Thứ Năm, tháng 9 19

Bí Mật Hồ Cá Thần - (Nguyễn Quang Thiều) chương 3

Trời đã vào giữa thu. Buổi sáng thức dậy thấy se se lạnh. Sương non đọng mờ mờ dưới chân đê khuất gió. Đó cũng là lúc vào mùa câu cá rô đầm Vực
 Bọn trẻ chúng tôi bắt đầu chuẩn bị mồi câu. Chúng tôi luộc khoai sọ, bóc vỏ. Sau đó chúng tôi cho khoai sọ vào cối giã cua, giã cùng thính và mẻ chua. Khoai sọ được giã, quánh lại với mẻ chua, thính rang tỏa mùi thơm phức, béo ngậy.
 Chúng tôi bọc mồi câu vào một chiếc lá khoai nước, mang cần câu ra đầm Vực. Sang thu, đầm Vực vắng lặng. Nước đầm Vực có rút đi và sẫm lại. Mỗi đứa trẻ xóm trại đến chọn cho mình một chỗ ngồi câu kín đáo. Anh em tôi vẫn đến địa điểm câu năm ngoái ở cạnh một gốc si già, xung quanh được che kín bằng đủ các loại cây như cây vú bò, cây cứt lợn, cây tóc tiên và những đám dây đậu dại. Hai anh em tôi chui vào giữa những bụi cây. Mặt nước đầm Vực chỗ chúng tôi ngồi sẩm tối bởi bóng tán lá si đổ xuống. Tôi vê một mẩu mồi câu bằng hạt đỗ tương móc vào lưỡi câu buông xuống mặt nước yên tĩnh.
 Mấy năm gần đây, cứ sang giữa thu là anh em tôi đi câu cá rô. Vào những mùa câu cá rô, cái vại sành nhà tôi lúc nào cũng có hơn chục con cá rô lớn để ăn dần. Đó cũng là mùa trồng rau cải dọc bãi sông. Bà tôi thường hay nấu món canh cải cá rô. Mỗi lần nấu, bà tôi chỉ bắt hai con cá rô. Bà tôi luộc cá rô, rồi sau đó gỡ thịt để riêng. Phần xương và phần đầu cá được giã kỹ, sau đó lọc lấy nước như lọc cua nấu canh. Chẳng bao giờ bà quên đập một lát gừng cho vào nồi canh. Khi nào chúng tôi câu được nhiều cá thì bà làm món cá rô nướng. Cá rô nướng chấm với tương gừng là món ăn chúng tôi rất thích. Bữa nào có cá rô nướng bố tôi lại lôi hũ rượu trong gầm giường ra.
 Cá rô đầm Vực nổi tiếng cả một vùng. Vì đầm Vực không thể nào tát cạn được nên lũ cá rô sống được rất lâu năm. Cá rô đầm Vực con nào cũng mốc thếch, ngạnh cứng như đinh, đầu bạc trắng. Có lúc đang mổ cá thấy dao cùn, bà tôi liếc lưỡi dao vào đầu một con cá rô cứng hơn cả miếng đá mài. Chỉ sau đó một lúc, lưỡi dao đã sáng loáng sắc lẻm.
Hai anh em tôi ngồi câu và ngắm nhìn những con gọng vó chạy loăng quăng. Thằng Mên sốt ruột:

- Sao lâu thế mà cá không cắn
 Tôi bảo:
 - Cá rô chứ không phải lũ tép mại, mày hiểu chưa.

Thằng Mên lại hỏi:

- Thế con cá thần có cắn câu không?

Tôi bĩu môi:

- Mày dốt lắm. Mồi câu này cá thần chỉ hắt hơi một cái là bay.

Lúc đó, chiếc phao câu khẽ nháy. Tôi ra hiệu cho thằng Mên im lặng. Chiếc phao nháy chậm và đều, rồi từ từ chìm xuống.

- Giật đi, anh! - Thằng Mên kêu lên.

Tôi giật mạnh. Đầu cần câu trĩu xuống, cước căng xiết. Chỉ một loáng, một chú cá rô đực dài hơn gang tay đã được kéo lên. Hai anh em tôi vất vả mãi mới gỡ được con cá và tống vào giỏ.

Khi hai anh em tôi đang ngồi câu thì nghe tiếng sột soạt ở gần đó và tiếng người nói chuyện. Tôi nhận ra đó là tiếng lão Bương và một người đàn ông khác.

- Ông quyết dùng cái thứ ấy à?

- Hết cách rồi - Lão Bương nói - Bây giờ là mùa nước đầm cạn, dễ tính lắm.

- Bao giờ thì thực hiện

- Tối nay thôi. Có vậy tôi mới tìm ông. Khoảng quá nửa đêm tôi sẽ cho nổ. Gần sáng, ông và mấy thằng con nhà tôi ra đầm vớt cá.

- Đã chuẩn bị xong chưa?

- Chiều nay tôi gói thuốc nổ.

- Cẩn thận đấy nhé.

- Sợ đếch gì. - Giọng lão Bương hùng hổ. - Tôi làm trò này mãi rồi. Nhớ là không lộ cho ai biết đấy.

Khi lão Bương đi rồi, thằng Mên hỏi:

- Ông Bương định làm gì thế anh?

- Lão ấy đánh mìn. - Tôi nói - Lão Bương muốn bắt con cá thần.

- Cá thần có sợ mìn không?

- Tao không biết, nhưng…

Tôi không biết nói với thằng em tôi thế nào. Trong đầu tôi đã có một kế hoạch. Tôi giục thằng Mên về.

Buổi chiều tôi đi qua sân nhà lão Bương, giả vờ vào xin nước uống. Tôi ngậm chiếc gáo dừa, nhưng không uống nước. Tôi quan sát xung quanh và nhận thấy lão Bương đang gói một bọc gì đó ở trong bếp. Tôi nghĩ ngay là lão đ gói thuốc nổ.

Sau khi rời nhà lão Bương, tôi đi tìm mấy đứa bạn trong xóm nói cho chúng nghe chuyện lão Bương sẽ dùng mìn để giết con cá. Bàn bạc với nhau mãi, chúng tôi quyết định sẽ lẻn vào bếp nhà lão để đánh cắp quả mìn.

Buổi tối ăn cơm xong, tôi nói dối mẹ là vào làng thăm bà ngoại. Mấy đứa chúng tôi tập trung trên đê. Từ trên đê nhìn xuống, chúng tôi thấy hiên nhà lão Bương sáng đèn và tiếng anh con cả lão: “Bố thôi đi, say rồi đấy”. Sau đó là tiếng lão Bương: “Hôm nay tao phải uống cho sướng để tối còn làm việc lớn”. Một lúc sau, anh con cả lão Bương đi ra ngõ, lão Bương gọi với theo: “Đi đâu thì nhớ về nhà, khuya có việc đấy”.

Anh con cả đi rồi, lão Bương cầm đèn đi ra chuồng bò lúi húi xem cái gì đó. Rồi lão cầm đèn đi vào nhà. Tôi nói với mấy đứa bạn:

- Hành động thôi chúng mày ạ.

- Chắc ăn chưa?

- Chỉ còn mình lão ở nhà thôi, mà lại say rượu nữa.

- Thế mày biết lão để quả mìn ở đâu không?

- Tao thấy lão gói mìn ở trong bếp. - Tôi nói. - Nhưng bây giờ chắc lão để ở chuồng bò. Lúc nãy thấy lão cầm đèn ra đấy.

- Thôi, cứ vào chuồng bò trước.

Bọn trẻ chúng tôi lặng lẽ đi xuống chân đê. Chúng tôi men theo bờ rào cây dứa dại ở vườn nhà lão Bương. Đêm nhờ nhờ trăng. Chúng tôi quá quen thuộc đường ngang ngõ tắt của khu xóm trại. Mùa hạ, lũ trẻ con xóm trại thường tập trung trên mặt đê, sau đó chia nhau ra từng nhóm đi lấy trộm hoa quả ở các nhà trong xóm trại. Đôi khẫn lũ bạn lẻn vào vườn cắt cả buồng chuối, phủ lá xoan cho chóng chín. Sau này phát hiện ra, chúng tôi vẫn chứng nào, tật ấy. Bởi ở xóm trại heo hút này, chúng tôi chẳng biết chơi trò gì vào buổi tối của kỳ nghỉ hè ba tháng dài vô tận.

Tôi dẫn đầu lũ trẻ tìm lối chui vào vườn nhà lão Bương. Chúng tôi cúi người đi đến sát chuồng bò. Mùi nước đái bò nồng nặc bốc lên cùng với muỗi bay như trấu.

- Vào đi. - Một đứa thì thầm.

Chúng tôi tìm cửa chuồng bò chui vào. Thấy người, con bò phì mạnh một cái làm chúng tôi giật mình túm vào nhau.

- Không có gì đâu! - Tôi nói run run - Có mỗi con bò thôi.

- Nhưng quả mìn nó như thế nào?

- Cứ tìm đi rồi thì biết -Tôi thì thầm - Mỗi đứa tìm một góc.

Lũ trẻ chúng tôi bắt đầu rờ rẫm. Chuồng bò lỉnh kỉnh đủ thứ, nào cuốc, xẻng, cày, rổ rách…

- Ối giời! - Tiếng một đứa kêu lên.

- Làm sao thế?

- Tao thọc tay vào đống phân bò rồi.

Có tiếng một đứa cười hinh híc.

- Cười cái gì mà cười.

- A, lại đây, lại đây.

- Thấy rồi à? - Tôi vội hỏi nhỏ.

- Không phải. Ở đây có sọt cỏ, lại mà lau tay.

Đứa bị dính phân bò mò mẫm bước lại. Nó vừa lấy cỏ lau phân bò vừa làu bàu trong miệng. Chợt nó kêu lên khe khẽ:

- A, cái gì đây này, Mon, lại đây mà xem.

Tôi vội bước lại bên sọt cỏ. Lúc này chúng tôi đã quen với bóng tối trong chuồng bò. Vì vậy mọi vật như rõ hơn.

Tôi cầm lấy cái vật thằng bạn đưa cho và khẽ reo lên:

- Đúng rồi. Đúng là quả mìn chúng mày ạ.

- Cẩn thận, nó nổ thì tan xác đấy.

- Thôi chuồn đi.

Ngay lúc đó, có tiếng người ngoài sân. Chúng tôi hoảng hốt nhìn ra, nhận thấy lão Bương đang cầm đèn đi về phía chuồng bò.

- Chạy đi. - Một đứa giục.

- Không được. - Tôi nói - Chạy bây giờ là lão ấy biết ngay. Cứ nằm

Mấy đứa chúng tôi nép vào nhau. Chúng tôi nhìn rõ lão Bương nên cứ tưởng lão cũng nhìn rõ chúng tôi. Lão Bương vẫn mỗi lúc một gần chuồng bò. Ánh đèn từ tay lão đã hắt vào cửa chuồng bò. Chúng tôi nép người sau đít con bò. Khi đến trước cửa chuồng bò, lão Bương dừng lại vạch quần đái. Vừa đái, miệng lão vừa tóp tép. Sau đó, lão bước vào cửa chuồng bò. Mặt tôi nóng rát. Lão Bương giơ ngọn đèn lên nhìn con bò và cười:

- Ngoan nhé, ăn uống no say rồi chứ, bò?

Nói xong, lão Bương cầm đèn quay vào nhà. Chúng tôi vội vã ôm quả bộc phá (mà chúng tôi quen gọi là mìn) chui ra khỏi vườn lão Bương, chạy thục mạng lên mặt đê.

Cả bọn nằm vật ra mặt đê, thở dốc. Một lát sau, chúng tôi ngồi dậy bàn cách giấu quả mìn.

- Vứt xuống sông cho nó trôi đi. - Một đứa nói.

Đứa khác cãi.

- Không được đâu. Nguy hiểm lắm.

- Hay là giấu vào gò cây dứa ấy.

- Càng chết, đến lúc rét bọn nó hay đốt cây dứa khô lắm.

- Tớ bảo thế này nhé. - Tôi đề nghị. - Chúng mình đào một cái hố sâu, chôn quả mìn xuống là yên tâm.

- Phải rồi. Phải rồi. - Cả bọn nhao nhao đồng ý.

Chúng tôi n công một đứa về lấy xẻng. Sau đó cả bọn kéo nhau đến gò đất mọc đầy những cây dứa dại. Chúng tôi chọn một nơi kín đáo, thay nhau đào hố, khá sâu.

Khi chúng tôi chôn xong quả mìn thì sương đêm đã ươn ướt trên cỏ. Trước khi chia tay, lũ trẻ ngoắc tay nhau thề không được nói cho ai biết. Nếu đứa nào để lộ thì cả bọn sẽ không cho chơi cùng nữa.

Về đến nhà tôi bị bố tôi mắng cho một trận vì tội nói dối. Vì thấy tôi về muộn, mẹ tôi vào làng tìm tôi. Bà ngoại nói với mẹ tôi là không thấy tôi vào làng.

Khi lên giường đi ngủ, thằng Mên hỏi:

- Anh đi đâu về đấy?

- Mày hỏi làm gì?

- Anh đi chơi mà không cho em đi nhé.

- Việc đêm nay mày không thể đi được.

- Các anh làm gì thế. - Thằng Mên năn nỉ. - Nói cho em nghe với nào.

- Không thể nói cho ai nghe được.

- Vì sao?

- Chúng tao đã thề rồi, mày đừng hỏi nữa.

Tôi đã thiu thiu ngủ, chợt nghe tiếng ầm ĩ từ phía nhà lão Bương. Tôi dỏng tai nhưng không nghe rõ. Khi bà tôi lên giường đi ngủ, tôi hỏi:

- Người ta cãi nhau gì thế, bà?

- Bố con nhà ông Bương cãi nhau vì mất cái gì đấy.

Nghe bà nói, tôi cười khúc khích. Bà tôi hỏi:

- Tối nay cháu đi đâu?

Tôi im lặng. Bà bảo:

- Lần sau không được nói dối mẹ nhé.

- Vâng ạ! - Tôi đáp - Nhưng cháu không đi chơi đâu.

- Thế thì đi đâu? Sao bố cháu hỏi không trả lời.

- Vì cháu hứa với bạn cháu rồi.

- Không được làm việc xấu cháu ạ.

- Cháu không làm việc xấu đâu. Lẽ ra cháu nói với bà. Nhưng chúng cháu đã thề với nhau không được nói với ai.

- Ừ, đã thề thì… phải giữ lời thề.

- Vâng.

Tôi đáp nhỏ và chìm dần vào giấc

Tôi mơ thấy lão Bương tìm được quả mìn mà chúng tôi đã chôn sâu dưới đất. Lão Bương khoái chí cười sằng sặc. Lão ôm quả mìn đi ra bờ đầm. Lão đứng bên bờ đầm, ngực phanh áo, tay cầm quả mìn có dây cháy chậm đang phì phì phun khói. Lão giơ cao quả mìn và gọi to: “Hỡi con cá ma quỷ, tao sẽ cho mày ăn quả mìn này, rồi tao sẽ mổ bụng mày ra, lấy bộ lòng nhắm rượu”.

Nói xong, lão Bương ném quả mìn xuống lòng hồ. Quả mìn nổ. Một lúc sau con cá từ từ nổi lên. Hai cái vây của nó rách bươm. Cùng với con cá là những bức tượng gỗ của ngôi chùa đồng loạt đội nước đứng lên. Những bức tượng phủ đầy rêu từ từ lội vào bờ. Đi sau những bức tượng kia là một nhà sư già. Và sau nhà sư già là bà tôi và ông Bộc. Chợt tôi nghe tiếng bà tôi lay gọi:

- Gì đấy Mon? Ngủ mê hả cháu? Thôi ngủ đi, chạy đuổi suốt ngày rồi đêm lại ngủ mê.

- Bà ơi…

Tôi định kể cho bà về việc chúng tôi ăn cắp quả mìn của lão Bương. Nhưng tôi vội thôi khi nhớ đến lời thề của lũ trẻ chúng tôi.

- Ngủ đi cháu.

Giọng bà tôi ấm áp. Tôi kéo chiếc chăn chiên lên tận cổ, nằm im lặng.

Đêm mùa thu se lạnh và vắng lặng lạ thường. Đã mấy tháng nay, không ai nghe thấy tiếng con cá thần quẫy trong đêm. Những đêm như thế, tôi thường dỏng tai trong đêm để nghe tiếng “i i” từ đâu đó ngoài đầm Vực vọng về. Nhưng tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng côn trùng quanh nhà và tiếng lá vườn trong những đêm có gió. Tôi tin rằng con cá thần đã theo sông Đáy ra biển. Có lẽ mùa hạ năm sau nó mới trở về.

 Chương VI.
 Một mùa đông khắc nghiệt lại đến. Buổi chiều nào chúng tôi cũng ra chân đê lấy những cây dứa dại khô chất thành đống đốt lửa. Và đây cũng là một mùa đông khủng khiếp đối với tôi. Năm ấy tôi bước vào tuổi mười ba và trải qua một trận ốm ghê gớm. Sau này tôi cũng không biết mình bị bệnh gì. Tôi nằm co quắp trên giường ở góc nhà. Bà tôi suốt ngày đốt một đống lửa cạnh giường cho tôi sưởi. Lạnh quá, tôi bò ra mép giường để gần lửa hơn. Hầu như tôi không đứng lên được lâu. Cho nên suốt ngày tôi chỉ nằm hoặc bò. Tôi chẳng thích ăn gì, chỉ thích ngửi mùi áo bà tôi. Ông Bộc đôi ngày lại sang thăm tôi. Ông cho tôi đủ thứ quà. Nhưng tôi chẳng thích gì ngoài những ông tướng ngày xưa bằng bột nếp. Mỗi khi nhìn thấy ông tướng bằng bột nếp trong tay ông Bộc thì tôi như khỏe hẳn. Tôi ngồi dậy đón quà từ tay ông và ngắm nghía. Ngồi được một lúc tôi lại phải nằm xuống. Lúc nào tôi cũng đặt ông tướng bột kia nằm bên cạnh.

Hơn một tháng nằm liệt giường bệnh tôi cũng không hề giảm. Tóc tôi dài ra và xanh mướt, lưỡi xanh lè như váng đồng. Bà tôi quyết định đưa tôi đến nhà một ông thầy lang cách nhà tôi hơn mười cây số. Bà lấy chiếc thúng cái, lót một ít rơm và đặt tôi nằm vào trong đó. Lúc đó tôi bé và nhẹ như một con mèo. Bà tôi lấy chiếc nón đậy tôi và đội cái thúng có tôi nằm trong đó, đưa đến nhà ông lang.

Lên đến đê, tôi nghe có người hỏi: “Bà đi bán gì đấy?”. Tôi nghe bà tôi mắng: “Nhổ vào mồm cái nhà ông này”.

Hôm ấy, bà tôi đã đội cái thúng đựng tôi đi bộ suốt hai chục cây số. Nhưng ông lang kia cũng không chữa được cho tôi. Những ngày sau đó tôi chỉ nằm chờ chết. Tôi không còn ngồi dậy được để đón những ông tướng thời xưa bằng bột mà ông Bộc mua cho tôi nữa. Ông Bộc ngồi bên mép giường nhìn tôi im lặng.

Một buổi tối, tôi nghe bà tôi khóc với bố tôi: “Gọi người đóng cho nó bộ áo đi”. Tối hôm đó, tôi nghe tiếng đục đẽo ở đầu nhà. Tối đó là tối đầu tihằng Mên không rời tôi. Thi thoảng nó lại cầm tay tôi gọi: “Anh ơi, anh đừng đi đâu nhé”. Tôi không trả lời nó được, tôi nằm thở thoi thóp.

Bà tôi thắp thêm đèn. Tôi mơ hồ thấy có nhiều người đến nhà tôi. Tôi có ngờ rằng, ở ngoài góc sân, bố tôi và mấy người trong họ đang đóng cho tôi chiếc áo quan nhỏ bằng gỗ mít.

Mấy ngày sau đó, ông Bộc không thấy sang nhà tôi và thực ra, cũng không ai trong gia đình tôi để ý đến sự vắng mặt của ông. Chỉ từ khi tôi ốm, ông Bộc mới đến nhà tôi. Còn trước đó, bần cùng lắm ông mới đến.

Đến gần nửa đêm thì chiếc áo quan nhỏ đóng xong. Khi bố tôi và mấy chú trong họ khiêng chiếc áo quan để lên hiên nhà thì bà và mẹ tôi òa khóc. Hàng xóm nghe tiếng khóc tưởng tôi mất tất tả chạy sang. Cùng lúc đó, ông Bộc từ đâu xuất hiện. Mặt mũi ông bơ phờ, ông bỏ chiếc bao tải khoác trên vai xuống và nói:

- Tôi mua được mấy thang thuốc lá của một bà mế Hòa Bình, sắc cho cháu uống xem sao.

Bố tôi thở dài:

- Chẳng ăn thua gì đâu, ông ạ. Chắc nó bỏ chúng tôi nội nhật nay mai thôi.

Ông Bộc im lặng mở bao tải đưa cho bà tôi ba thang thuốc lá. Bà tôi lặng lẽ đun thuốc. Đến gần sáng, bố tôi cậy miệng đổ hết bát thuốc cho tôi.

Thật kỳ lạ, uống hết ba thang thuốc thì tôi ngồi dậy được. Thấy vậy, ông Bộc lại khoác bao tải rời xóm trại lặng lẽ ra đi. Mấy ngày sau ông trở về. Vừa thở, vừa ho, ông vừa mở bao tải đưa cho bà tôi chục thang thuốc nữa. Uống xong chục thang thuốc ấy tôi đã theo thằng Mên lên đê chơi được rồi.

Một buổi chiều, thằng Mên n

- Em dẫn anh đi xem cái này.

Nói xong nó dẫn tôi ra chuồng trâu sau nhà và chỉ cho tôi xem chiếc áo quan nhỏ còn thoang thoảng mùi gỗ mít già.
 - Bố đóng cái này cho anh đấy.

Tôi im lặng mở mắt thao láo nhìn chiếc áo quan.

- Anh có sợ không? - Thằng Mên hỏi.

Tôi không nói lời nào.

- Anh mà chết là bố đặt anh vào cái này. Anh đừng đi đâu, anh nhé.

Tôi gật đầu. Vừa lúc ấy, bà tôi cũng đến. Bà đuổi chúng tôi đi. Đến chiều, tôi thấy bố tôi đập chiếc áo quan và châm lửa đốt. Bà tôi lấy một ít tro thả xuống đầm Vực và sông Đáy.

Đêm ấy, bà ôm tôi ngủ. Từ ngày tôi ốm, đêm nào ngủ bà cũng ôm tôi. Tôi nằm co trong vòng tay của bà và mùi trầu quế. Tiếng bà tôi thở đều đều.

- Cháu nhớ là suốt đời phải sống tết, chết giỗ ông Bộc nhé. Nếu không có ông ấy thì cháu chẳng còn được sống đến bây giờ đâu.

Tôi nằm nghe bà nói. Từ khi ốm dậy, tôi thường ít ngủ hơn. Đêm xóm trại mang cảm giác xa xăm vô cùng. Một cái gì đó vừa hoang vắng, vừa thổn thức thường xâm chiếm lòng tôi trong đêm. Có phải là tôi hoảng sợ hay tôi đã lớn lên trong tâm hồn đa cảm của mình?

á thần lại về rồi đấy. - Bà tôi khẽ nói.

- Sao bà biết? - Tôi hỏi.

- Bà lại nghe thấy tiếng nó kêu. Chắc lại có chuyện buồn.

- Ông Bộc có còn muốn bắt con cá nữa không hở bà?

- Đêm nào ông ấy cũng ra bờ đầm. - Bà tôi thở dài. - Tội nghiệp quá, cháu ạ.

- Cháu sẽ bắt con cá ấy cho ông Bộc.

- Cháu làm sao mà bắt được? - Bà tôi chép miệng - Ông ấy đã săn nó cả đời mà cũng không bắt được. Tất cả đàn ông xóm trại này cũng thế.

- Nhưng cháu sẽ bắt được.
 - Đừng nói dại, cháu ạ.
 - Vì sao hở bà? - Tôi xoay người về phía bà và hỏi.

- Vì đó là cá thần.
 - Cá thần sao lại không giúp ông Bộc? Ông Bộc là người tốt nhất xóm trại, bà ạ. Đấy không phải là cá thần, vì thế cháu sẽ bắt được.
 - Ngủ đi. Từ nay cháu không được nói thế nữa.
 Và trong giấc mơ, tôi vụt lớn lên, cường tráng và đầy lòng dũng cảm. Tôi đi ra bờ đầm Vực và lao xuống nước. Tôi truy tì

Những cây rong đuôi chó dưới đáy đầm dựng lên thành một khu rừng rậm, bí ẩn và đầy đe dọa. Tôi cầm một thanh gươm đi vào khu rừng. Tôi vừa vung gươm phạt đứng những bụi rong đuôi chó vừa gọi vang:
 - Con cá một mắt đâu. Ta muốn giết mày. Có giỏi thì ra đây!
 Sau tiếng gọi của tôi, có tiếng gầm ghê gớm thoát ra từ khu rừng rong đuôi chó. Và con cá hiện ra. Hai chiếc vây của nó lớn như hai cánh cửa, quạt nước sôi sùng sục. Con cá chỉ có một mắt. Nó há miệng phơi ra những chiếc răng sắc lởm chởm như những chiếc răng bừa. Nhìn tôi nó cười khùng khục và cất tiếng:
 - Thằng nhãi kia láo thật, sao mày dám xâm phạm vào khu rừng của tao?
 - Tao đến đây để giết mày! - Tôi gầm lên.
 - Giết ta ư? Ta có tội gì mà ngươi đòi giết ta? Ngươi có biết ta là cá thần không?
 Tôi khua gươm nói:
 - Mi không phải là cá thần. Nếu là cá thần, sao mi lại không giúp ông Bộc.
 Nói xong, tôi nhảy tới chém con cá. Con cá quẫy đuôi tránh lưỡi gươm. Nước đầm sôi lên, ngầu đục. Tránh được lưỡi gươm của tôi, con cá bơi lùi ra xa. Tôi chỉ gươm vào con cá:
 - Muốn sống mi hãy trả lại bí mật cho ông Bộc.
  - Bây giờ ta mới nhớ ra lão Bộc là ai. Nhưng đó không phải là lỗi của ta.
 Tôi quát:
 - Không lỗi của mi thì của ai?
 Con cá nói:
 - Lỗi đó là bạn bè của lão Bộc. Bà nội ngươi cũng có lỗi.
 Tôi kêu lên:
 - Bà ta ư? Không! Bà ta không bao giờ có lỗi. Mi đúng là một tên nói láo.

Nói xong tôi lại vung gươm lao vào. Con cá giương vây ra đỡ những nhát gươm của tôi. Tiếng gươm va vào xương vây cá xoang xoảng. Cả đầm Vực cuộn sóng. Các loại cá ở đầm Vực nhảy tứ tung. Vừa chống đỡ lại đường gươm của tôi, con cá vừa kêu: “Không phải lỗi tại ta. Không phải lỗi tại ta”. Tôi thét to: “Chính là mi”. Và đâm mũi gươm vào ngực con cá. Máu con cá phun ầm ầm vào tôi. Tôi ngạt thở và kêu lên.
 Tôi tỉnh khỏi cơn mê, thở hổn hển. Bà xoa ngực tôi, nói:
 - Mê gì mà hò hét ầm cả lên thế, cháu?
 Tôi nằm im, tự hỏi bà tôi cũng có lỗi với ông Bộc ư?
 Những gì tôi nghe thấy chỉ là giấc mơ, chứ con cá làm sao nói được tiếng người và tôi làm sao đánh nhau được ở dưới nước. Nhưng tôi vẫn cứ muốn hỏi về những lời của con cá.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét