm rồi. Những cây cúc chúng tôi trồng trên mộ ông đang nở hoa vàng rực. Mấy đứa trẻ chúng tôi ngồi xuống bên mộ ông.

- Ông Bộc có nghe thấy chúng mình nói không nhỉ? - Một đứa hỏi.
 - Thế thì mình nói cho ông Bộc biết tối nay mình sẽ bắt con cá cho ông.
  - Có. - Tôi đáp. - Bà tớ bảo người chết rồi hồn vẫn về thăm gia đình.
- Biết có bắt không mà nói trước.

- Phải bắt được chứ! - Tôi nói - Mình nói chuyện như thế này thì ông Bộc cũng nghe thấy rồi.

Sau đó tôi đi thăm mộ ông bà tôi. Đứng trước mộ bà tôi, tôi thầm nói: “Bà ơi, bà bảo với bà sư đầm Vực phù hộ cho chúng cháu, chúng cháu muốn bắt được con cá để minh oan cho ông Bộc”.

Tôi thấy những bông hoa cúc đung đưa trước gió. Tôi nhớ đôi môi bà tôi đỏ nước trầu trước lúc bà tôi ra đi. Tôi như thấy bà tôi hiện lên thơm thảo và hiền từ như xưa. Bà tôi nhìn, mỉm cười và gật đầu.

Có lẽ chưa bao giờ chúng tôi giục mẹ ăn cơm tối sớm như hôm nay. Cũng chưa bao giờ anh em tôi lại ăn một bữa cơm vội vã như thế. Sau bữa cơm chúng tôi chạy như bay về gò sông. Lũ trẻ cũng đã có mặt đông đủ. Chúng tôi nhanh chóng chuyển bộ đồ câu ra đầm Vực. Để người lớn không nhìn thấy, chúng tôi đi men theo những bụi cây dứa dại và tầm xuân.

Đến bờ đầm Vực, chúng tôi buộc chiếc tời vào một gốc cây si đã chọn từ trước. Sau đó, chúng tôi buộc chiếc lưỡi câu khổng lồ vào dưới bụng con vịt. Mỏ con vịt đã bị chúng tôi buộc lại để tránh tiếng kêu của nó. Cả lũ chúng tôi im lặng làm việc vội vã. Trời đã vào những ngày cuối cùng của mùa thu. Mặt nước đầm Vực khẽ gợn sóng hắt lên một thứ ánh sáng bí ẩn. Khi đã chuẩn bị xong, chúng tôi bắt đầu thả chú vịt có áp lưỡi câu dưới bụng xuống nước. Chúng tôi vung tay lùa con vịt ra phía giữa đầm. Trong lúc đó, chúng tôi từ từ thả dây câu được bện bằng những sợi đay. Cứ mười mét dây, chúng tôi lại buộc vào đó một cái phao bằng một ống tre khô có mấu bịt ở hai đầu. Sợi dây câu thả ra càng dài thì con vịt bơi càng chậm vì dây đay thấm nước trở nên rất nặng. Nhiều lần, con vịt quay đầu bơi về phía bờ đầm nơi chúng tôi đứng. Chúng tôi lại ra sức đuổi nó bơi sang bờ đầm bên kia. Cuối cùng, con vịt cũng phải ráng sức bơi về phía bờ đầm bên kia.

Hoàng hôn đã phủ kín mặt đầm Vực. Phải căng mắt chúng tôi mới có thể lờ mờ nhận ra vệt bơi chậm chạp của con vịt. Tất cả lũ trẻ nín thở. Dây câu đã thả hết. Và con vịt vẫn luẩn quẩn bơi ở gần giữa đầm. Bỗng chúng tôi giật thót mình vì tiếng vịt “quặc, quặc” đột nhiên cất lên. Một đứa khẽ kêu lên:

- Chết rồi. Dây buộc mỏ nó tuột rồi.

- Không việc gì đâu! - Tôi nói. - Chẳng ai nghe thấy đâu mà sợ.

Bị buộc mỏ quá lâu, giờ con vịt cứ thế kêu thảm thiết. Lũ trẻ chúng tôi hoảng hốt thật sự. Nhưng rồi con vịt cũng câm tiếng. Chắc là nó quá mệt vì nó phải mang theo một cái lưỡi câu lớn và một đoạn dây câu dài hàng trăm mét.

Bóng tối đã phủ ngập tất cả. Mặ trở nên lặng phắc. Lũ trẻ chúng tôi ngồi sát bên nhau không nói một lời nào. Thời gian nặng nề trôi. Chúng tôi không biết con vịt đang ở đâu, cũng không nghe thấy nó kêu một tiếng nào.

- Con vịt đâu rồi nhỉ? - Một đứa hỏi.

- Hay là nó tuột khỏi lưỡi câu rồi? - Một đứa khác thì thào.

- Cuộn dây vào xem sao. - Một đứa lên tiếng.

- Ừ. - Tôi nói - Nhưng từ từ thôi.

Khi chúng tôi chuẩn bị quay tời thì có tiếng cá quẫy mạnh.

- Nó đấy. - Tất cả lũ trẻ đều kêu lên. Đúng là tiếng quẫy của con cá một mắt. Sau đó là tiếng con vịt cất lên và sóng do con cá quẫy vỗ nhẹ vào bờ đầm rồi tất cả lại chìm vào im lặng. Chúng tôi nín thở chờ đợi. Cuối cùng một đứa sốt ruột lên tiếng:

- Cứ cuộn dây vào đi, như là câu cá quả ấy mà.

- Cuộn thì cuộn. - Một đứa gắt.

Chúng tôi từ từ quay tời. Khi chúng tôi cuộn được chừng một nửa sợi dây câu thì có tiếng con cá một mắt quẫy mạnh. Sợi dây câu vụt căng xiết.

Tôi kêu lên:

- Nó cắn câu rồi. Quay nhanh.

Chúng tôi xúm vào quay tời. Con cá một mắt đã cắn câu. Chúng tôi không thể nào quay tời được nữa. Chúng tôi chỉ còn cách cố sức giữ cho vững mà thôi. Con cá đã mắc câu. Nó lao vút lên khỏi mặt nước và đập mình xuống. Tiếng nước nổ tung như bị bom đánh. Chiếc tời lung lay như sắp tung ra khỏi gốc cây.

- Thả dây câu ra! - Tôi hét lên.

Chúng tôi nới vòng tời. Tay quay tời quay mạnh hất tung tay chúng tôi ra. Con cá lao đi, kéo dây tời làm cái tay quay tời quay tít. Rồi dây câu chợt chùng xuống.

- Quay.

Chúng tôi lại ra sức quay tời. Con cá lao lên khỏi mặt nước. Rồi nó phóng điên cuồng trên mặt đầm. Cả khu đầm Vực náo động. Cứ như thế khi con cá kéo dây câu thì chúng tôi thả tời. Và nó nằm nghỉ thì chúng tôi quay tời cuộn dây câu. Người chúng tôi đẫm mồ hôi. Dây đay càng thấm nước càng dẻo vè dai nên con cá một mắt không thể nào dứt đứt nổi dây câu. Sức con cá giật dây câu mỗi lúc một yếu. Chúng tôi hò nhau quay tời liên tục. Khi con cá được kéo vào gần bờ, tôi hô to:

- Đốt đuốc lên.

Một bó đuốc bằng lá dứa khô được đốt lên. Và khi đầu con cá được kéo lên thì chúng tôi chững lại. Trong ánh đuốc chập chờn, chúng tôi nhìn thấy mồm con cá há hốc lộ ra hai hàm răng lởm chởm.

- Lôi nó lên bờ đi, kẻo nó lại chạy mất bây giờ.

Chúng tôi xúm vào lôi con cá lên bờ. Khi con cá đã nằm trên thảm cỏ thì chúng tôi cũng kiệt sức, cả lũ ngã vật lên bãi cỏ.

- Dậy đi chúng mày! - Tôi ngồi dậy mà nói - Đốt hết đuốc lên. Thằng Mên đưa tao cái dao, phải mổ bụng con cá ngay.

Lũ trẻ ngồi dậy và lấy những bó đuốc mang theo. Gần chục bó đuốc được đốt lên. Khi những bó đuốc soi sáng con cá thì tất cả chúng tôi cùng kêu lên kinh hoàng.

Con cá một mắt nằm trên bãi cỏ. Đôi mang nó thở chậm. Mỗi lần đôi mang mở ra, đóng lại thì máu từ đôi mang lại xối xả phun ra. Trong ánh đuốc rực sáng, chúng tôi nhận thấy nó không phải là một con cá bình thường. Thân thể con cá nham nhở những vết sẹo và nổi những u thịt. Ở mỗi u thịt đó còn lộ ra một phần của những chiếc lưỡi câu chùm và đôi khi còn cả một đoạn cước. Và kinh hoàng hơn là miệng con cá bám dày đặc lưỡi câu. Đã hơn năm mươi năm nay, con cá một mắt đã trải qua biết bao nhiêu cuộc săn bắt. Trong cuộc đời nó đã hàng trăm lần thoát khỏi cái chết. Bây giờ nó đang nằm kia thoi thóp thở. Con mắt đơn độc của con cá sáng lên vì ánh lửa đuốc. Mắt con cá đang nhìn lũ trẻ, đôi lúc lại chớp khẽ như mắt người. Máu vẫn đều đều chảy ra từ miệng, từ mang con cá.

Con dao để mổ cá từ tay tôi rơi xuống đất và bỗng nhiên, cả lũ trẻ oà khóc. Những ngọn đuốc run rẩy trên tay chúng tôi. Chúng tôi khóc trước đôi vây rách tướp của con cá trông như bàn tay xương xẩu của một người già. Chúng tôi khóc trước thân thể con cá bám dày đặc lưỡi câu lớn, nhỏ. Suốt mấy chục năm nay, những lưỡi câu kia không hề buông tha con cá. Chúng tôi khóc trước những dòng máu vẫn tuôn chảy từ con cá. Và chúng tôi khóc trước con mắt cá chớp khẽ như một con mắt người.

Trong lúc chúng tôi đang khóc thì lão Bương xách đèn cùng một đoàn người xóm trại tất tả từ trên mặt đê đi về phía chúng tôi. Lão Bương đã nghe tiếng cá quẫy náo động trên đầm Vực. Lão gọi một số người trong xóm ra đầm Vực để xem chuyện gì.

Những người trong xóm trại kinh ngạc nhận ra chúng tôi đang đứng quanh con cá. Lão Bương xách đèn xấn tới. Mặt lão bạc trắng. Đôi mắt lão trợn tròn.

- Ái chà, ái chà! - Lão Bương kêu lên. - Đúng là nó đây rồi. Cuối cùng thì mày cũng phải chết.

Nói xong, lão lấy chân đá đá vào bụng con cá. Rồi lão nhìn mọi người, lên tiếng:

- Bà con đâu khiêng con cá về xóm. Ta làm thịt nó và chia đều cho các gia đình.

- Không được! - Tất cả bọn trẻ chúng tôi kêu lên.

- Ơ, ơ... - lão Bương lắp bắp. - Chúng mày nói cái gì thế? Con cá này là của xóm trại. Chúng ông tốn bao sức săn bắt nó. Bây giờ nó sắp chết, nổi lên thì chúng mày vớt chứ gì.

Tôi chộp lấy con dao và bước đến trước lão Bương. Lão lùi lại ú ớ:

- Này, này đừng có hỗn.

- Con cá này không phải của ông! - Tôi nói.

- Của mày chắc? - Lão Bương lên giọng.

- Không phải của ông! - Tôi nói như gào. - Không phải của ai cả. Con cá này là của ông Bộc.

Lão Bương rú lên cười:

- Thằng này lẩn thẩn. Lão Bộc chết từ tám hoánh rồi thì mày cho ma lão Bộc à?

Tôi nói:

- Chúng cháu phải trả con cá này cho ông Bộc. Chúng cháu sẽ chôn nó xuống cạnh mộ ông Bộc.

Nghe tôi nói vậy, lũ trẻ xóm trại nhảy lên reo hò:

- Đúng rồi! Đúng rồi!

Một chiếc xe tải nhanh chóng được đưa đến. Chúng tôi khiêng con cá lên xe và chở đến nghĩa địa làng. Những bó đuốc được đốt thêm. Lúc đó trên đê đèn như sao sa. Tất cả những người lớn xóm trại nghe tin chúng tôi bắt được con cá đều xách đèn chạy ra xem. Và họ đi theo chúng tôi đến nghĩa địa. Đây là lần đầu tiên, khu nghĩa địa làng tôi bừng sáng.

Chúng tôi nhanh chóng đào một cái huyệt nhỏ và đặt con cá nằm xuống đó. Bên cạnh ngôi mộ của ông Bộc nở đầy hoa cúc là ngôi mộ của con cá. Rồi chúng tôi đứng vây quanh mộ ông Bộc.

Ông Bộc ơi! Chúng cháu đã bắt được con cá mà cả đời ông không bắt được. Chúng cháu sẽ làm đúng lời hứa của mình. Chỉ có một điều chúng cháu không làm là chúng cháu không mổ bụng con cá để minh oan cho ông. Ông Bộc ơi, con cá đã quá nhiều đau đớn, chúng cháu không nỡ nào mổ bụng nó nữa. Ông đừng buồn, chính chúng cháu sẽ là bằng chứng để minh oan cho ông. Một người tài như ông, yêu trẻ con như ông không thể là một người phản bội.

Đứng quanh mộ ông một lúc lâu, chúng tôi từ từ quay lại. Phía sau chúng tôi là một dãy đèn dài của những người xóm trại. Lão Bương cũng đứng ở đó. Mắt lão mở to không chớp. Lão ngơ ngác nhìn chúng tôi. Hình như lão vẫn chưa hiểu được chuyện gì đã xảy ra…

Hà Đông. Tháng Chạp, năm Bính Tý


Bí Mật Hồ Cá Thần - (Nguyễn Quang Thiều) chương 7

Chúng tôi có ngờ đâu đó là bữa ăn cuối cùng của đời ông Bộc. Ngày hôm sau chúng tôi đến thăm ông trên đường đi học về. Ông nằm mê man, thoi thóp thở. Tôi chạy về gọi mẹ tôi. Mẹ tôi tất tưởi sang thăm ông. Mẹ tôi lay gọi mãi ông mới từ từ mở mắt. Đôi mắt ông dài d

- Ông ơi, ông thấy trong người thế nào? - Mẹ tôi hỏi.

Ông Bộc nhìn mẹ tôi và như cố nuốt một vật gì đó mắc vào trong cổ họng.

- Ông thấy trong người thế nào? - Mẹ tôi hỏi lại.

- Ch…ê…ết! - Ông Bộc thều thào.

- Ông đừng nói dại! - Mẹ tôi nói. - Ông phải sống để vui với bà con xóm trại.

- Chết! - Ông lại thều thào.

Mẹ tôi lấy nước nóng rửa mặt cho ông Bộc. Rồi mẹ tôi kéo tôi ra hiên nhà dặn:

- Con ở đây với ông Bộc. Để mẹ đi báo cho mấy ông bà trong xóm. Chắc ông ấy không qua khỏi đêm nay đâu.

Nói xong, mẹ tôi tất tưởi đi. Tôi đến bên ông Bộc khẽ gọi:

- Ông Bộc ơi, ông Bộc!

Ông Bộc mở mắt nhìn tôi rất lâu rồi nói:

- Mon… đấy… à…

Tôi vội gật đầu:

- Vâng, vâng, cháu đâ

- Ông không… sống… được n-ữ-a…

Ông Bộc nói từng tiếng một nặng nhọc.

- Ông ơi! Cháu nhìn thấy con cá một mắt ở đầm Vực tối qua, ông ạ.

- Một… mắt… à? - Ông Bộc hỏi.

Tôi vội gật đầu.

Mẹ tôi đã trở lại cùng một vài người già xóm trại. Họ gọi ông Bộc và hỏi ông có nhận ra ai không. Ông Bộc đã thiếp đi. Ông nằm bất động.

Mẹ tôi và mọi người kéo nhau bàn chuyện hậu sự cho ông Bộc. Mọi người quả quyết chỉ đến giữa đêm là ông Bộc sẽ trút hơi thở cuối cùng. Mẹ tôi được sai đi gọi thợ mộc trong làng đến để đóng áo quan cho ông Bộc. Cuối chiều thì hai ông thợ mộc trong làng đến. Họ lôi từ góc nhà ra mấy tấm gỗ mà ông Bộc đã chuẩn bị từ mấy năm nay.

Buổi tối, đèn đóm thắp sáng trưng ở sân nhà ông Bộc.

Làng xóm đến thăm ông Bộc rất đông. Mẹ tôi tất bật đun nước. Lũ trẻ xóm trại chúng tôi quanh quẩn trước nơi ông Bộc nằm. Đến khuya thì cỗ áo quan được đóng xong. Người ta khiêng cỗ áo quan lên hiên nhà và quét sơn đỏ. Tôi nhìn cỗ áo quan của ông Bộc và rùng mình nhớ lại cỗ áo quan nhỏ mà bố tôi đóng cho tôi năm ngoái.

Đến khuya mọi người về hết. Chỉ còn lại một vài người ở lại trông coi ông Bộc. Họ trải chiếu ra hiên nhà ngồi uống rượu và đánh tổ tôm. Mẹ tôi thu dọn nhà cửa cho ông Bộc xong rồi đưa tôi về nhà. Tôi nắm chặt tay mẹ tôi đi qua những lối xóm tối om. Và ngoài tiếng xào xạc của lá cây, tôi lại nghe từ phía bên kia con đê vọng v con cá.

Sáng hôm sau tỉnh dậy tôi thấy mẹ tôi đang chuẩn bị gánh rau cải ra chợ bán. Tôi đến bên mẹ tôi, hỏi:

- Ông Bộc có làm sao không mẹ?

Mẹ nói:

- Sáng nay lại thấy tinh tỉnh. May thì qua khỏi. Ở nhà trông nhà. Mẹ đi chợ mua lạng thịt tươi nấu cháo cho ông cụ.

Gần trưa mẹ tôi đi chợ về. Tôi theo mẹ sang nhà ông Bộc. Ông bỗng tỉnh táo lạ thường. Thấy tôi đến, ông ra hiệu cho tôi lại gần. Tôi thấy đôi mắt ông tỉnh hơn. Tôi ngồi xuống bên ông, nói:

- Mẹ cháu đang nấu cháo thịt cho ông dưới bếp.

Ông không nói gì cứ nhìn tôi. Một lúc sau ông hỏi:

- Cháu gặp con cá à?

- Vâng! - Tôi đáp.

Tôi thấy ánh mắt ông chợt sáng lên.

- Ông không thể sống được nữa. Ông nhờ cháu một việc…

- Việc gì hở ông?

- Sau khi ông chết, cháu giúp ông bắt cho được con cá một mắt và mổ bụng nó ra, lấy cái ấy, mang lên huyện

- Vâng! Vâng! - Tôi đáp - Cháu sẽ bắt. Cháu sẽ bắt.

- Cháu phải hứa với ông là bắt được con cá ấy, cháu nhé. - Ông nói. - Nếu không ông chết không nhắm mắt được.

Tôi thấy ông tỉnh táo và rất nhanh, nhanh hơn cả khi còn khỏe mạnh. Tôi cầm lấy bàn tay khô đét của ông và nói:

- Cháu hứa, cháu hứa, ông ạ. Cháu sẽ bắt được con cá ấy. Cháu hứa với ông.

Những ngón tay ông bỗng khỏe lạ lùng quặp chặt bàn tay bé bỏng của tôi. Đôi mắt ông mở to lạ lùng nhìn tôi. Bỗng đôi mắt ông lạc đi. Ông nấc lên. Những ngón tay ông từ từ duỗi ra. Tôi hoảng hốt định chạy xuống bếp gọi mẹ thì mẹ tôi cũng vừa bưng bát cháo bốc hơi nghi ngút bước vào.

- Mẹ ơi! - Tôi kêu lên - Ông Bộc làm sao ấy.

Mẹ tôi đặt bát cháo và chạy đến bên ông Bộc. Mẹ tôi cầm lấy tay ông vừa lắc vừa gọi:

- Ông ơi, ông. Ông tỉnh lại đi, ông ơi!...

Ông Bộc nằm ngoẹo đầu sang một bên. Khóe miệng ông chảy một vệt nước dãi.

- Con ơi! - Mẹ tôi gọi tôi và òa khóc. - Ông Bộc mất rồi. Ông ơi là ông. Sao ông không đợi ăn miếng cháo rồi đi, hở ông. Sao ông vội đi thế này, ông ơi.

Tôi òa khóc theo mẹ. Nghe tiếng khóc của mẹ con tôi, hàng xóm vội vã ùa đến. Có ai đẩy tôi ra

- Trẻ con đi ra ngoài kia. Đây không phải chỗ của chúng mày.

Tôi bước ra ngoài sân. Tôi đứng giữa sân nhìn về phía chân đê. Ở đó hoa tầm xuân đang bời bời nở. Chưa có năm nào hoa tầm xuân lại nở nhiều đến thế.

Hình như tất cả trẻ con xóm trại đều đi đưa tang ông Bộc. Đó là một ngày nắng ấm. Dọc hai bên đường chạy từ chân đê ra khu nghĩa địa của làng nở đầy hoa tầm xuân. Cả đám tang hầu như không có tiếng khóc. Và đặc biệt không có điếu văn. Người viết điếu văn của làng không biết viết về ông Bộc như thế nào. Đội bát âm của làng cũng không đủ. Chỉ có một người thổi kèn và một người đánh trống. Tiếng kèn đơn điệu như tiếng kèn bằng lá dứa dại mà bọn trẻ chúng tôi vẫn hay thổi trên đê.

Ông Bộc được chôn vào một góc nghĩa địa. Khi những người lớn đã về hết, lũ trẻ chúng tôi hò nhau lấy đất cày ở gần đó đắp thêm cho ngôi mộ của ông Bộc. Sau đó, tôi đến trước mộ bà tôi:

- Bà ơi! - Tôi nói khẽ - Ông Bộc đi theo bà rồi đấy.

Sau đó, tôi đào một ít cây hoa cúc trên mộ bà tôi trồng vào mộ ông Bộc. Những bông cúc vàng làm ngôi mộ trông ấm hẳn. Tôi ngồi xuống trước mộ ông Bộc thì thầm:

- Ông Bộc ơi! Cháu hứa sẽ bắt được con cá một mắt cho ông.

Đêm đó, cả đầm Vực bị khuấy động gần như suốt đêm bởi con cá. Những người đàn ông xóm trại tụ tập trên mặt đê. Lũ trẻ chúng tôi cũng có mặt trên đó. Những người đàn ông lại sôi sục bàn nhau bắt con cá. Suốt đêm con cá quẫy đạp và kêu i i thống thiết.

Sáng hôm sau, những người đàn ông xóm trại m cuộc vây bắt náo nhiệt trên đầm Vực. Nhưng họ không hề bắt được gì, kể cả một con cá mè. Có một vài người đã thề không bao giờ nghĩ tới con cá nữa. Còn lão Bương thì chống gậy đi vẩn vơ quanh bờ đầm suốt buổi chiều.

Cuối chiều, tôi đi ra bờ đầm lẳng lặng ngồi xuống.

Trong hoàng hôn, mặt đầm Vực mờ sương, im phắc. Tôi ngồi bó gối im lặng. Bỗng tôi giật thót mình nhận ra một vật to lớn, đen thẫm nổi lên mặt nước phía trước tôi:

- Con cá một mắt!

Tôi thảng thốt kêu lên và quờ tay tìm một vật gì đó để tự vệ. Con cá nổi lên, im lặng. Tôi nghe thấy tiếng nó thở. Nó lặng lẽ bơi vào sát bờ nơi tôi ngồi. Con cá hếch cái đầu về phía tôi. Tôi nhìn xoáy vào con cá và nhận ra nó chỉ có một mắt, to như mắt trâu. Mắt con cá nhìn thẳng vào tôi, tôi thấy con cá chớp khẽ:

- Mày hãy trả lại cho ông Bộc cái ấy.

Tôi buột miệng nói. Con cá vẫn im lặng và thở phì phò.

- Trả lại đi! - Tôi kêu lên - Trả lại đi!

Tôi không biết lúc đó tôi kêu lên vì căm thù hay hoảng sợ. Tiếng kêu của tôi dội xuống mặt nước, vang xa.

Sau tiếng kêu của tôi, con cá chớp mắt rồi từ từ lặn xuống. Tôi bật đứng dậy, tay chân khua khoắng trong không khí và gào lên:

- Trả lại đi! Trả lại đi!

Mặt đầm tối dần dội lại tiếng tôi. Tôi chạy men theo bờ vừa chạy vừa kêu: “Trả lại đi! Trả lại đi!”. Tôi vừa chạy vừa kêu cho đến khi mệt lả. Tôi ngồi bệt xuống cỏ ven bờ đầm, thở. Chợt giữa đầm có tiếng quẫy mạnh. Tôi không nhìn thấy con cá. Tôi chỉ thấy những vòng sóng lan rộng mãi. Và từ giữa mặt đầm đã sẩm tối, tiếng i i của con cá vọng lại.

Tôi chợt nhớ đến lời bà tôi bảo khi con cá kêu như vậy là nó buồn. Tôi tự hỏi: Có phải con cá buồn thật không? Và có phải nó buồn vì ông Bộc đã chết rồi không? Nếu con cá biết buồn về cái chết của ông Bộc thì sao nó không trả lại cho ông Bộc cái mà ông Bộc đã săn tìm suốt hơn 50 năm nay.

Khi chưa được nghe ông Bộc kể câu chuyện của ông với con cá một mắt, thì con cá sống trong tôi thiêng liêng và bí ẩn như một con cá thần. Nhưng khi biết câu chuyện của đời ông Bộc, trong lòng tôi là sự căm thù và kinh sợ con cá. Tôi thèm khát bắt được con cá và rạch tung bụng nó ra. Tôi sẽ minh oan được cho ông Bộc. Ý định ấy chưa bao giờ thôi thúc tôi mạnh mẽ đến như vậy.

Về đến nhà, tôi gọi thằng Mên ra ngõ và bảo:

- Tao với mày phải tìm cách bắt con cá một mắt.

Thằng Mên nói nhỏ:

- Em sợ lắm.

Tôi hỏi:


- Vì sao?
Thằng Mên nói:

- Đấy là cá thần, không bắt được đâu. Bố không bắt được, ông Bộc không bắt được, anh em mình làm sao mà

Tôi quả quyết:

- Bắt được chứ. Tao hứa với ông Bộc rồi.

Thằng Mên im lặng hồi lâu rồi hỏi:

- Anh lấy cần câu rô để câu con cá một mắt à?

Tôi gắt:

- Ngu ơi là ngu. Cá rô chỉ bằng cái vảy con cá một mắt.

Thằng Mên hỏi:

- Thế anh câu nó bằng cái gì? Hay đào quả bộc phá của lão Bương lên mà đánh nó.

Tôi quát:

- Tao cấm mày đụng đến quả bộc phá ấy. Tao sẽ có cách.

Thằng Mên lại hỏi:

- Như thế nào hở anh?

Tôi vò đầu:

- Giời ơi! Cái gì mày cũng hỏi. Tao còn phải nghĩ.

Vừa lúc đó, chúng tôi nghe tiếng mẹ gọi về ăn cơm tối. Trước khi bước vào ân, tôi giữ thằng Mên lại dặn nó:

- Tao cấm mày đụng đến quả bộc phá ấy nhé.

- Em ứ thèm.

Nói xong, nó bỏ chạy vào nhà. Và suốt bữa ăn tôi chỉ nghĩ đến cách bắt cho được con cá một mắt.
 Một mùa hạ lại đến. Cả xóm trại ran ran tiếng ve sầu. Lũ trẻ xóm trại chúng tôi lang thang từ sớm đến tối om mới về nhà.

Vào lúc gà gáy sáng thì có tiếng sấm. Tiếng sấm vọng về từ xa lắc. Những ngọn gió mang hơi mưa thổi về xóm trại. Buổi sáng thức dậy, tôi thấy mây từ phía núi đùn lên xám đục. Kiến đỏ từng đàn đông nghịt leo ngược tường nhà. Cóc nhái kêu ran dọc chân đê.

Đến chiều, gió thổi mạnh. Chúng tôi gọi nhau í ới và chạy lên mặt đê. Sấm bắt đầu nổ vang. Chỉ ít phút sau, cảnh vật bên kia sông đã biến mất trong mưa. Bọn trẻ chúng tôi reo hò chạy về nhà. Nhưng vừa xuống đến chân đê thì mưa ập đến.

Mưa đổ xuống mênh mang. Sấm nổ như không ngớt. Cứ thế, mưa kéo dài đến khi lên đèn thì ngớt. Tiếng ếch ương kêu uôm uôm trong các vườn chuối.

Ăn cơm xong thì trời lại mưa. Mưa không to bằng lúc chiều nhưng đều đều, rền rĩ. Bố tôi mặc áo mư vác vó đi. Những trận mưa đầu mùa như thế này, cá đi ăn rất đông. Những người đàn ông xóm trại thường đi kéo vó hoặc soi cá suốt đêm.

Ba ngày sau trời vẫn đổ mưa vào buổi chiều hoặc lúc gà gáy sáng. Nước sông lên cao, ngầu đỏ. Nước đầm Vực cũng ngầu đỏ như nước sông và dâng lên đến chân đê. Khi nước dâng lên đến chân đê là cũng vào mùa đi bắt lươn của lũ trẻ xóm trại.

Năm nào cũng vậy mùa bắt lươn đầm Vực bắt đầu khi nước đầm dâng lên đến chân đê. Những con giun và côn trùng khác đều bị chết vì ngập nước. Đến đêm nước lặng, từng đàn lươn lớn bé từ đáy đầm Vực mò lên chân đê để ăn mồi. Bắt lươn chỉ là công việc của bọn trẻ chúng tôi. Mỗi đứa trẻ có một chiếc đèn pin, một chiếc giỏ và một chiếc gậy có móc sắt ở đầu. Chúng tôi soi đèn xuống mép nước để phát hiện những con lươn đang bò đi tìm mồi.

Chúng tôi soi đèn vào chú lươn định bắt. Những con lươn say mồi không để ý gì đến ánh đèn và cả tiếng chân người. Chúng tôi dùng cái móc sắt đưa gần vào con lươn rồi hất mạnh chúng lên triền đê. Động tác rất nhanh làm chú lươn không kịp phản ứng. Chú lươn bị hất lên triền đê cứ rúc đầu chui vào cỏ. Lúc đó chúng tôi chỉ cần dùng ngón tay giữa quặp ngang thân chú lươn là nó hết đường chạy.

Lươn ở đầm Vực to béo lạ thường, da vàng ươm. Đầm Vực rộng và sâu, bởi thế lươn sinh đẻ nhiều mà ít bị bắt. Dọc mép nước ở chân đê ven đầm Vực lươn bám đặc. Hầu như chúng tôi hất cái nào cũng được lươn. Vào mùa bắt lươn, có đêm bắt được nhiều, mẹ tôi còn mang đi bán tận chợ Đình. Tiền bán lươn mỗi mùa đủ mua cho chúng tôi mỗi đứa một bộ quần áo và sách bút cho năm học mới.

Năm nay mùa mưa đến sớm. Buổi chiều chúng tôi lên đê xem nước đầm Vực. Nước đầm Vực đã ngập ngang những bụi dứa dại mọc sát chân đê. Buổi chiều, chúng tôi ăn cơm sớm và chuẩn bị đầy đủ cho buổi bắt lươn đầu tiên của mùa mưa năm nay.

Trời vừa sập tối chúng tôi đã lên đê. Trên mặt đê đã lấp lóa ánh đèn của những đứa trẻ xóm trại. Ở cánh đồng bên kia đầm Vực cũng le lói ánh đèn của những người đi kéo cá. Hầu hết người l không đi bắt lươn mà chỉ kéo vó. Nước lên, cá từ đầm Vực kéo nhau vào những ruộng lúa rất nhiều. Có người kéo một đêm được cả tạ cá.

Mưa vẫn rỉ rả. Đứng trên mặt đê tôi lại nhớ đến ông Bộc. Khi còn sống, bà tôi bảo đêm nào ông Bộc cũng lên đê một mình và nhìn xuống đầm nước. Chính tôi cũng đã gặp ông Bộc đứng trên mặt đê một mình trong một đêm mưa như thế này. Ngày ấy, tôi không hiểu gì. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu được một phần.

Khi chúng tôi đang say sưa soi lươn thì từ phía cánh đồng vọng lại tiếng người huyên náo. Rồi có nhiều người bấm đèn pin chạy về phía chân đê.

Trong những người đó có bố tôi.

- Bố chạy đi đâu đấy? - Thằng Mên hỏi.

Bố tôi dừng lại, thở hổn hển:

- Con cá một mắt vào đồng rồi. Hai đứa về đi, không bắt lươn nữa.

Bố tôi và những người đàn ông xóm trại phát hiện con cá một mắt bơi vào đồng. Trước kia, vào mùa nước, nó cũng đã từ đầm Vực bơi vào. Những người đàn ông xóm trại chạy về nhà lấy dụng cụ để vây bắt con cá. Cả xóm trại được đánh thức. Những người đàn ông xóm trại dồn hết ra bờ bên kia cánh đồng của đầm Vực. Đèn đóm sáng trưng. Cả một đoạn đầm Vực ngập nước liền với cánh đồng được cắm cọc và giăng lưới dày đặc ba bốn lớp để chặn đường trở về đầm Vực của con cá. Một đám đông tay lăm lăm cuốc, xẻng, dao, gậy dàn ra như dàn trận. Trên một gò đất cao có cắm một chiếc cọc treo một ngọn đèn bão, lão Bương tay cầm con dao sáng quắc nhìn mọi người, nói:

- Thưa anh em. Con cá một mắt đã vào trong đồng rồi. Nó chỉ còn một đường quay lại đầm Vực là chỗ này. Đêm nay chúng ta sẽ vây bắt nó. Lực lượng tập trung chính là ở đây. Nếu thấy nó, tôi hô giết, thì các anh em cứ băm vằm n

Sau đó, từng tốp người đèn đuốc sáng trưng chia đi các ngả trên cánh đồng để tìm con cá. Bọn trẻ con xóm trại cũng bỏ việc bắt lươn để kéo đến bờ đầm bên kia xem cuộc vây bắt con cá một mắt. Mưa vẫn rỉ rả. Tôi đứng lẫn trong mọi người và cầu mong bắt được con cá. Trước kia, tôi không muốn những người đàn ông xóm trại bắt được con cá. Nhưng bây giờ thì tôi muốn. Tôi mong tìm thấy cái vật bí ẩn kia trong bụng con cá. Tôi thương ông Bộc và tôi đã hứa với ông.

Những tốp đi tìm con cá đã trở về tập trung bên bờ đầm. Họ không thấy tăm hơi con cá đâu cả. Lão Bương nhìn mọi người phẩy tay nói:

- Đêm hôm thế này khó nhìn lắm. Bây giờ ta cử người trông coi ở đây. Sớm mai tất cả mọi người hễ nghe tiếng kẻng là tập trung tại đây.

Một tốp thanh niên được cử lại bờ đầm canh gác nơi con cá một mắt có thể trở lại. Tôi theo bố tôi về nhà. Tôi mong trời chóng sáng để ra bờ đầm xem bắt con cá.

Tôi thức giấc bởi tiếng kẻng. Cả xóm trại nháo nhác tiếng người. Anh em tôi chạy lên đê. Gió sớm mát rượi. Những người đàn ông xóm trại đã có mặt đông đủ với đủ loại vũ khí để vây bắt con cá.

Trời đã sáng. Không khó khăn gì người ta đã phát hiện ra con cá. Con cá lớn quá nên vây lưng của nó nhô lên khỏi mặt nước. Nó bơi đến đâu nước rẽ ra đến đó.

Lão Bương đứng trên gò đất cao. Bên cạnh lão là một thanh niên cầm dùi trống. Lão Bương chỉ tay về phía con cá đang lừ lừ rẽ nước, gào to:

- Tấn công!

Trống bắt đầu nổi lên. Những người đàn ông xóm trại hò hét và lao về phía con cá. Những chiếc lao bằng gốc tre được phóng vào con cá. Con cá bị trúng lao. ó quẫy mạnh và lao vun vút. Một cảnh tượng không thể tin nổi hiện ra. Con cá lao lướt trên mặt nước như một chiếc xuồng máy. Nước bị xé ra và dựng lên. Sóng đập vào bờ tung lên như sóng biển. Trống thúc liên hồi. Những người đàn ông điên cuồng tấn công con cá. Sau một lúc lao điên loạn trên cánh đồng ngập nước, con cá một mắt đã tìm ra hướng trở lại đầm Vực. Khi con cá đến gần lối thông từ đầm Vực vào cánh đồng thì những người canh gác đã sẵn sàng phóng lao vào nó. Những người khác tay lăm lăm lao. Con cá một mắt dừng lại rồi đột nhiên lao thẳng tới. Nhưng những lớp lưới dày đã cản nó lại. Cùng lúc đó, những cây lao, cuốc, xẻng và dao tới tấp phóng vào nó. Con cá quẫy mạnh. Nước tung lên mù mịt. Con cá bơi trở lại cánh đồng. Con cá đã bị nhiều vết thương. Máu của nó loang đỏ trên mặt nước. Những người đàn ông xóm trại không cho con cá nghỉ lấy sức. Họ tấn công con cá bằng mọi cách. Sau mỗi lần bị tấn công, con cá lại tìm cách trở lại đầm Vực. Nhưng nó không phá nổi cái hàng phòng ngự của lưới và người dày đặc.

Lần cuối cùng, con cá nổi lên. Nó nghếch đầu nhìn về phía mọi người đang la hét và sẵn sàng băm nát nó. Mọi người đều nhìn thấy đầu con cá to bằng cái chum sành đựng thóc, con mắt to như mắt trâu. Con cá một mắt từ từ bơi lùi ra xa sau hồi lâu nhìn những người đàn ông xóm trại đang chặn đường về đầm Vực của nó. Rồi bất chợt nó đập mạnh đuôi và lao về phía mọi người. Khi đến gần cái tuyến phòng thủ ấy, con cá tung mình lên. Như một chiếc tàu bay, con cá lao qua đầu mọi người sang bên đầm Vực. Nó rơi xuống đầm nước. Một cột nước lớn dựng lên cao ngất và đổ xuống như một trái núi lở. Tất cả những người có mặt ở đó kêu lên kinh hãi. Sau đó, mọi người như chết đứng.

Suốt mấy ngày sau, cả xóm trại ngơ ngác. Bố tôi suốt ngày sang nhà lão Bương uống rượu. Những người đàn ông xóm trại đã thề không bao giờ nghĩ đến chuyện bắt con cá một mắt nữa. Những người khác cho rằng đó không phải là một con cá, mà đích thị là một con quỷ. Những người đàn bà xóm trại lo lắng con quỷ một mắt sẽ trả thù những người săn bắt nó.

Đêm đêm, tôi nằm trôi trong những nỗi lo âu tản mạn. Cứ chớp mắt tôi lại thấy ông Bộc gọi tôi từ ngoài cửa sổ mở ra vườn chuối. Ông nài nỉ tôi hãy bắt con cá một mắt để minh oan cho ông. Ông nói với tôi rằng, lòng yêu quý của tôi đối với ông sẽ giúp tôi bắt được con cá ấy. Tỉnh khỏi cơn mơ, tôi lại nhớ tới lời hứa với ông Bộc trước khi ông chết. Những lúc ấy, tôi lại nghe thấy tiếng kêu i i của con cá một mắt t đầm Vực vọng về rõ và buồn bã hơn lúc nào hết.

Những ngày sau đó, chiều nào chúng tôi cũng lên đê ngồi hóng gió và nói chuyện về con cá một mắt biết bay. Trong những cuộc trò chuyện đó, tôi chỉ ngồi im lặng. Cuối cùng tôi nói với lũ bạn:

- Chúng mình phải bắt con cá ấy.

Nghe tôi nói vậy, cả bọn nhao nhao:

- Mày điên rồi hả. Cả xóm cả làng chẳng bắt được. Thế mà mày lại đòi bắt.

- Nó chỉ quẫy một cái là mày bay lên giời.

- Nếu thằng Mon bắt được tao gọi nó bằng bố.

Tôi nhìn lũ bạn:

- Trước khi ông Bộc chết, ông Bộc nhờ tao bắt con cá một mắt.

Rồi tôi kể cho lũ bạn xóm trại nghe câu chuyện của ông Bộc. Sau khi tôi kết thúc câu chuyện, lũ trẻ ngồi im lặng rất lâu.

- Tao cũng nghe ông tao kể thế - Một đứa lên tiếng.
 - Thế ông Bộc nhờ mỗi mình mày thôi à? - Một đứa khác hỏi.

- Ông Bộc nhờ tất cả. - Tôi nói - Ông ấy mua quà cho tất cả chúng mày, quên rồi à?

- Nhưng bắt bằng cách nào? - Một đứa hỏi.

- Tao biết rồi! - Một đứa khác reo lên. - Chúng mình đào quả bộc phá của lão Bương lên mà đánh con cá.

Nghe vậy, mấy đứa khác phản đối:

- Không được đâu. Không được đâu. Đã thề là không sờ đến quả bộc phá cơ mà.

- Đúng thế! - Tôi nói - Tao có cách.

- Cách gì?

- Cách gì?

Cả bọn lại ầm ĩ hỏi.

- Rồi tao sẽ nói với chúng mày, để tao nghĩ đã. Tối nay lên đê họp bàn. Cấm đứa nào bỏ cuộc đấy.

Sau đó lũ trẻ chúng tôi giải tán. Thằng Mên chạy theo tôi hỏi:

- Anh Mon, anh tính bắt con cá bằng cách nào?

- Đã bảo để tao nghĩ mà lị.

Cả buổi chiều tôi lẩn thẩn đi dọc chân đê. Tôi cảm thấy mình bỗng lớn hẳn lên.

Năm nay tôi đã mười bốn tuổi.