Thứ Sáu, tháng 6 8

Tôtem Sói ( Khương Nhung ) Chương 10


Anh trai chết, Saxwhailinhhu lấy chị dâu sinh hai con trai, một người tên Càndo Xichna, một người tên Uydochinh Xichna, tiếng Mông Cổ "xichna" là sói.  Sử tập còn giải thích cặn kẻ là sói đực và sói cái.
Xíchnaxu chỉ số nhiều, tức đàn sói.
Hàn Nho Lâm "Thành Cát Tư Hãn thập tam dực khảo"


Ba người vội vàng lên ngựa theo Đanchi nhằm hướng tây xuyên qua bãi sậy, rồi rẽ hướng nam, vòng qua bãi đất phèn - toàn những nơi ít để lại dấu chân ngựa.  Trên đường về, ba cậu thanh niên Bắc Kinh không những không cảm thấy vui, mà còn thấp thỏm như những tên trộm vặt, chỉ sợ chủ nhà đuổi theo.
Nhưng khi nhớ lại con sói mẹ cướp đi con cừu non thì Trần Trận lại thấy đỡ dằn vặt, cậu đã trả thù cho con cừu non vô tội.  Diệt được một ổ sói con là bảo vệ được một đàn cừu.  Nếu như các cậu không bắt được ổ sói này, thì đàn cừu chắc chắn gặp đại họa.  Đào bắt sói con là biện pháp hữu hiệu trong cuộc chiến một mất một còn giữa người và sói trên thảo nguyên Mông Cổ.  Bắt một ổ sói con tương đương tiêu diệt một đàn sói nhỏ.  Đào bắt bảy con sói con tuy vất vả, nhưng không khó bằng diệt bảy con sói lớn.  Biện pháp này đã thực thi từ lâu, vậy vì sao vẫn không giảm được tai họa do sói gây ra?  Trần Trận bèn hỏi Đanchi.  Đanchi nói: Sói rất khôn khi chọn thời điểm đẻ con.  Cách đây hàng vạn năm, sói và chó nhà là một, nhưng thực tế sói khôn hơn chó nhà.  Chó nhà sau Tết khoảng nửa tháng thì đẻ.  Nhưng sói lại chọn lập xuân, là lúc tuyết vừa tan, cừu vừa đẻ.
Chăm sóc cừu đẻ là thời gian bận bịu nhất, vất vả mệt nhọc nhất trong năm.  Một đàn xẻ thành hai dàn, toàn bộ sức lực đầu tư vào đấy.  Mệt đến nỗi cơm không buồn ăn, nói gì đến đi đào bắt sói con.  Công việc chăm sóc cừu non bắt đầu rảnh, thì khi ấy sói đã lớn, không ở trong hang nữa.  Ngày thường sói không ở hang, khi đẻ mới ở.  Sói con khoảng một tháng thì mở mắt, một tháng nữa là lăng xăng theo mẹ. Khi ấy mới đi đào, thì chỉ còn hang không.  Nếu sói đẻ vào mùa hè, mùa thu hoặc mùa đông thì chắc chúng tuyệt diệt từ lâu, vì khi ấy con người nhàn rỗi.  Sói chọn mùa xuân còn một cái lợi nữa: Bắt cừu non về cho con tập vồ mồi và ăn thịt.  Thịt cừu non là món ăn khoái khẩu của sói con.  Chỉ cần có cừu non là sói mẹ không sợ thiếu sữa, đẻ một lứa mười mấy con cũng sống tất.
Dương Khắc ngồi trên yên chép miệng than: Sói ơi là sói, tao phục mày sát đất.  Quả có thế thật, chăm cừu đẻ rất mệt.  Đựng cừu non vào tải, mỗi tải bốn năm con, mỗi ngày một người vận chuyển mươi mấy chuyến, mệt đứt hơi.  Nếu đây không phải là lần đầu thì mình hơi đâu mà đi với các cậu.  Từ nay mình không đi nữa.  Còn bây giờ thì phải ngủ cho lại sức.
Dương Khắc ngáp dài.  Trần Trận cũng cảm thấy buồn ngủ ríu mắt, nhưng cậu vẫn bám sát đề tài, hỏi Đanchi: Người dân bản địa theo Lạt Ma giáo, mỗi gia đình đều có người đi làm Lạt Ma.  Lạt Ma làm việc thiện, không sát sinh, giết sói con sẽ tổn thọ.  Mình không theo Lạt Ma, không sợ tổn thọ.  Người Mông Đông Bắc chúng mình khi chết không hiến cho sói, nên mình không sợ hết sói.  Người Mông Đông Bắc khi đã biết làm ruộng thì tín ngưỡng như người Hán, địa táng.
Đoàn người rời cái hang mỗi lúc một xa, nhưng Trần Trận vẫn cảm thấy như có làn gió lạnh từ cõi u linh bám sau lưng, khiến cậu tâm thần bất định, lo sợ vẩn vơ.  Lớn lên ở thành phố, chưa từng có quan hệ với loài sói, vậy mà giờ đây cậu quyết định số phận của bảy con sói Mông Cổ.  Con sói mẹ quả tinh khôn, đàn sói này chắc là hậu duệ của sói chúa, chí ít cũng là sói Mông Cổ thuần chủng.  Nếu như cậu không mê sói, thì những con sói này sẽ thoát nạn, sẽ sống khoẻ, trở thành những dũng sĩ trên thảo nguyên khốc liệt.  Vậy mà sự có mặt của cậu đã làm thay đổi tận gốc số phận những con sói con.  Và bằng hành động này, cậu gắn kết với sói, đồng thời trở thành kẻ thù của sói thảo nguyên.  Họ hàng nhà sói Ơlon dưới sự chỉ huy của con sói cái thông minh đêm đêm truy kích cậu, uy hiếp linh hồn cậu.  Trần Trận nhận ra cậu đã phạm sai lầm.
Về đến nhà, đã quá trưa.  Trần Trận treo túi đựng sói lên vách lều.
Bốn người ngồi quanh bếp uống trà, ăn thịt nướng, vừa ăn vừa bàn cách xử lý lũ sói con.  Đanchi nói: Xử lý như thế nào thì không cần bàn, ăn xong mình sẽ cho các cậu xem, khoảng hai phút là xong.
Trần Trận biết sẽ gặp một vấn đề hóc búa: Nuôi sói.  Khi trong đầu nảy ra ý này, Trần Trận đoán có thể bị tất cả mục dân, cán bộ và thanh niên trí thức phản đối.  Bất kể từ góc độ nào, chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc, hoặc từ phương diện sản xuất và an toàn, nuôi sói đều bị hiểu là có dụng ý xấu, đáng phỉ nhổ.  Thời kỳ cách mạng văn hóa, một nhân viên vườn thú nhốt chung con hổ mất mẹ với con chó cái cho sữa, lập tức trở thành vấn đề chính trị nghiêm trọng, bị coi là tuyên truyền hco thuyết điều  hòa giai cấp, anh nhân viên đó bị đấu lên đấu xuống.  Vậy thì nuôi một con sói bên cạnh đàn cừu, đàn chó, hóa ra không phân biệt địch ta, coi thù là bạn đó sao!  Sói thảo nguyên là kẻ thù, đồng thời là thần linh, là tôtem của dân du mục, là con tàu chở linh hồn họ lên trời.  Mà đã là thần linh, là tôtem, thì chỉ có thể thờ phụng, không được nuôi trong nhà như nô lệ để sai khiến.  Nuôi sói, nuôi hổ như nuôi ong tay áo, tai họa xảy ra không biết lúc nào.  Lại còn chuyện này nữa: Ông già Pilich còn nhận cậu làm con nuôi nữa không?
Nhưng Trần Trận không hề có ý coi thường thần linh, coi thường tình cảm tôn giáo của dân tộc Mông Cổ.  Trái lại, cậu coi trọng tôtem sói của người Mông, một đề tài sâu sắc huyền ảo.  Vì vậy ước nguyện nuôi sói của cậu càng bức xúc.
Hành tung của sói xuất quỷ nhập thần, nếu như cậu không có một con sói bằng xương bằng thịt, sờ mó được, thì nhậtn thức của cậu về sói chỉ dừng lại trong những chuyện dân gian hoặc ở trình độ phổ thông như những người khác, thậm chí rơi vào thiên kiến của người Hán: Căm ghét sói.  Kể từ năm 1967 lớp thanh niên trí thức đầu tiên rời Bắc Kinh, và rất đông những người từ dưới xuôi cùng với bao nhiêu là súng đạn ồ ạt đưa lên thảo nguyên Mông Cổ, sói Mông Cổ đang giảm dần, có lẽ chỉ ít năm nữa, khó mà bắt gặp một ổ bảy tám con, muốn xin mục dân một con về nuôi lại càng khó, muốn nuôi thì đi mà bắt về.  Vậy thì cậu cứ nuôi một con, nhưng phải tìm lý do để tình cảm mục dân, nhất là tình cảm của những người già không bị tổn thương.
Trước ngày đi bắt sói con, cậu suy nghĩ mãi mới kiếm được một lý do có vẻ hợp lý: Nuôi sói để thực nghiệm khoa học: sẽ cho chó sói phối giống với chó bécgie.  Chó bécgie rất nổi tiếng trên thảo nguyên Ơlon.  Bộ đội biên phòng có bảy tám con bécgie cao to lừng lửng, chạy cực nhanh.  Chó bécgie mà săn cáo thì mười con không sai một.  Có lần đồn trưởng biên phòng dẫn hai chiến sĩ cùng hai con bécgie về Ơlon kiểm tra công tác dân quân.  Dọc đường, hai con bécgie săn được bốn con cáo to tướng khiến mọi người trố  mắt.  Mục dân muốn xin một con bécgie để nuôi, nhưng thời bấy giờ chó bécgie được coi là loại vật tư quý hiếm, quan hệ quân dân có tốt đến mấy cũng không có mà cho.  Trần Trận nghĩ, bécgie chẳng qua là con lai giữa bố sói với mẹ chó nhà.  Nếu như nuôi một con sói đực rồi cho nó giao phối với chó nhà, chắc chắn sẽ đẻ ra bécgie.  Nói rằng sẽ tặng những con bécgie đó cho mục dân, vậy là có lý do nuôi sói.  Với lại, sói Mông Cổ là loại sói tốt nhất thế giới, nếu như thí nghiệm thành công, sẽ lai tạo ra những con bécgie tốt hơn cả becgie Đức, bécgie Liê Xô.  Hơn thế nữa, biết đầu từ đó mở ra một nghề mới: sản xuất chó giống.
Trần Trận đặt bát xuống, bảo Đanchi: Cậu xử lý sáu con, để lại con đực khoẻ mạnh nhất cho mình nuôi.
Đanchi ngẩn người, nhìn Trần Trận không chớp có đến mười giây đồng hồ, hỏi: Cậu định nuôi sói?
Trần Trận nói: Ừ lớn lên cho nó phối giống với chó nhà, chắc chắn sẽ đẻ ra béc giê như chó biên phòng.  Chó béc giê thì ai mà chẳng thích.
Đanchi chớp mắt, trong một thoáng ánh mắt cậu loé lên như con thú trông thấy con mồi.  Cậu ta thở gấp: Ý tưởng này quả không tồi!  Biết đâu lại thành công.  Mình có béc giê thì săn cáo, săn sói ngon lành hơn nhiều.  Ta còn có thể xuất chó giống nữa chứ, tha hồ mà phát tài.
Trần Trận nói: Mình sợ đội không cho nuôi.
Đanchi nói: Nuôi sói là để trị sói, bảo vệ tài sản tập thể.  Người nào phản đối, ta sẽ không cho chó giống.
Dương Khắc cười, nói: Thế ra cậu cũng định nuôi?
Đanchi tỏ ra kiên quyết: Các cậu nuôi thì mình cũng nuôi một con.
Trần Trận nắm tay nọ đập vào lòng bàn tay kia đánh bốp một tiếng: Tốt rồi, hai nhà cùng nuôi, càng chắc thắng.
Trần Trận cso vẻ đăm chiêu: Còn một chuyện mình chưa rõ.  Tức là sói đực có chịu giao phố với chó cái không?
Đanchi nói: Chuyện ấy khỏi lo.  Mình đã có cách.  Năm kia mình đem về một con chó cái định cho giao phố với chó đực nhà mình.  Nhà mình có mười con chó thì tám con là đực, tốt xấu lẫn lộn.  Nếu để tự do, lỡ phối với con đức xấu thì hỏng bét.  Thế là mình đào một cái giếng sâu hai tầm với, rộng bằng căn lều Mông Cổ, rồi thả con cái và một con đực đã chọn lọc xuống cùng với một con cừu đã lột da.  Sau đó, cứ vài ngày mình lại tiếp tế thức ăn thức uống.  Hai mươi ngày sau, mình cho hai con lên, thấy con cái đã có chửa, sắp lập xuân đẻ một lứa tám con.  Mình quật chết bốn con cái, để lại nuôi bốn con đực.  Hiện giờ nhà mình có hơn chục con chó, nhưng bốn con kia là tốt nhất: nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, hung dữ.  Chúng săn được quá nửa số sói và cáo săn được trong cả năm.  Nếu ta áp dụng biện pháp này, chắc chắn sẽ có béc giê con.  Nhớ là phải cho sói con và chó con sống với nhau từ bé.
Trần Trận và Dương Khắc tán thành.
Bao tải khẽ động, lũ sói con chen chúc trong đó đã bị mỏi hoặc đói.  Chúng không giả vờ chết nữa, bắt đầu cựa quậy, định chui ra ngoài.  Chỉ riêng chuyện này đã khiến Trần Trận phục sát đất.  Nhưng hễ nghĩ tới năm con trong đó sẽ bị quật chết, cậu lại thấy trong lòng nặng nề.  Cậu nhớ tấm panmo bên cổng vườn thú Bắc Kinh, nếu đưa được năm con sói này về đấy thì hay biết mấy.  Chúng thuần giống Mông Cổ.  Lúc này, cậu càng thấy lòng tham vô đáy và thói chuộng hư vinh của con người thật đáng sợ.  Cậu đi đào hang sói là để bắt sói về nuôi.  Mà nuôi thì chỉ cần bắt một con sói đực về là xong, cho dù chọn lấy con đầu đàn to đẹp nhất cũng không có gì quá  quắt.  Vậy thì vì lý do gì cậu ôm cả đàn sói về?  Đúng là không nên cho Đanchi và Cao Kiện Trung đi cùng.  Nhưng nếu không có hai người này, phải chăng cậu cũng chỉ bắt một con?  Chắc là không.  Bắt cả đàn đồng nghĩa với thắng lợi của lòng dũng cảm, của lợi ích vật chất, là vinh dự cùng với sự ngưỡng mộ của mọi người.  Đặt những thứ ây lên bàn cân, thì những con sói chỉ là hạt cát!
Trần Trận thấy bụng đau quặn vì thương lũ sói.  Cậu thích chúng đã hai năm nay, thích đến mê mẩn.  Cậu muốn giữ lại tất cả nhưng chắc là không được.  Phải tốn nhiều thức ăn mới nuôi được cả đàn. Cậu chợt nghĩ, hay là đem năm con về trả cho sói mẹ.  Sẽ không ai đi cùng cậu, trừ Dương Khắc.  Đi một mình thì cậu không dám, bốn tiếng đồng hồ cả đi lẫn về, người ngựa đều không chịu nỗi.  Chắc là con sói mẹ đang kêu gào bên miệng hang.  Giờ mà một mình đến đó, chết là cái chắc.
Trần Trận xách cái túi đựng sói, bước ra ngoài, nói: Để mấy hôm hãy xử lý, mình muốn quan sát chúng kỹ một chút.  Đanchi hỏi: Cậu lấy gì nuôi chúng?  Trời lạnh thế này, chỉ một ngày không ăn là chúng chết hết.  Trần Trận nói: Mình vắt sửa bò cho chúng uống.  Cao Kiện Trung sa sầm mặt.  Không được!  Sữa bò là để cho người.  Sói ăn thịt bò, giờ lại lấy sữa bò nuôi sói, trên đời làm gì có cái lý ấy!  Mà làm thế, đội sẽ không cho mình chăn bò nữa.
Dương Khắc tính chuyện được cả chì lẫn chài, nói: Phải cho Đanchi xử lý thồi.  Caxumai đang lo cuống lên vì chưa hoàn thành chỉ tiêu.  Nếu ta nộp năm bộ da sói con thì có thể nuôi vụng được hai con.  Nếu không nộp con nào thì nuôi vụng một con cũng không xuôi.  Để Đanchi hạ thủ mới nhanh, mình không hạ thủ được, cậu cũng chịu.  Đã mấy khi mời được Đanchi tham gia.
Trần Trận ứa nước mắt, thờ dài.  Cậu chẳng còn cách nào khác, đành quay vào trong lều bê ra chiếc thùng gỗ đựng phân bò khô.  Cậu dốc hết phân trong thùng rồi trút ổ sói trong bao tải vào thùng.  Lũ sói bò lổm ngổm ra các phía, nhưng khi đụng cạnh thùng, chúng liền nằm im giả vờ chết.  Những sinh mệnh bé bỏng gắng chống chọi lần cuối với may rủi.  Chúng run như giẽ, những sợi lông dài rung bần bật như có dòng điện chạy qua.  Đanchi lấy ngón tay lẩy từng con sói như người ta đếm thỏ, bảo Trần Trận: Bốn đực, ba cái.  Con khoẻ nhất phần cậu.  Con này thì cho mình.  Nói xong, Đanchi bỏ năm con còn lại vào bao tải rồi xách ra chỗ đất trống trước lều, lôi một con ra nhìn bụng và bảo: Cho con cái này lên chầu trời trước tiên.  Nói xong, cậu đưa tay về phía sau, nhún thấp chân phải rồi tung con sói lên cao - y như xử lý đối với chó con thiếu sữa - hồn lên trời, thân xác thì xuống đất.  Trước đây, Trần Trận và Dương Khắc nghe nói có nghi thức này, nhưng chính mắt trông thấy thì đây là lần đầu.  Hai người mặt như chàm đổ, sắc mặt như bãi tuyết bẩn dưới chân lều.
Con sói trước đó vẫn giả vờ chết.  Nhưng khi bị ném lên cao, theo bản năng, nó biết là đi đâu, liền quẫy đạp lung tung mong sói bố hoặc sói mẹ đến cứu.  Trần Trận như nhìn thấy màng mắt con sói nứt ra vì sợ, để lộ cặp mắt đỏ ngầu.  Nó mở mắt sớm trong không trung, nhưng không nhìn thấy  trời xanh, vì trời bị mây đen che kín, và mắt nó thì nước mắt pha máu che phủ.  Nó há hốc miệng rơi theo đường cầu vồng xuống mắt tuyết rắn.
Con sói rơi đánh bộp xuống đất như một quả dừa non, cái thân bé bỏng không kịp giẫy giụa đã bất động, máu rỉ ra từ tai, mũi, mắt, miệng, đỏ nhờ như pha sữa.  Trái tim Trần Trận chạy từ ngực lên họng rồi lại từ họng xuống ngực, đau đến nỗi mất hết cảm giác.  Ba con chó lập tức xông tới nhưng bị Đanchi quát lui.  Cậu sợ lũ chó xé rách bộ da quý hiếm.  Điều bất ngờ là con Nhị Lang hộc lên một tiếng vọt lên trước chặn con Vàng và con Ilua, không cho cắn con sói.  Nó thích con sói, nó không nhiễm thói xấu hành hạ kẻ đã chết, đúng phong độ của bậc đại tướng.
Đanchi lại lôi một con ra.  Con này hình như đã đánh hơi thấy mùi chết chóc, nên không giả vờ chết mà cựa rất dữ, những cái móng bé tí cào trắng mu bàn tay cậu.  Đanchi định ném lên nhưng cậu bất chợt dừng lại, bảo Trần Trận: Lại đây, cậu cũng phải tập dần cho quen.  Giết một co để can đảm lên.  Trên thảo nguyên, người chăn cừu nào cũng phải giết sói.
Trần Trận lùi lại, bảo: Cậu làm nốt đi!
Đanchi cười, bảo: Dân Hán nhát như thỏ, ghét sói là thế mà một con sói nhép cũng không dám giết, vậy ra mặt trận thì đánh đấm gì!  Chẳng trách các vị xây vạn lý trường thành!  Hãy xem đây!  Lời chưa dứt, con sói đã bị tung lên, chưa rớt xuống đất, con khác đã bị tung tiếp.  Đanchi càng tung càng hào hứng, luôn miệng la: Lên trên đó đi, lên đó mà hưởng phúc!
Trần Trận không sao bình tĩnh được, tim cậu như bị nén chặt.  Cậu cảm nhận sự khác nhau rõ rệt về mặt tâm lý giữa dân tộc nông canh và dân tộc du mục, sự thích ứng với sắt thép và máu lửa giữa dân tộc cầm đao sát sinh và dân tộc cầm liềm hái.  Người Hán sao không giữ lại một quần thể du mục mang nét văn hóa Hán trong nội bộ dân tộc Hán?  Trong phạm vi quốc thổ, nếu như có thảo nguyên thích hợp với du mục, hoàn toàn có thể bồi dưỡng nên một kiểu Ca Dắc của dân tộc Hoa Hạ.  Nói cho cùng, để bảo vệ biên cương, việc xây thành đắp lũy, xây đồn lập ấp, không bằng sử dụng dân du mục.  Dân du mục trong hoàn cảnh khốc liệt, càng tỏ ra kiên cường dũng cảm.
Năm con sói đáng thương đã lên trời, năm cái xác đẫm máu đã rơi xuống đất.  Trần Trận nhặt tất cả bỏ vào sọt rồi ngửa mặt nhìn trời hồi lâu, cầu trời thu nhận linh hồn chúng.
Đanchi hình như rất thỏa mãn.  Cậu lau tay vào ủng, nói: Hiếm có dịp một ngày giết năm sói.  Con người không lợi hại bằng sói.  Một con sói dữ một lần hạ sát một hai trăm con cừu.  Mình giết có năm con mùi mẽ gì.  Muộn rồi, mình về đây.  Nói xong, cậu đem con sói của cậu đi.  Trần Trận bảo: Cậu lột da giúp bọn mình.  Đanchi nói: Được, đã thương thì thương cho trót, một loáng là xong!
Nhị Lang nằm phục bên cạnh cái sọt, nhìn Đanchi gầm gừ, Trần Trận vội ôm cổ giữ nó lại.  Đanchi lột da sói như người ta lột da cừu, vừa lột vừa nói: Sói con da mỏng mịn, cực tốt, có bốn mươi tấm là đủ may một áo chẽn, nghìn vàng cũng không có mà mua.  Lát sau, cậu đã lột da cả năm con.
Đanchi bốc tuyết rửa tay.  Cậu vào trong lều lấy xẻng ra, nói: Các cậu để mình làm hộ việc này nữa.  Chó nhà không bao giờ ăn thịt sói, nên phải chôn năm con này.  Mà phải chôn thật sâu, để sói mẹ đánh hơi thấy thì đàn cừu của ta rắc rối ngay lập tức.  Cả bọn ra chỗ cách lều vài chục mét, đào một hố tròn sâu khoảng một mét, bỏ năm con sói con xuống lấy đầy, nện kỹ, rồi rắc lên ít bột DDT để cho mất hẳn mùi.  Trần Trận hỏi: Có cần làm cho con sói một cái ổ?  Đanchi nói: Đào cho nó một cái hang.  Trần Trận và Dương Khắc đào một cái hang sâu sáu mươi phân, rộng chừng một mét, bỏ xuống vài mảnh da cừu rách, một ít đất bùn khô, rồi thả con sói đực xuống.
Con sói vừa chạm đất đã khác hẳn, linh hoạt hẳn lên.  Nó hít hít ngửi ngửi, bò quanh hố mấy vòng, tưởng như đã trở về hang cũ.  Nó yên trí nằm cuộn tròn nhưng mũi vẫn đánh hơi xem các em nó có đấy không.  Trần Trận định lấy lại con sói của Đanchi cho con sói của cậu có bạn.  Nhưng Đanchi bỏ luôn con sói vào túi, lên ngựa phóng như bay. Cao Kiện Trung cũng nhìn con sói bằng cặp mắt dửng dưng, rồi lên ngựa trở về chuồng bò.
                               0O0
Trần Trận và Dương Khắc ngồi bên hố nhìn con sói mà tâm trạng rối bời.  Trần Trận nói: Mình quả thực không biết nuôi nó bằng gì bây giờ!  Rồi sẽ rất phiền đây.  Dương Khắc nói: Chúng mình nuôi sói, chuyện hay thì chưa thấy, chuyện dở thì đồn đại gần xa.  Hiện cả nước đang triển khai chiến dịch "chưa diệt hết sói, quyết chưa rời chiến trường", còn chúng mình thì nuôi sói, coi sói là bạn.  Trần Trận nói: Nơi này khỉ ho cò gáy, không ai biết đâu.  Mình chỉ sợ bố Pilich không cho nuôi thôi.
Dương Khắc nói: Bò mẹ đã về chuồng, để mình đi vắt ít sữa, con sói chắc đói lắm rồi.  Trần Trận xua tay: Không nên, phải cho nó ăn sữa chó, sữa của con Ilua ấy.  Chó có thể cho hổ con bú sữa.  Trần Trận cầm con sói lên, ôm trước ngực.  Một ngày không ăn, con sói bụng lép kẹp, có vẻ yếu hơn khi mới đem về.  Trần Trận ủ con sói trong bọc, truyền hơi ấm cho nó. 
Trời chạng vạng tối.  Đã đến giờ Ilua cho con bú.  Trần Trận và Dương Khắc đi về phía ổ chó con.  Cái ổ dưới đống tuyết lớn đã tan ra nước dưới nắng, giờ phải chuyển về đống phân bò khô trước lều.  Người ta đào một cái hốc nhỏ, dưới đáy trải những miếng da cừu rách, miệng hố đậy bằng tấm da ngựa chưa thuộc.  Đây chính là nhà của con Ilua và đan con của nó.
Dương Khắc cho con Ilua ăn cháo thịt.  Ăn xong, con Ilua dùng mõm gạt tấm da ngựa chui vào ổ rồi thận trọng nằm dài ra.  Ba con chó con lập tức tìm thấy đầu vú, mút chùn chụt.
Trần Trận nhẹ nhàng đi tới bên con Ilua, cúi xuống dùng tay xoa đầu để che khuất tầm nhìn của nó.  Ilua được cưng, sung sướng liếm tay chủ.  Dương Khắc gạt một con cún ra, rồi một tay vắt, tay kia khum lại để hứng sữa.  Hứng được lưng bàn tay, Trần Trận lén lôi con sói ra khỏi bọc để Dương Khắc bôi sữa lên đầu lên lưng và bốn chân nó.  Đây là biện pháp hữu hiệu để con Ilua cho sói con nhập đàn.  Cừu mẹ nhận nuôi cừu mồ côi cũng bằng cách này.  Nhưng chó thông minh hơn cừu, khứu giác cũng nhạy hơn cừu.  Giá như các con nó bị chết hết, hoặc bị người ta bắt đi hết, có lẽ nó nhận nuôi con sói.  Nhưng hiện giờ nó có ba đứa con, chắc chắn nó không nhận con sói làm con nuôi.  Con sói vừa nhập đàn, Ilua lập tức phản ứng.  Nó ra sức ngẩng lên để nhìn đàn con, nhưng Trần Trận và Dương Khắc cứ vít đầu nó xuống, vừa dỗ dành vừa nạt nộ, không cho nó ngẩng lên.
Con sói con vừa rét vừa đói được đặt giữa đàn chó.  Ngửi thấy mùi sữa, bộ dạng vờ vịt lập tức biến mất, nó giương nanh múa vuốt, thái độ cực kỳ hung hãn như loài sói ngửi thấy mùi máu.  Con sói sinh sau những con chó nửa tháng, nhỏ hơn một chẹt tay, ngắn hơn một cái đầu, nhưng về sức khoẻ thì nó hơn hẳn, kỹ năng giành vú cũng không con chó con nào theo kịp.  Chó mẹ có hai dãy vú lớn nhỏ không đều, tất nhiên lượng sữa cũng không đều.  Điều khiến Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên là sói con không ti vội, mà nó thử một lượt các núm vú, gạt bắn những con chó con sang một bên, ổ chó nhốn nháo như bị đánh cướp.  Cuối cùng nó dừng lại ở bầu vú bự nhất ở khoảng giữa bụng con chó mẹ, ti một bầu, chân chụp một bầu bên cạnh cũng to như bầu đang ti.  Nó không chế đàn chó, không chi xẻ bầu vú bất cứ con nào.
Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên thật sự. Dương Khắc nói: Thú tính của sói khiếp thật!  Chưa mở mắt mà đã thực hành bá đạo.  Chả trách con này lớn nhất đàn, nó không coi sáu con kia là anh em trong nhà.
Trần Trận tuy rất thích nhưng có điều khiến cậu suy nghĩ.  Cậu thấy cần quan sát kỹ vì quả có nhiều điều đáng suy ngẫm.  Cậu bảo Dương Khắc: Cậu xem, ổ chó này là hình ảnh thu nhỏ lịch sử thế giới.  Mình vừa nhớ lại câu nói của cụ Lỗ Tấn "người phương Tây nhiều thú tính hơn, còn người Trung Quốc gia súc tính nhiều hơn".
Trần Trận chỉ con sói, nói: Thú tính đây - Lại chỉ lũ chó con - gia súc tính đây.  Người phương Tây ngày nay phần lớn là hậu duệ của giống người Nhật Nhĩ Man, người Ăng Giô Xắc Xông man rợ.  Khi nền văn minh cổ Hi Lạp và cổ La Mã phát triển khoảng hai nghìn năm, họ từ trong rừng rậm xông ra ăn thịt cổ La Mã.  Đồ dùng để ăn của họ toàn là dao với dĩa, thức ăn toàn là bít tết, phó mát và bơ.  Do đó người phương Tây thú tính đậm hơn, man rợ hơn những dân tộc nông canh.  Hơn trăm năm nay, người Trung Quốc gia súc tính bị người phương Tây thú tính khinh rẻ.  Chả trách hàng ngàn năm dân tộc Hoa Hạ đông đảo là thế mà cứ bị các dân tộc du mục nhỏ bé đánh cho khốn đốn.
Trần Trận xoa đầu con sói, nói: Tính cách không những quyết định số phận mỗi con người, mà còn quyết định số phận của cả dân tộc.  Các dân tộc nông canh mang đậm tính gia súc, chính nhược điểm đó quyết định số phận của họ.  Bốn nền văn minh lớn trên thế giới đều là những nước nông canh.  Ba nền văn mình đã bị xoá sổ từ lâu.  Nền văn minh Hoa Hạ sở dĩ không bị tiêu diệt là nhờ cư trú trên lưu vực hai con sông lớn - Hoàng Hà và Trường Giang - dân số đông nhất thế giới nên các nền văn minh khác không dễ ăn sống nuốt tươi.  Ngoài ra, có lẽ còn do công sức to lớn của dân du mục đóng góp cho văn mình Hoa Hạ... Về mối quan hệ này mình nghĩ chưa chín.  Lên thảo nguyên đã hơn hai năm, mình ngày càng thấy chỗ này có vấn đề...
Dương Khắc gật đầu, nói: Thì ra ngoài việc nuôi để nghiên cứu về sói, còn có thể nghiên cứu về nhân tính, thú tính, sói tính, gia súc tính.  Thành phố và nông thôn không có những điều kiện này, nhiều lắm cũng chỉ nghiên cứu quan hệ giữa người và gia súc...
Trần Trận nói: Nhưng nếu không có sự so sánh giữa nhân tính, gia súc tính với sói tính, thú tình, thì chẳng thấy được điều gì.
Dương Khắc cười: Đúng thế, xem ra ngày đầu tiên nuôi sói đã cho thu hoạch.  Vậy là quyết định nuôi nhé.
Lũ chó con nhốn nháo, cất tiếng rên rỉ vì bị con sói con xua đuổi khiến con Ilua càng nghi tợn.  Nó định vùng dậy để xem phía sau xảy ra chuyện gì.  Trần Trận sợ Ilua cắn chết con sói con nên ghim đầu nó xuống, vừa vỗ về vừa gọi tên nó, để sói con có thì giờ bú no.  Con Ilua ngoảnh lại, lập tức phát hiện trong ổ thừa một con.  Nó hồi hộp ngửi hít từng con, nhưng có lẽ trên người sói con có hơi sữa của nó, nên con Ilua lưỡng lự.  Nó dùng mũi đủn con sói con ra chỗ sáng hơn để xem cho rõ.
Trần Trận vội ấn con Ilua nằm xuống.  Cậu phải làm cho nó hiểu ý cậu, để chấp nhận một thực tế.  Rên lên ư ử, hình như nó biết con thừa ra đó chính là con sói chủ nó bắt từ trên núi về, nó phải nuôi kẻ thù không đội trời chung này.  Chó thảo nguyên khác chó dưới xuôi.  Chó dưới xuôi tầm nhìn hạn hẹp, chưa hề nhìn thấy sói và hổ, nên giao cho nuôi hổ con, chó cứ thế mà cho bú.  Còn thảo nguyên là chiến trường quyết liệt giữa sói và chó, chó cái không bao giờ coi thù là bạn.  Ilua mấy bận định vùng dậy không cho con sói bú tí, nhưng đều bị Trần trận giữ chặt.  Nó rên rỉ, phẫn uất, vô cùng khó chịu nhưng không dám phật ý ông chủ, đành nằm im.
Trên thảo nguyên, con người nắm quyền sinh sát đối với chó.  Con người dùng bạo lực và miếng ăn để thuần hóa chó hoang thành gia súc.  Những con chó chống lại chru đều bị đuổi ra khỏi nhà, bị chết đói, chết rét hoặc bị sói ăn thịt, hoặc bị chủ giết chết.  Từ lâu, chó đã mất ý thức độc lập của thú tính, mang nặng tính gai súc, lệ thuộc hoàn toàn vào con người.  Trần Trận buồn thay cho Ilua.  Trong xã hội loài người, nếu như thế lực chuyên chế trấn áp quá mạnh, thời gian trấn áp lại quá lâu, con người sẽ mất dần thú tính trong nhân tính, dễ bảo như gia súc, hoàn toàn mất khả năng chống đối, cúi đầu chịu làm bề tôi cho kẻ khác, hoặc bị tiêu diệt, trở thành dichir khảo cổ, nền văn mình xán lạn một thời của họ chỉ còn thấy trong bảo tàng.
Ổ chó trở lại yên tĩnh.  Ilua do Trần Trận và Dương Khắc trực tiếp nuôi, chăm sóc chu đáo từ khi nó mang thai, đẻ con và cho con bú.  Nó rất tốt sữa.  Sau khi người ta lấy đi mấy con, sữa con Ilu càng thưa, giờ thêm sói con chẳng có gì đáng kể.  Ba con chó con tuy bị con sói gạt ra, phải ti những vú nhỏ hơn, nhưng vẫn no.  Chúng bắt đầu trèo lên lưng lên cổ mẹ, căn đuôi cắn tai nhau.  Riêng con sói con vẫn ti như điên.  Trần Trận nghĩ, một ổ bảy con mà con nào cũng ngổ ngáo như những tên cướp, nếu không giành được vú, chắc chắn chết đói.  Con này dù lớn nhất nhưng chưa chắc đã được bú no.  Giờ đây, tại ổ chó này, con sói mới có đất dụng võ.  Nó vừa bú vừa rên lên khoan khoái, ra sức ti, bất kể sức chứa được bao nhiêu.
Trần Trận nhìn con sói, cảm thấy có gì không ổn.  Nó đã phình ra bằng con chó con.  Cậu sờ bụng nó mà giật mình: Mỏng như tờ giấy.  Cậu sợ nó vỡ bụng, vội túm gáy nhấc nó ra.  Nhưng con sói con vẫn ngậm chặt, núm vú bị kéo dài đến tai tấc khiến Ilua đau quá kêu thành tiếng.  Dương Khắc vội lấy tay bóp miệng cho con sói há miệng ra.  Cậu thở ra một hơi: Mục dân nói bụng sói là bụng cao su, giờ thì mình tin.  Trần Trận không giấu được niềm vui: Cậu xem nó háu ăn như thế, chắc là lớn rất nhanh.  Nó không khó nuôi, chỉ cần ăn uống no đủ.
Quan sát con sói vừa rời ổ, tận mắt trông thấy khả năng cạnh tranh và tính cách ngoan cường của nó, Trần Trận đã có phần hiểu được tính cách của họ hàng nhà sói.
Trời đã tối.  Trần Trận đem con sói vào hang của nó, đồng thời thả một con chó cái vào để chúng quen hơi bén tiếng trước khi mở mắt, cho chúng làm bạn với nhau.  Hai con ngửi lẫn nhau, cùng một mùi sữa nên không cảm thấy khác biệt, gối đầu lên nhau mà ngủ.  Con Nhị Lang đứng bên từ đầu đến cuối quan sát động tác của chủ.  Nó vẫy đuôi - lần này vẫy mạnh hơn - tỏ y hoan hô chủ đã nuôi con sói.  Để bảo vệ con sói, Trần Trận bê chiếc thớt gỗ đậy lên miệng hang, còn chèn lên trên một tảng đá rất nặng.
Anh chàng Quanbu hiền lành lùa cừu về chuồng, nghe tin cánh Trần Trận bắt được sói con liền cầm đèn pin chạy tới xem rõ thực hư.  Khi trông thấy những tấm da sói con phơi trên nóc lều, cậu ngạc nhiên đến sững sờ: Xưa nay chưa có người Hán nào ở Ơlon bắt được sói con, chưa có ai!  Giờ thì không tin cũng phải tin.
Ba người đang ăn mì thịt cừu bên cái bếp lò làm bằng thùng sắt tây, chợt nghe tiếng chó sủa và tiếng chân ngựa dồn dập bên ngoài.  Trương Kế Nguyên vén rèm, đẩy cánh cửa gỗ, một tay nắm hai dây cương, hai con ngựa đang sốt ruột gõ móng xuống đất.  Cậu ngồi xuống cửa lều, nói vọng vào: Ban quản lý cho hay, đàn sói trên đường biên đã chia nhau kéo về đây.  Lệnh cho ba đại đội sản xuất của mục trường tập trjng ở ba địa điểm đã ấn định để vây bắt.  Đại đội ta phụ trách đoạn tây bắc, ban quản lý sẽ điều một số tay súng chi viện, do ông Pilich chỉ huy.  Đại  đội thông báo: một giờ sáng mai tập kết ở lều ông Pilich.  Ban quản lý yêu cầu các hộ gia đình trừ người già và trẻ con ở lại chăn cừu và bò, tất cả những người khác đều tham gia bủa vây.  Các mã quan phải chuẩn bị đủ ngựa cho những người không có ngựa.  Chúng ta phải đi vòng, mai phục tại một địa điểm.  Các cậu tranh thủ ngủ đôi chút.  Tôi đi đây.  Nhớ đừng ngủ quên.
Trương Kế Nguyên sập cửa, nhảy lên ngựa phóng đi.
Cao Kiện Trung đặt bát cơm, nhăn nhó: Hết sói nhỏ đến sói lớn, chúng mình mệt chết thôi.  Dương Khắc nói: Cứ đà này ở thêm vài năm, đảm bảo chúng mình biến hết thành sói.
Ba người phân công chuẩn bị cho cuộc vây ráp.  Cao Kiện Trung chạy ra bãi cỏa dắt ngựa của ba người về kho chứa cỏ, quẳng cho mỗi con một ôm cỏ tươi.  Dương Khắc bốc trong sọt một ít xương, một ít thịt cừu cho lũ chó.  Sau đó, cậu kiểm tra kỹ dây thắng, yên cương, thòng lọng, lại cùng Trần Trận kiếm đaua ra hai chiếc đai cổ bằng da cho hai con chó.  Hai cậu đã từng tham gia vài cuộc vây nhỏ nên hiểu rằng không được coi thường đai cổ chó và dây thừng.  Trần Trận đeo cho Nhị Lang chiếc đai da, rồi như luồn chỉ trôn kim, cậu luồn đầu sợi thừng qua vòng đồng trên đai, so hai đầu thừng cho bằng rồi chập làm một nắm chặt.  Dắt Nhị lang đi vài bước, cậu trỏ về phía chuồng cừu "xuỳ" một tiếng, đồng thời buông một đầu sợi thừng, con Nhị Lang vọt lên, sợi thừng tụt khỏi vòng đồng, một đầu vẫn trong tay Trần Trận.  Loại xích chó này khi cần, có thể khống chế hoàn toàn, không cho con chó tự do hành động ảnh hưởng bố trí toàn cục; khi chó tấn công, không bị vướng dây thừng, ảnh hưởng đến tốc độ.
Dương Khắc cũng đeo đai cổ cho con Vàng, luồn thừng và diễn tập một lượt.  Hai con chó chấp hành tốt mệnh lệnh của chủ, còn chủ thì thao tác đúng cách, không để chó vướng thừng.

Trong giáo lệnh, Thành Cát Tư Hãn dặn dò các con phải thường xuyên đi săn, qua săn bắn mà rèn luyện tài thao lược. Người Mông Cổ khi không đánh nhau với người, nên đánh nhau với thú. Đầu đông, Mông Cổ điều động quân lính bủa vây bãi săn, Khan là người đầu tiên dẫn thê thiếp và tùy tùng tham gia, vui vì săn bắt được cầm thú không biết bao nhiêu mà kể. Thời gian sau cầm thú còn rất ít, các bô lão đến trước Khan xin tha cho chúng, để chúng sinh sôi nảy nở, dành cho những lần săn bắt sau.
(Phùng Thừa Quân dịch Đa tang Mông Cổ sử)
 
Đại đội nhân mã và đàn chó săn theo sau ông già Pilich tiến gấp lên phía bắc trong đêm. Gần như mỗi người dắt theo một con chó, thậm chí có người hai con. Gió từ hướng tây bắc thổi tới, không mạnh không yếu, những tảng mây dày đặc sà xuống đè lên thảo nguyên. Bầu trời bị che khuất, không một ánh trăng sao. Bốn bề im ắng, tuyết dưới chân ngựa cũng màu đen. Trần Trận cố mở to mắt mà vẫn không nhìn thấy gì, y như đã bị mù. Đã hơn hai năm, Trần Trận nhiều lần đi đêm, nhưng như đêm nay thì chưa. Cậu rất muốn bật que diêm để kiểm tra mắt nhưng không dám.
Dựa vào thính giác, cậu tiến sát ông già Pilich hỏi khẽ: Soi đèn pin trong tay áo có được không, bố? Mắt con hình như bị mù. Ông già khẽ gắt: Đừng, giọng căng thẳng lo lắng. Trần Trận lập tức bặt im, mò mẫm đi theo.
Đàn ngựa và chó lặng lẽ đi trong đêm tối. Sói thảo nguyên giỏi đánh đêm. Người thảo nguyên sở trường tập kích vào ban đêm. Trần Trận cảm thấy đàn sói này không bình thường, đã đói mà còn chọn đêm tối như thế này mới xuất kích. Ông Pilich phán đoán cuộc chiến cũng khác người. Và cuộc chiến đang tiến triển theo ý ông. Trần Trận trong lòng rộn lên, được tham gia cuộc đấu sức giữa hai sói chúa trên thảo nguyên, làm sao không xúc động?
Đoàn ngựa xuống một đoạn, bắt đầu leo lên con dốc lớn hơn. Lúc này, ông Pilich mới lại gần Trần Trận, dùng ống tay áo che miệng, nói với cậu, giọng đã dịu xuống: Muốn làm một thợ săn giỏi, cái tai phải tinh. Tai sói tinh hơn mắt sói. Trần Trận cũng lấy tay áo che miệng, hỏi: Nói chuyện lúc này có sợ sói nghe thấy không hả bố?. Ông già nói khẽ: Ta đang leo dốc, có núi che chắn, lại ngược gió, nói nhỏ không sao. Trần Trận lại hỏi: Chỉ dựa vào thính giác mà đến được địa điểm mai phục, hở bố?. Ông già nói: Chỉ dựa vào tai cũng chưa ổn, mà phải nhớ giỏi, nghe tiếng chân ngựa biết là đang đi trên vùng đất nào, phía dưới tuyết là cỏ, cát hay đá sỏi thì biết đó là những nơi nào; lại còn ngửi nữa, ngửi mùi mà tiến thoái. Trong gió có mùi tuyết, mùi cỏ, mùi cát, mùi đất phèn, mùi sói, mùi cáo, mùi phân ngựa và mùi lều trại. Đôi khi không mùi vị, phải dựa vào tai và trí nhớ, tối đến mấy ta cũng nhận ra đường đi. Trần Trận vô cùng cảm phục, nói: Biết đến khi nào con mới làm được như bố?....
Trần Trận cảm thấy ngựa vẫn đang leo dốc, liền tranh thủ hỏi tiếp: Ở ta có bao nhiêu người giỏi như bố? Ông già trả lời: Các mã quan và những con sói già. Vậy con người đáng gờm hay sói đang gờm? Ông già nói: Con người làm sao bì được với sói. Trước đây có một con sói đầu đàn giết hại gia súc nhiều vô kể, cắn chết cả con ngựa quý của Vương gia. Điều động toàn bộ thợ săn giỏi nhất vùng, kiên trì lùng sục suốt nửa năm mới tóm được, té ra nó là một con sói mù dở: một mắt đui, một mắt chột!....
Lưng ngựa phía dưới mông người cưỡi đã phẳng ngang, ông già lập tức ngừng câu chuyện. Đoàn người ngựa vượt đỉnh dốc, đi xuống một bãi cỏ bằng phẳng. Ông Pilich thúc ngựa chạy nhanh hơn, đại đội nhân mã lặng lẽ bám sát ông. Không còn nghe tiếng cười rúc rích của trẻ em và phụ nữ, đoàn người ngựa như những kỵ sĩ được huấn luyện chính quy đang chấp hành nhiệm vụ tác chiến. Vậy mà trên thực tế, đây là những người mới được tổ chức, có rất nhiều người già, trẻ em và phụ nữ chân yếu tay mềm. Vậy thì đội quân chính quy gồm những chiến sĩ thiện chiến sẽ như thế nào? Trần Trận cảm nhận được ngay tính phổ cập tố chất tuyệt vời về quân sự ở dân tộc này. Tại trung nguyên Hoa Hạ, toàn dân là lính chỉ là khẩu hiệu suông hoặc mơ ước của người cầm quyền, nhưng trên thảo nguyên Mông Cổ, hàng ngàn năm nay câu đó đã là hiện thực.
Càng tới gần địa điểm chỉ định, đội ngũ càng khẩn trương. Cách đây không lâu, lũ sói tiêu diệt toàn bộ đàn ngựa chiến. Chúng thắng đậm. Hôm nay, người Ơlôn huy động toàn bộ sức mạnh đến đây, chưa rõ thắng bại ra sao? Trần Trận bắt đầu lo. Vận dụng cách đánh sở trường của sói là đánh đêm, tập kích và bao vây tiêu diệt để đối phó với lũ sói mà khứu giác, thính giác đều tinh hơn con người, thì khác nào múa rìu qua mắt thợ! Những năm trước, năm nào mục trường cũng tổ chức vây bắt nhưng kết quả rất thường, mười lần xuất kích thì năm lần về tay không. Chả thế có câu giễu: Bủa vây ôi bủa vây, cứ như diều không dây!
Do ảnh hưởng cực xấu về chuyện đàn ngựa chiến bị diệt, lần bủa vây này nếu không đem lại thắng lợi cho cấp trên vui lòng, thì rất có thể bộ sậu lãnh đạo mục trường bị cách chức. Nghe đồn cấp trên đã nhắm một dũng sĩ diệt sói về lãnh đạo mục trường Baolicơ vùng Ơlôn. Vì vậy mà ông Ulichi, ông Pilich và các mã quan chuẩn bị chơi một trận hết mình, hạ gục khí thế của đàn sói thảo nguyên. Phải kiếm được vài chục bộ da sói thượng hạng nộp thượng cấp, nếu không sẽ có người khác về cai quản Ơlôn.
Đêm càng tối càng lạnh. Cái giá buốt lúc rạng sáng và bóng đêm nhập nhoạng đè chặt tim mọi người, ai cũng khó thở. Dương Khắc lặng lẽ lại gần Trần Trận, ghé tai nói thầm: Đội ngũ tản ra thì khoảng cách càng rộng, sói luồn dưới chân ngựa cũng không nhìn thấy, chẳng hiểu ông Pilich có cao kiến gì không? – Cậu ta ghé sát ống tay áo nhìn đồng hồ dạ quang – Chúng mình đi được hơn hai tiếng rồi, đã đến lúc tán khai chưa nhỉ? Trần Trận níu tay áo Dương Khắc, rúc đầu vào trong để nhìn giờ trên chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. Cậu dụi mắt, càng lo.
Đột nhiên một mùi thơm từ trên không sà xuống, mùi thơm nồng của cây thanh hao làm thuốc. Ông già Pilich gò cương dừng ngựa trên đám đất trồng thanh hao. Cả đội dừng lại theo. Ông già ngoảnh lại nói nhỏ mấy câu với các Tổ trưởng sản xuất và đám thợ săn. Họ liền tản khai đội hình theo hai hướng, hơn một trăm con người từ hàng dọc chuyển thành hàng ngang, hình thành rất nhanh tuyến tản binh. Tiếng vó ngựa xa dần cho đến khi mất hẳn. Trần Trận bám sát ông già.
Trần Trận chợt nhìn thấy luồng ánh sáng chói lòa phát ra từ chiếc đèn pin đại trên tay ông già. Liền đó, từ những nơi rất xa của hai phía, có những ánh đèn trả lời. Ông già nháy đèn ba lần, các nơi cũng đáp lại ba lần.
Ông già cất tiếng hú. Tiếng hú lan xa trong không khí lạnh giá. Thảo nguyên đang im lìm bỗng rộ lên những tiếng hú của đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ. Gần nhất là tiếng hú của mấy cô gái trong tổ sản xuất của Caxưmai, trong như pha lê, tiếng vọng mãi không dứt. Tiếng hú của Caxưmai càng lanh lảnh. Cả đại đội hò la như khi trực đêm đuổi sói, dồn dập như sóng biển dồn lên phía tây bắc. Cùng lúc, hơn trăm con chó săn to khỏe, kéo căng dây thừng, sủa như điên. Mở màn là cuộc chiến bằng âm thanh, tiếp theo là cuộc chiến bằng ánh đèn pin, những cột ánh sáng mạnh có, yếu có, to có, nhỏ có, trắng có, vàng có, tất cả đều chĩa về hướng tây bắc, thảo nguyên đen như mực bỗng sáng lòa ánh hào quang do tuyết trắng phản chiếu ánh đèn, những cột sáng dựng tua tủa như biển giáo rừng gươm.
Tiếng hú và những cột ánh sáng lấp đầy khoảng trống giữa người và người, giữa chó và người. Trong khoảnh khắc, tấm lưới do người, chó và tiếng hú dệt nên trải dài mênh mông, tuy thưa mà không gì chui lọt, bao vây gọn đàn sói.
Trần Trận, Dương Khắc và đám thanh niên trí thức choáng ngợp trước cảnh tượng kỳ vĩ trên thảo nguyên. Mọi người hò reo phấn khởi. Trần Trận nhận ra nơi cậu đang đứng là bờ đông đầm lầy, nơi đàn sói tiêu diệt đàn ngựa chiến. Ông Pilich dặn mọi người trước tiên đến địa điểm tập kết, sau đó mới giăng lưới. Lúc này, người và chó đã vòng qua đầm lầy, nhanh chóng triển khai vòng vây trên phần đất dài và hẹp phía bắc đầm lầy.
Ông Pilich gò cương, cúi soi dấu chân sói trên tuyết, tiện thể kiểm tra độ dày mỏng của vòng vây để điều người bổ sung, Trần Trận theo sát ông già, không rời nửa bước. Ông già thở phào: Đàn sói vừa qua đây, khá đông. Cậu xem này, dấu chân mới tinh. Lần này thì đúng rồi, không uổng công thức trắng đêm. Trần Trận hỏi: "Sao không vây chúng trong đầm lầy? Ông già nói: Không được. Đàn sói về ăn thịt ngựa vào lúc nửa đêm, bỏ đi khi trời sắp sáng. Nếu bao vây khi chúng còn trong đầm lầy thì trời quá tối không thể bắt chúng bằng thòng lọng, chó cũng không nhìn rõ chúng. Đàn sói sẽ tản ra bốn phía, thế là công toi. Vây bắt thì phải triển khai vào nửa đêm về sáng, trời rạng bắt đầu dồn đuổi, sáng bạch thì chúng co cụm lại một chỗ.
Bên trái bên phải đều có tín hiệu đèn pin. Ông Pilich nhổm người trên yên, liên tục phát đi mệnh lệnh cho các tổ trưởng. Tín hiệu của ông lúc dài lúc ngắn, khi ngang khi dọc, lúc chữ thập lúc khoanh tròn, ngôn ngữ đèn pin khá phức tạp. Vòng vây hình cánh cung triển khai chậm nhưng chắc, người la ngựa hí, chó sủa từng đợt dậy như sóng cồn, ánh đèn pin xòe nan quạt trên bầu trời. Nhìn dấu chân sói, người và chó phấn khởi kêu lạc cả giọng, hồi hộp trước một trận đánh lớn.
Trần Trận hỏi: Bố ra lệnh gì thế? Ông Pilich vừa đánh tín hiệu vừa trả lời: Bảo phía tây tiến chậm một chút, phía đông nhanh hơn chút nữa, nhanh chóng khớp với đoàn người phía núi. Còn phải lệnh cho những người ở đoạn giữa tà tà thôi, nhanh quá chậm quá đều hỏng việc. Trần Trận ngẩng đầu nhìn trời: màu sắt gỉ đã biến mất, đã có thể nhìn thấy những cụm mây trôi về phương nam, kẽ mây màu xám nhạt.
Đàn chó đánh hơi thấy mùi sói, sủa càng dữ. Con Nhị Lang bắt đầu giằng dây thừng ở cổ để xông lên. Trần Trận kìm chặt, dùng cán thòng lọng gõ nhẹ lên đầu Nhị Lang, ra hiệu cho nó phải nghe lệnh.
Phần lớn dấu chân sói đi lên hướng tây bắc, cũng có một số theo hướng khác. Ông Pilich lần theo dấu chân, ra lệnh tiếp. Trần Trận hỏi: Xưa kia chưa có đèn pin thì bao vây như thế nào? Ông già nói: Dùng đuốc. Đuốc là cây gậy một đầu quấn giẻ tẩm mỡ bò. Thấy đuốc, sói càng sợ. Phải biết sử dụng đuốc, nếu không bị xém hết lông.
Rạng sáng, Trần Trận nhận ra bãi cỏ trước mặt, nơi cậu đã chăn cừu mấy tháng. Cậu nhớ phía tây bắc có một thung lũng lòng chảo, ba mặt là núi, một mặt là con dốc thoai thoải. Có lẽ đây là bãi vây mà ông già Pilich đã nói. Các mã quan mai phục phía sau núi, chỉ cần đàn sói lọt vào bãi vây là người ngựa và chó phía sau xông lên, lập tức bịt chặt cửa vào, trận tiêu diệt chiến bắt đầu. Trần Trận vẫn không rõ có bao nhiêu con sói bị vây trong thung lũng, nếu chúng quá đông, một trận đánh xáp lá cà sẽ xảy ra. Cậu gỡ cây gậy cài bên yên, lồng dây vào cổ tay. Cậu bắt chước cách đánh của Batu, run lên vì hồi hộp.
Gió tây bắc mạnh dần lên, mây bay ngày càng nhanh, ánh sáng lọt qua kẽ mây, đồng cỏ khi mờ khi tỏ. Tới gần cửa khẩu, mọi người giật mình la lớn: Chừng hai chục con sói lớn đang dáo dác nghiêng ngó, lúc đi lúc dừng, không chịu vào hẳn trong thung lũng. Gần đó, một đàn sói nữa cũng đang lưỡng lự, hình như chúng cảm thấy có chuyện. Có thể chúng đánh hơi thấy sự nguy hiểm từ hướng tây bắc.
Trần Trận ngày càng thán phục cách căn thời gian và sự điều chỉnh chính xác của ông già Pilich – Khi đàn sói nhìn rõ tất cả thì vòng vây đã khép chặt, ánh đèn pin yếu đi là lúc các cây thòng lọng dựng lên tua tủa. Đàn sói đã bị bao vây gọn, hai đầu cánh cung đã tiến sát thung lũng. Có thể thời viễn cổ, khi đất đai rộng lớn ở trung nguyên chưa bị khai khẩn thành đồng ruộng, những người thợ săn lão luyện đã thuộc lòng cách đánh này. Đàn sói thiện chiến trên thảo nguyên đã đào tạo ra một dân tộc tài năng hơn hẳn cha ông.
Vài con sói đầu đàn khi thấy rõ tình thế liền nhào trở lại. Lũ sói vừa chén no thịt ngựa, thể lực sung mãn, sát khí đằng đằng, chúng liều chết xông tới. Đám mã quan xông lên ứng chiến, người từ hai phía vội dồn lên lấp đầy chỗ trống của vòng vây.
Đàn sói không chùn bước, nhưng đã đổi hướng tấn công. Chúng xông thẳng vào đám phụ nữ quần áo lòe loẹt, trong tay không có cây thòng lọng. Đám Caxưmai cũng không vừa. Họ đứng thẳng trên bàn đạp, vung cả hai tay mà hét, thiếu nước dùng tay không để cản đàn sói. Đàn sói đã nhận ra chỗ yếu của vòng vây, liều chết xông vào. Trần Trận cũng thấy rõ mối nguy hiểm, sợ đứng tim.
Đúng khi đó, ông già Pilich nhổm người trên yên, tay chém không khí quát lớn: Thả chó ra! Vòng vây dày đặc đây đó nổi lên tiếng suỵt chó. Tất cả dây da được thả ra. Hơn một trăm con chó săn mắt đỏ ngầu vì bị ức chế, từ ba phía đông, nam, tây bứt xích xông vào đàn sói. Balưa, Nhị Lang và mấy con chó sát thủ của đội nhắm thẳng con sói đầu đàn. Bám sát phía sau, lũ chó săn cậy có chủ bên cạnh, tranh nhau xông lên, sủa râm ran.
Mọi người điều chỉnh thế trận, vung thòng lọng thúc ngựa chạy theo đàn chó. Bụi tuyết mù trời, các dũng sĩ Mông Cổ với tiếng hô "sát!", "sát!" ngắn gọn từng tiếng khiến cả thế giới kinh hoàng, hòa cùng tiếng vó ngựa dồn dập như trống trận, xông vào giữa đàn sói.
Đàn sói kinh hoảng trước sức tấn công như vũ bão, con sói đầu đàn quay đầu chạy về phía núi, nhanh chóng họp đàn, chạy thêm một quãng rồi chia làm mấy ngả chạy theo mấy con dốc nhằm chiếm lĩnh cao điểm, từ đó chúng chạy dạt về phía bên kia, hoặc tổ chức phản công, từ trên cao đánh xuống.
Vòng vây cánh cung kéo thẳng như sợi chỉ, bịt chặt cửa khe, đàn sói đã bị dồn vào bãi săn do ông già Pilich đã tính trước.
Từ mỏm núi phía sau bãi vây, bãi trưởng Pilich cùng đại biểu quân đội Bao Thuận Quý đang theo dõi trận chiến với một tâm trạng sốt ruột. Toàn cảnh bãi săn đều trong tầm mắt. Bao Thuận Quý phấn khởi đấm xuống tuyết, nói: Ai bảo ông Pilich chuyên nương tay với sói? Thánh thật, trong một thời gian quy định mà dồn được cả bầy sói lớn như thế vào bẫy. Tôi chưa từng thấy đàn sói đông như thế này bao giờ. Thật đáng khâm phục, mình phải đề nghị khen thưởng cho ông già mới được!
Ulichi cũng cảm thấy khoan khoái, nói: "Đếm dấu chân, đàn sói có bốn mươi con, năm xưa vây được đàn sói một hai chục con đã sướng rơn. Ông Pilich đúng là đàn sói đầu đàn của người Mông thảo nguyên. Năm nào mục trường tổ chức săn sói mà không có ông là cánh thợ săn không tham gia. Lần này, lũ sói hủy diệt đàn ngựa, ông Pilich tức điên. Ulichi quay lại bảo Batu: Bảo mọi người không được nổ súng, dù chỉ bắn chỉ thiên. Hôm nay người đông, lỡ cướp có là rách việc. Batu nói: Cháu đã nhắc nhiều lần rồi.
Phía sau núi, các mã quan và cánh thợ săn đã sẵn sàng trên yên, có lệnh là xuất kích. Họ đều là cao thủ của mục trường, tài nghệ hơn hẳn mọi người từ tài cưỡi ngựa, tung thòng lọng cho đến cách sử dụng gậy, người nào cũng lập kỷ lục bắt và diệt sói. Lại nữa, họ cưỡi những con ngựa nhanh nhất, linh hoạt nhất, biết ngoạm con mồi săn được, những con ngựa mà ngày thường để dành không nỡ cưỡi. Họ căm vì đàn ngựa bị diệt, đang chuẩn bị hôm nay trả thù. Ngựa của họ đã nghe thấy tiếng chó sủa ở bãi săn, đã ngửi thấy bầu không khí nóng bỏng của cuộc vây bắt, chúng cúi đầu giằng dây cương, giơ chân cào tuyết, cơ bắp hằn trên ức trên đùi, hai chân sau căng thẳng như lò so bẫy thú, chỉ cần chủ nhân lỏng cương là lao đi như mũi tên. Những con chó của đám thợ săn đều tinh tuyển từ chó nhà, con nào cũng được huấn luyện đến nơi đến chốn, rất thiện chiến. Tuy đã nghe thấy tiếng hò la từ lâu dưới bãi săn, nhưng chúng vẫn im lặng, chỉ nghiêng đầu nhìn chủ, tỏ ra rất thông thạo trận mạc.
Ulichi và Batu nhổm người lên, chuẩn bị ra lệnh.
Chủ lực của bầy sói tập trung phá vây ở cao điểm phía tây bắc. Trên thảo nguyên, người không phải là đối thủ của sói trong việc chiếm lĩnh độ cao. Sức bền và sức bật mạnh, sói thảo nguyên thường dùng tốc độ cao vọt lên đỉnh núi để cắt đuôi kẻ thù phía sau. Cho dù chạy rất nhanh trên đất bằng, nhưng chó và ngựa không bao giờ đuổi kịp sói khi leo dốc. Lên tới đỉnh, những con sói dừng lại lấy hơi, rồi trong một thoáng ngoài tầm nhìn của kẻ rượt đuổi, chúng nhào xuống chỗ dốc dựng đứng, mau chóng mất hút. Khi người ngựa lên tới nơi thì lũ sói đã biệt tăm, mà dù còn nhìn thấy thì cũng đã ngoài tầm súng.
Đàn sói không giảm tốc độ, băng lên đỉnh dốc. Đàn chó và đoàn người ngựa bị bỏ lại một quãng xa. Dần dần bầy sói là mấy con chạy nhanh nhất, con đầu đàn và mấy con sói gộc chạy chếch phía sau. Ulichi chỉ con sói cổ và ức màu xám tro, bảo Batu: Con đầu đàn đấy, chính nó hạ sát đàn ngựa. Tôi giao nó cho cậu, bắt đầu đi!
Đàn sói đã vọt lên được khoảng hai trăm mét. Batu chống sào nhảy lên lưng ngựa. Ông Ulichi cũng lên yên, quát to: Xuất kích! Batu giơ cao cây thòng lọng như một ngọn cờ. Các mã quan đều suỵt chó xông lên. Ba chục con chó và ba chục con ngựa như những quả ngư lôi, phóng thẳng về phía đàn sói. Hai phần ba mã quan tách ra chiếm những vị trí thuận lợi nhất ngang sườn núi, hình thành một cánh cung khớp với tuyến của ông Pilich. Một phần ba những người cầm thòng lọng xông về phía đàn sói.
Đàn sói vốn đã nơm nớp, giờ thấy có quân mai phục, liền rối như canh hẹ. Cuối cùng, chúng rơi vào cái bẫy mà chúng quen sử dụng. Chúng bối rối hơn những con dê vàng khi sa bẫy, nhưng cũng tỏ ra quyết liệt hơn, quay ngoắt lại lao thẳng xuống, quyết một mất một còn với đoàn người ngựa và chó dưới dốc. Đàn sói đã nổi hung, bất kể sống chết nhào vô đánh dạt đàn chó sang hai bên. Một cuộc hỗn chiến diễn ra, răng bập vào răng, tuyết bay tung tóe, lông lá tơi tả, máu tuôn xối xả, chó khóc sói gào. Đám thanh niên trí thức chưa từng chứng kiến một trận huyết chiến dữ dội đến như thế, cứ ngây ra mà nhìn không chớp.
Trên đỉnh dốc, Batu mắt không rời khỏi con sói chúa. Vừa xuống dốc, anh đã tung thòng lọng về phía nó, nhưng nó không chạy xuống dốc theo đàn, mà thoắt cái, tạt ngang sang hướng tây, bốn năm con sói vệ sĩ chạy xúm xít xung quanh. Batu cùng hai xạ thủ và bốn năm con chó săn quyết truy kích đến cùng. Nhưng con sói chúa đã thực thi phương án hai, chọn đoạn đường hiểm trở nhất, mặt đất đầy đá sỏi trơn tuột, kêu lạo xạo dưới chân khi trượt xuống, nhưng con sói không ngã vì bàn chân có lớp đệm dày giúp nó trụ vững, không bị lăn xuống vực cùng sỏi đá. Bàn chân chó nhỏ hơn bàn chân sói, nhưng chó cũng không dám liều mạng, loạng choạng lao xuống đuổi theo, còn ngựa thì móng guốc không thể chạy trên đá sỏi. Một mã quan thúc ngựa chạy được một đoạn liền bị ngã chổng bốn vó, cây thòng lọng gãy làm ba. Hai mã quan kia vội gò cương, tìm cách cứu người bị ngã.
Batu quyết chí phục thù. Anh xuống ngựa dựng đứng cây thòng, biến nó thành cây gậy chống, cắm mặt vát của cán thòng vào kẽ đá làm điểm tựa, một tay dắt ngựa tiếp tục truy kích, miệng hô lớn "tiến lên!", "tiến lên!". Vượt sang bên kia một con đèo, nghe thấy tiếng chó kêu thảm thiết, Batu vội vàng lên yên đuổi theo. Chỉ lát sau, anh đã thấy một con chó gộc bị sói cắn trọng thương đang quằn quại, còn một con bị cắn đứt một bên tai, máu me đầy mặt. Ba con khác sợ thất thần, lông gáy dựng đứng chỉ chực tháo chạy. Con sói trông thấy cây thòng liền bỏ chạy về phía bãi sậy. Batu dẫn một thợ săn và ba con chó đuổi theo.
Ulichi thấy Batu đã sang bên kia đèo, liền dẫn Bao Thuận Quý chạy tới địa điểm quan sát tốt nhất để tùy tình hình mà điều phối nhân lực xiết chặt vòng vây, không cho con nào trong đàn sói chạy thoát. Thợ săn Mông Cổ đều là những chiến binh lão luyện, biết nhìn toàn cục, hiểu nhiệm vụ, không tranh công, không cướp công. Những thợ săn ở vòng ngoài thấy người và chó ở vòng trong tung hoành ngang dọc, hâm mộ đấy nhưng không một ai rời vị trí. Một con sói phá vây chạy ra vòng ngoài, liền bị một hai thợ săn đón đánh tức thì, hoặc bị đuổi trở lại hoặc bị tròng cổ bằng thòng lọng. Chỗ trống phía sau anh ta liền bị các thợ săn khác trám đầy, đảm bảo vòng vây không có kẽ hở.
Chính giữa thung lũng, người chó và sói quần nhau kịch liệt. Những con sói và chó ngã xuống đều đã nằm im, miệng vết thương bốc hơi. Hơn bốn chục con sói bị một trăm sau mươi bảy con chó vây chặt. Lũ sói quây thành một vòng tròn, vai chen vai, đuôi nối đuôi, các hàm răng chĩa hết ra ngoài, chiến đấu tập thể, quyết sống mái với bầy chó. Cả sói lẫn chó đều có những con bị cắn rách vai, rách ngực, máu chảy dầm dề. Vòng ngoài của đàn chó là mấy chục thợ săn thiện nghệ, dùng cây thòng vụt tới tấp những con sói ở vòng trong. Sói và chó quần nhau kịch liệt, không thể phân biệt con nào là sói, con nào là chó. Thợ săn tuy đông, nhưng không dám tung thòng lọng vì sợ bắt lầm. Những thợ săn có ngựa cao lớn cũng không dám xung trận vì số sói trong vòng vây khá đông mà cũng chưa hao tổn là mấy, vạn nhất chúng liều chết xông ra tứ phía, hai lớp vòng vây có thể bị đứt đoạn, vòng ngoài cùng thì quá mảnh không cứu ứng được nhau.
Những thợ săn có kinh nghiệm, điều khiển thòng lọng như thật như đùa trên đầu lũ sói, con nào nhảy lên đớp liền bị tròng vào cổ, hoặc vào thân hoặc eo, múi thòng lập tức xiết chặt, con sói bị lôi ra ngoài để lũ chó cắn đứt họng.
Cánh thanh niên trí thức và đám phụ nữ được bố trí ở mạn nam bên ngoài vòng vây. Ông già Pilich chỉ định Trần Trận và Dương Khắc án ngữ ở đoạn dốc giữa dốc núi, địa thế tương đối cao, nhìn thấy toàn cảnh cuộc tàn sát khủng khiếp như trên đấu trường La Mã. Hai cậu vừa mong một con sói nào đấy phá vòng vây chạy tới để có dịp sử dụng thòng lọng, nhưng lại ngại đó là một con sói gộc vì sói gộc chạy rất nhanh, không còn cơ hội tung thòng lần thứ hai nếu lần đầu bị trượt. Cũng may vòng trong người và chó chiếm ưu thế, sói không thể đột phá vòng vây chạy ra ngoài.
Những đàn sói lớn lần lượt bị thòng lọng lôi ra ngoài và bị chó dữ cắn chết. Đàn sói tru dài, giọng khản đặc. Chúng thay đổi chiến thuật, không nhảy lên đớp thòng lọng mà cúi gằm ăn miếng trả miếng với lũ chó, làm mất công dụng của cây thòng.
Trần Trận dùng ống nhòm quan sát tình hình. Cậu nhận thấy lũ sói tuy đã rơi vào tử địa, nhưng chúng chưa mất lý trí. Chúng không đơn thuần mạng đổi mạng, mà ra sức sát thương chó chủ lực. Tốp năm tốp ba, chúng phối hợp nhanh như chớp đả thương lũ chó, cắn miệng nào chí mạng miếng đó, máu tuôn như suối. Những con sói gộc còn triển khai thủ đoạn vô cùng tàn nhẫn của sói Mông Cổ, giả vờ hớ hênh cho chó ngoạm vào những chỗ phạm để có dịp cắn rách cổ hoặc bụng con chó. Vì vậy lũ sói gộc máu me đầy mình, nhưng rất ít con bị hạ gục. Trái lại lũ chó thì bị thương la liệt như ngả rạ, sủa ăng ẳng khiến những con khác sợ khiếp vía. Sau khi giao phong vài chục hiệp, lũ sói dần thắng thế. Một khi chó săn bắt đầu sợ thì lũ sói chớp thời cơ đột phá cả bốn phía.
Đúng lúc này, ông già Pilich đột nhiên gọi to: Balưa! Balưa! Xông lên! Và giơ tay ra hiệu lùi lại. Trần Trận và Dương Khắc hiểu ngay ý đồ ông già, gọi toáng lên: Nhị Lang! Nhị Lang! Tiến lên! Hai con chó dữ mắt đỏ ngầu hiểu ý chủ, đột nhiên lùi lại mấy chục bước, hộc lên một tiếng, điên cuồng xông tới con sói đầu đàn ở giữa đàn sói. Con Nhị Lang chạy nhanh hơn, tông một phát khiến con sói bắn xa đến mấy thước chứ không ngã. Lúc này con Balưa lừng lững như cây vồ phá cổng thành lao thẳng vào con sói khiến nó ngã lộn mấy vòng, chưa kịp nhổm dậy đã bị con Nhị Lang bập một phát giữa họng, máu tươi phọt ra nhuốm đỏ đầu Nhị Lang và bãi tuyết xung quanh. Đàn sói sợ run. Con sói đầu đàn cào như điên lên đầu, ngực và bụng con Nhị Lang, nhưng Nhị Lang còn dữ hơn, kiên quyết không nhả vết cắn cho đến khi con sói chết hẳn. Đàn sói thấy Nhị Lang là chó dữ đều sợ hãi lùi lại. Balưa thấy con mồi của nó đã bị Nhị Lang giành mất, tức lắm nhưng giờ không phải lúc nổi cáu, đành quay sang tấn công con sói khác.
Đàn chó như được tiếp thêm sức mạnh, đồng loạt tấn công kẻ thù. Nhị Lang và Balưa ra sức sát giới, cuối cùng trận địa sói vỡ tung từng mảng, các thợ săn thừa thắng xông lên, dùng thòng lọng chia cắt bầy sói. Bầy sói phơi mình trước những cây thòng lọng và răng chó.
Đàn sói thấy tình thế bất lợi bèn tản ra bốn phía, từng con phá vây. Vòng trong loạn tùng phèo, lũ sói định thừa cơ thoát hiểm, nhưng chẳng được mấy chốc, mỗi con sói đều bị hai ba con chó và thợ săn quây chặt. Phụ nữ, trẻ em vòng ngoài cùng hò hét trợ oai, các thợ săn vung cây thòng uy hiếp vòng trong.
Vòng trong, Lanmutrăc tự ví mình như sói, thấy đàn chó đã quây được một con sói gộc, liền cúi rạp lia cái thòng lọng trên mặt đất, bỏ qua phần đầu và hai chân trước, đến phần eo thì anh xiết thòng lọng rồi xiết chặt eo con sói, vỗ đầu ngựa chạy trở lui, kéo ngược con sói như kéo chiếc bao tải. Con sói không thể vùng dậy, hai chân cào đất thành rãnh, Lanmutrăc vừa kéo ngược con sói vừa quát lũ chó xông vào.
Trên thảo nguyên, tròng cổ một con sói đã khó, giết chết con sói càng khó hơn. Cổ sói ngắn, con sói lắc đầu là tuột ra, mà dù thòng lọng không tuột, xiết chặt thòng cũng không dễ. Lỡ gặp phải một con cổ thô như khúc gỗ thì dù thòng trúng cũng bật ra. Vì vậy, thợ săn có kinh nghiệm thích tròng vào eo là chỗ thắt cổ chai trên mình con sói, chỉ cần thòng trúng, xiết chặt, con sói chạy không thoát. Nhưng đến đoạn hạ sát thì mới gay. Thòng vào cổ thì kéo ngược kiểu nào, con sói cũng không chết. Nếu chỉ một mình thì khó đối phó, chỉ cần xuống ngựa là con sói chạy lộn lại phía chót thòng lọng, bẻ gãy chỗ mảnh nhất của cây thòng, rồi hoặc tháo chạy, hoặc đả thương người rồi mới thoát thân. Chỉ có những thợ săn thuộc loại cao thủ, mới có thể vừa nhảy xuống đất đã xiết chặt thòng lọng, lôi sói đến trước mặt rồi dùng gậy hoặc dao giết chết con sói. Rất nhiều thợ săn không dám hi sinh bộ da sói, cứ thế mà kéo đến nơi có chó sát thủ, để người hoặc chó giết hộ con mồi.
Lanmutrăc chuyên chọn nơi có tuyết dày để kéo sói, vừa kéo vừa tìm chó sát thủ. Vài con chó chạy quanh, sủa ầm ĩ, đớp bừa một miếng rồi nhảy ra, không con nào dám cắn vào chỗ chí mạng. Lanmutrăc bất chợt trông thấy con Nhị Lang vừa cắn đứt yết hầu một con sói gộc. Anh biết con chó dữ này, nên kéo con sói về phía nó, miệng thét: Giết, giết, giết! Con Nhị Lang nghe hô giết liền nhả con sói chưa chết hẳn, xông tới. Nhị Lang làm một động tác thuần thục. Vòng ra phía sau gáy con sói, một chân giữ đầu, một chân giữ vai con mồi rồi cắn một phát đứt động mạch cảnh. Con sói chống lại quyết liệt, nhưng không sao cào trúng Nhị Lang. Lanmutrăc xuống ngựa , gọi to: Lôi hết sói về phía này mau! Con chó này còn dữ hơn sói! Ở một chỗ cách đó không xa, con Balưa cũng vừa cắn đứt cổ một con sói. Thế là mọi người đua nhau kéo sói về phía hai con chó. Trên bãi săn, ngoài hai con Nhị Lang và Balưa, còn có nhiều chó dữ to lớn như chó của người Exkimô cũng được mọi người chú ý. Đó là tám con chó nhà Đanchi, con nào cũng thuộc loại sát thủ chuyên nghiệp. Chúng phối hợp chặt chẽ, trên dưới đồng lòng, phân công rành rẽ, binh lực tập trung, từng con đột phá. Lần này là tám chọi một, giết hết con nọ đến con kia, chỉ một loáng đã thanh toán gọn ba con sói.
Trên bãi săn, các thợ săn cũng tổ chức từng nhóm từ ba đến năm người. Hễ có người tròng được sói, những người khác liền xuống ngựa xông tới nhè đầu con sói mà đập. Góc tây bắc bãi săn vang lên những tiếng thét man rợ. Bốn năm thợ săn cưỡi ngựa đuổi theo hai con sói. Một mã quan cầm cây thòng nhổm người trên yên mà vụt. Con sói chạy sùi bọt mép. Đợi con sói chạy với tốc độ cao nhất, một mã quan khác lại xông lên. Cuối cùng, Saxưleng đón đường từ phía bên tung thòng lọng xiết chặt cổ sói rồi bất thình lình nhả dây thòng. Con sói ngã lộn bảy tám vòng. Đợi nó gượng dậy, ba bốn mã quan khác lại dùng sào mà vụt, buộc con sói phải chạy tiếp, bị tròng cổ rồi nhả bất chợt, lại ngã lăn năm sáu vòng. Mỗi lần sói ngã, đám thợ săn lại vỗ tay hoan hô cho hả cái giận bầy sói giết đàn ngựa của họ.
Hai con sói bị rượt đuổi đến nỗi không còn biết phương hướng mà chạy. Một con mệt đứt hơi, không chạy nổi nữa. Saxưleng bỏ cây thòng lọng, rút chân khỏi bàn đạp, ngồi xổm trên yên, rồi như một con báo bay xuống cưỡi trên mình sói, hai tay nắm hai tai con sói mà dúi mõm nó xuống đất khiến mặt mũi con sói đầy máu. Ba bốn mã quan cùng xuống ngựa, cưỡi lên mình sói để Saxưleng kết thúc bằng một nhát dao. Con sói kia cũng bị ba bốn mã quan cưỡi trên mình như chơi trò ngựa gỗ một hồi mới hạ thủ.
Trần Trận, Dương Khắc và đám thanh niên trí thức cầm chúc cây thòng lọng. Các cậu chỉ đứng nhìn từ đầu đến cuối cuộc vây bắt hi hữu, mấy năm mới có một lần. Các cậu chỉ tiếc mã quan Trương Kế Nguyên không tròng được con sói nào. Một con sói gộc đã dùng kế áp sát mà vuột mất khiến cậu trở tay không kịp, suýt nữa gãy đầu thòng. Hai mã quan khác cũng đã trở thành khán giả xem người khác hành động, lại còn để xổng một con chạy mất.
Ông già Pilich thấy công việc đã hòm hòm, liền tới bên Trần Trận và Dương Khắc. Ông nói: Các cậu cũng đã lập công. Nếu không có các cậu án ngữ, tôi không thể điều một số thợ săn đi bắt sói. Thấy Trần Trận và Dương Khắc vẫn tỏ ra tiếc rẻ, ông già cười: Con chó của các cậu cũng lập công lớn. Một mình nó cắn chết hai sói, giúp thợ săn cắn chết hai sói nữa. Các cậu sẽ được chia hai bộ da, còn hai bộ nữa, theo lệ, chia cho hai thợ săn. Ông vừa nói, vừa dẫn hai thanh niên xuống dốc.
Trận bủa vây này, trừ vài con dùng tốc độ cực nhanh và kỹ thuật đâm sầm vào đối phương chạy thoát, tất cả những con còn lại đều bị giết sạch.
Người ngựa ở vòng ngoài vừa hò reo vừa chạy tới xem chiến lợi phẩm ở vòng trong. Ông già Pilich đã sai người kéo hai con sói phần của Trần Trận và Dương Khắc vào một chỗ. Ông xắn tay áo cùng Trần Trận và Dương Khắc lột da hai con sói. Caxưmai cũng kêu người kéo xác hai con sói do con Balưa cắn chết và một con do chó nhà Tang Kiệt cắn, xếp vào một chỗ. Tang Kiệt và Quanbu chủ động bước tới lột da.
Trần Trận đã học được cách lột da sói từ ông già, giờ cậu dạy lại cho Dương Khắc. Trước tiên dùng dao Mông Cổ khoanh đứt da đầu rồi lột bỏ đi. Dương Khắc luồn dây da qua kẽ răng sói neo chặt con sói lại để Trần Trận lột ngược da từ đầu đến đuôi như người ta cởi áo thun. Loại bỏ thịt và mỡ dính trên da, cắt rời đuôi và bốn chân, lúc này bộ da sói da phía ngoài, lông phía trong, lộn trở lại là được một bộ da sói hoàn chỉnh hình ống.
Ông già ngó qua, bảo: Được đấy, không dính mỡ. Về nhà, các cậu nhét đầy cỏ khô vào rồi treo lên đầu sào. Từ nay, người thảo nguyên Ơlôn công nhận các cậu là thợ săn.
Nhị Lang và con Vàng nằm bên xem lột da. Nhị Lang liên tục liếm máu sói và máu của chính nó trên ngực và hai chân trước, có vẻ ngon lành. Con Vàng giúp Nhị Lang liếm máu sói trên đầu. Con Vàng sạch bong, không hề bị thương cũng không dính một giọt máu sói, y hệt một công tử ăn chơi. Vài thợ săn khen con Vàng, nói nó cắn chân sau của sói, không có con Vàng, Lanmutrăc chưa chắc đã thòng được con sói. Dương Khắc nghe vậy mừng rơn, vậy là cậu cũng như Lanmutrăc, hưởng phần của chó.
Trần Trận thò tay vào bọc lấy mấy cái kẹo sữa thưởng cho hai chiến tướng. Nhị Lang ba cái, con Vàng hai cái. Cậu có dự cảm hai con sẽ biểu hiện rất tốt trong lần bủa vây này. Hai chân giữ cái kẹo, dùng miệng xé giấy bọc, sau đó dùng lưỡi lấy kẹo đưa vào miệng, ngửa đầu nhai côm cốp, khiến những con khác thèm dỏ rãi, tranh nhau liếm miếng giấy bọc. Từ khi đám thanh niên trí thức về đây, lũ chó thảo nguyên mới biết trên đời lại có những thứ quý hiếm và ngon đến thế. Được ăn kẹo sữa Bắc Kinh là niềm vinh dự của chó thảo nguyên. Caxưmai cười, bảo Trần Trận: Cậu dọn đi rồi, quên cả chó nhà này. Nói rồi, chị thò tay vào túi áo Trần Trận lấy hai cái kẹo sữa cho con Balưa. Trần Trận vội lấy tất mấy cái còn lại đưa cho Caxưmai. Chị cười, bóc một cái bỏ vào miệng.
Bãi săn nhộn nhịp, xác sói, thân ngựa, mõm chó, thái dương người bốc hơi. Từng nhóm người tuần tụ theo gia tộc đang lột da sói. Chiến lợi phẩm được phân phối theo truyền thống trên thảo nguyên, không hề có mâu thuẫn. Trí nhớ người đi săn cực tốt, chó của nhà nào cắn chết con sói nào, thợ săn nào tròng được con sói nào, không hề lầm lẫn. Chỉ trong trường hợp hai người cùng tròng trúng con sói thì có tranh chấp đôi chút. Một câu phân xử của ông Pilich là xong: Bán bộ da mua rượu, mỗi người uống một nửa. Những thợ săn và mục dân không được chia phần cũng háo hức xem người khác lột da, cũng bàn luận sôi nổi về giá trị của từng bộ. Chó tốt thì bộ da sói miễn chê, chó dở thì bộ da sói toàn lỗ thủng. Những người có thu nhập cao lớn tiếng mời mọi người về nhà họ uống rượu. Trên thảo nguyên, tham gia vây bắt ai cũng có phần.
Bãi săn trở lại yên lặng, mọi người nghỉ ngơi tại chỗ.
Buồn nhất là đám phụ nữ, hầu hết đang băng bó cho những con chó bị thương. Chỉ khi đi săn, đàn ông mới sử dụng chó, còn phụ nữ thì đêm nào cũng phải nhờ cậy chó. Chó cũng được phụ nữ các gia đình chăm bẵm như nuôi trẻ từ nhỏ đến lớn. Chó chết hoặc bị thương, phụ nữ xót xa nhất. Mấy con chó chết trận nằm nguyên tại chỗ, trên thảo nguyên, chó chiến chết ở chỗ nào thì đó là nơi linh hồn chó lên trời, và thực hiện công việc thiên táng ấy lại chính là sói – kẻ thù không đợi trời chung của loài chó. Ông già Pilich nói: Như vậy mới công bằng, chó nên cảm ơn sói, nếu thảo nguyên không có sói thì mục dân cũng không cần nhiều thịt đến thế để nuôi chó, những con chó sau khi sinh đều phải ném lên trời.
Những con chó chết trận nằm trên đồng cỏ, không một người Mông – Cổ - thảo – nguyên nào tính chuyện lột lấy da. Chó thảo nguyên là bạn chiến đấu của người, bạn chiến đấu thân thiết, tình nghĩa. Người thảo nguyên sống bằng hai nghề chính: Săn bắn và chăn thả. Người thảo nguyên săn bắn dựa vào chó, bảo vệ đàn cừu dựa vào chó. So với con trâu của nông dân trung nguyên, chó quan trọng hơn, còn là công cụ sản xuất và vệ sĩ của người thảo nguyên. Chó hiểu người hơn trâu, là chỗ dựa không thể thiếu về tình cảm và là người bạn tinh thần của người dân trên thảo nguyên hoang vắng.
Thảo nguyên Mô
ng Cổ đất rộng người thưa, hoàn cảnh khắc nghiệt. Chó thảo nguyên còn lập những kỳ tích về báo động cứu người. Caxưmai không bao giờ quên ơn con Balưa đã cứu chị. Cuối thu năm ấy chị đổ tro bếp lò, không nghĩ tới có một cục phân cừu chưa cháy hết. Gió tây bắc rất mạnh, thổi tàn lửa ra đống cỏ khô trước lều. Khi ấy ở nhà có chị, lão Ơchi và con trai. Chị khâu vá ở trong lều, không biết bên ngoài xảy ra chuyện gì. Đột nhiên chị nghe thấy Balưa vừa sủa vừa cào cửa. Chạy ra xem, chị đã thấy vệt lửa dài hơn hai trăm bước, rộng hơn chục bước. Xa hơn nữa là bãi chăn mùa đông của một đại đội, cỏ cao và rậm, đã bắt lửa thì không có cách nào dập tắt, quá nửa đàn gia súc nếu không bị thui bị bỏng thì cũng không còn cỏ mà ăn trong mùa đông, chị cầm chắc sẽ bị bỏ tù. Con Balưa báo động kịp thời đã cho chị chút thời gian quý hơn cả mạng sống. Chị thấm ướt một tấm thảm lớn, cuộn mình trong thảm lăn đi dập lửa kiểu cuốn chiếu, cuối cùng dập tắt được ngọn lửa trước khi cháy lan sang bãi cỏ dày. Không có Balưa chị cũng hết đời.
Caxưmai có lần kể với Trần Trận và Dương Khắc, đàn ông trên thảo nguyên rất ham rượu, thường say rượu ngủ gục trên yên, ngã xuống tuyết chết cong. Những người không chết là nhờ chó. Con chó chạy về nhà, lôi vạt áo bà chủ gọi người đi bới tuyết cứu ông chủ về. Trên thảo nguyên Ơlôn, nhà nào cũng có chó cứu chủ, lều nào cũng có đàn ông hay đàn bà được chó cứu.
Vì vậy trên thảo nguyên, hành vi giết chó, ăn thịt chó, lột da chó, đi tất da chó, đều bị coi là vong ơn bội nghĩa, là tội ác không thể tha thứ. Cũng vì vậy mà người thảo nguyên Mông Cổ có ác cảm với những nông dân làm thuê hoặc người Hán từ nơi khác đến.
Ông già Pilich từng nói: Xưa kia, quân Hán vào thảo nguyên Mông Cổ là giết chó hàng loạt để ăn thịt khiến mục dân nổi giận đứng lên chống lại. Hiện nay, một số lưu manh đến từ nội địa cũng thịt trộm chó, chuyển bộ da đi Đông Bắc hoặc bên kia quan ải. Chó Mông Cổ có bộ da lớn, tuyết dày, rất ấm, người Hán phía Bắc coi là nguyên liệu cao cấp may mũ, may tất chống lạnh. Ông già Pilich tỏ vẻ cáu: Vậy mà không thấy nói gì đến chuyện ấy trong sách của người Hán?
Cả nhà ông già Pilich thường hỏi một câu khiến Trần Trận rất khó trả lời: Vì sao người Hán ghét chó, chửi chó và giết chó để ăn thịt? Trần Trận suy nghĩ một thời gian dài mới giải thích.
Một tối, bên bếp lò, Trần Trận nói với cả nhà: Người Hán không có nghề chăn thả, thợ săn cũng không nhiều, những gì ăn được là người Hán ăn sạch, vậy nên người Hán không biết chó có ích như thế nào. Người Hán đông, không cô quạnh, không cần chó bầu bạn cho vui. Người Hán có hàng chục câu chửi về chó: Lòng lang dạ chó, không bằng con chó, chó cũng không lọt tai, đồ chó đẻ, chó cậy gần nhà, chó cùng giứt giậu, chó nhảy bản độc, đồ chó má xem người chả vỡ, đồ tay sai, đánh chó phải đánh cho chết, miệng chó không ló ngà voi, xui chó bắt chuột – chỉ vẽ chuyện, bánh bao ném chó – có đi không về … Bây giờ lại có cả những khẩu hiệu chính trị, cả nước đang "đập nát cái đầu chó Lưu Thiếu Kỳ", "đả đảo Lưu Thiếu Cẩu"… người phương Tây cũng không hiểu vì sao người Trung Quốc lại dùng chó để nói những chuyện trên.
Vì sao người Hán ghét chó ư? Cái chính là chó không hợp với quy củ của người Hán. Mọi người có biết ngày xưa Trung Quốc có một ông thánh tên là Khổng Tử? Hoàng đế các triều đại Trung Quốc đều lạy trước tượng ông ta. Ông ta đặt ra rất nhiều quy củ làm người, ngàn vạn năm nay người Trung Quốc làm theo những quy củ đó. Những người biết chữ luôn trong tay có quyển "Ngữ lục" giống như quyển bìa đỏ bây giờ, ai không làm theo, người ấy là kẻ mọi rợ, đặc biệt nghiêm trọng thì bị chặt đầu. Nhưng con chó có cái tật là không theo những quy định của Khổng Tử: Một là Khổng Tử dạy người ta phải lễ phép, hiếu khách và tôn trọng khách. Nhưng chó trông thấy người lạ là bất kể giàu nghèo, già trẻ, bạn bè thân thiết hoặc quý khách tiện dân, xông tới đớp liền, khiến người Hán vốn coi trọng lễ nghi cảm thấy thất lễ, ngượng mặt, nổi cáu. Hai là Khổng Tử dạy trai gái không được loạn luân, quan hệ bừa bãi, phạm vào những chuyện này là phải nghiêm trị. Nhưng chó thì bất kể anh chị em hoặc bố với con gái, mẹ với con trai, không kiêng kị gì hết, khiến người Hán vừa sợ vừa căm, chỉ sợ người bắt chước chó. Ba là Khổng Tử dạy người ta phải ăn sạch ở sạch, nhưng chó lại thích ăn phân người, khiến người Hán cực kỳ ngán ngẩm. Còn một điểm nữa, người Hán nghèo ít nuôi chó, người còn không đủ ăn, lấy gì nuôi chó? Còn người giàu thì nuôi chó để giữ nhà, lại thường thả chó cho cắn người nghèo, nên người nghèo ghét chó. Vậy nên người Hán chửi chó, giết chó, ăn thịt chó cũng không lấy làm lạ, hơn nữa, người nào đã ăn đều bảo thịt chó rất thơm. Người Hán bảo, lợn có thể giết thịt, cừu có thể giết thịt, vậy sao chó không thể giết thịt? Chúng đều là gia súc đấy thôi. Người Hán ghét chó, giết chó, ăn thịt chó vì người Hán thuộc tộc nông canh, không phải dân du mục, luôn muốn cải tạo thói quen của người khác theo thói quen của mình.
Ông già Pilich và Batu nghe xong hồi lâu không nói gì, cũng không phản cảm về những lời giải thích của Trần Trận. Lát sau ông già mới nói: Con ơi, giá như giữa người Hán và người Mông Cổ có nhiều nhiều một chút những người thông tỏ như con thì hay biết mấy. Caxưmai tỏ vẻ bất bình, nói: Chó ở với người Hán thiệt thòi quá, bao nhiêu cái hay không được dùng. Thói hư tật xấu của chó đều bị người Hán nắm hết. Tôi mà là chó thì tôi không thèm đến ở với người Hán, dù có bị sói ăn thịt, tôi vẫn cứ ở lại thảo nguyên.
Trần Trận lại nói: Lên thảo nguyên em mới biết chó hiểu tính người đến thế, đúng là bạn tốt của người. Chỉ những tộc làm ruộng nghèo khó mới ăn sạch những thứ không nên ăn, thịt chó cũng không tha. Khi nào người Trung Quốc giàu lên, lương thực thừa mứa, khi ấy mới kết bạn với chó, không ghét, không ăn thịt chó nữa. Từ khi lên thảo nguyên, em rất thích chó, một ngày mà không trông thấy con chó của em là em thấy chống chếnh thế nào ấy. Giờ mà kẻ nào thịt trộm chó, em và Dương Khắc quyết sống mái với hắn, nên chó hắn ói ra những thứ đã ăn… Trần Trận không kìm được lời lẽ, xưa nay cậu vẫn theo phương châm "người quân tử nói năng hòa nhã", vậy mà hôm nay lại văng tục!
Caxưmai hỏi dồn: Vậy khi về Bắc Kinh, cậu còn nuôi chó nữa không? Trần Trận cười: Em sẽ yêu chó suốt đời, như nhà ta ấy. Chẳng giấu gì chị, gia đình em gửi cho ít kẹo sữa, em cất dành không dám ăn, ngay cả cho chị và Bayan cũng tiếc, chỉ là để dành cho chó. Cả nhà cụ Pilich cười chảy nước mắt. Batu thụi Trần Trận một quả vào lưng: Cậu Mông Cổ quá nửa rồi đấy!...
Lần nói chuyện ấy cách đây đã hơn nửa năm, nhưng Trần Trận không quên lời hứa.
Bãi săn trở lại im ắng. Những con chó quá mệt hoặc bị thương buồn bã. Vài con quẩn quanh thi thể đồng bọn, khịt mũi đánh hơi, coi như nghi thức chia tay. Một em nhỏ ôm khư khư con chó nhà em đã chết, khi người lớn khuyên can, em òa khóc, những giọt nước mắt rớt trên mình chó bắn xuống đất bột, biến mất. Tiếng khóc của thằng nhỏ vang xa trên thảo nguyên, Trần Trận thấy hai mắt cay xè. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét