Thứ Sáu, tháng 6 22

Tôtem Sói ( Khương Nhung ) Chương 17


Nước Tần vốn là khu vực du mục của Nhung Địch, Thành vương phong người em cùng mẹ Thúc Ngu làm Đường hầu, lấy luật lệ Nhung làm cơ sở (Tả truyện Định công năm thứ tư), có nghĩa là căn cứ vào cách làm của Nhung Đich mà phân phối đất chăn thả, không như Lỗ Vệ tại khu vực nông nghiệp, căn cứ vào phép tắc nhà Chu mà phân phối đất cày. Thúc Ngu thay đổi quyết định của cha, đổi tên nước là Tấn.
- Phạm Văn Lan “Trung Quốc thông sử giản biên” đệ nhất biên

           Trần Trận lấy ra hai thẻo thịt khô, thêm một ít mỡ cừu, nấu cho sói con một nồi cháo đặc. Sức ăn của sói con ngày càng lớn, một chậu đầy cháo thịt chưa no. Trần Trận thở dài, vào lều tranh thủ ngủ một giấc, chuẩn bị tinh thần cho trận chiến đêm nay. Hơn một giờ chiều, cậu tỉnh dậy vì tiếng gọi, vội chạy ra ngoài.
           Trương Kế Nguyên cưỡi con ngựa cao lớn chạy đến bãi đất trống trước cửa lều. Nửa thân trước con ngựa bê bết máu, cà nhắc cà nhót không áp sát được vào chiếc xe bò. Đàn chó ùa tới vây quanh người ngựa, rối rít vẫy đuôi. Trần Trận dụi cặp mắt ngái ngủ, giật mình: Con ngựa Trương Kế Nguyên chở trên lưng một con ngựa choai bị thương. Cậu vội chạy lên giữ hàm thiết cho con ngựa đứng yên. Con ngựa choai đau đớn vật vã, mấy vết thương ở ngực, ở cổ đang chảy máu, nhuốm đỏ yên và thân trước con ngựa lớn. Con ngựa lớn giương mắt khiếp hãi, mũi phun phì phì, một chân trước liên tục gõ móng, còn chân kia cào đất. Trương Kế Nguyên ngồi trên mông ngựa, sau yên, tư thế rất khó xuống, lại sợ con ngựa choai rớt xuống kinh động con ngựa đang cưỡi. Trần Trận giơ tay cầm chân trước con ngựa choai, Trương Kế Nguyên cố rút chân phải ra khỏi bàn đạp rồi thận trọng xuống ngựa, thiếu chút ngã bổ chửng.
           Hai người đứng hai bên nâng con ngựa choai nhẹ nhàng hạ xuống đất. Con ngựa lớn vội quay lại nhìn bằng con mắt thương cảm. Ngưạ choai đã không thể cất đầu lên, mở cặp mắt đen tuyệt đẹp nhìn mọi người cầu cứu. Nó rên rỉ, chân trước chống xuống đất nhưng không đứng lên được nữa. Trần Trận hỏi: Còn cứu được không? Trương Kế Nguyên nói: Batu đã xem xét vết thương, khẳng định không cứu được. Chúng mình đã lâu không có thịt, phải giết khi nó hãy còn sống. Saxưleng cũng cho khênh đến nhà ông Pilich một con bị thương.
           Trần Trận chột dạ. Cậu bê cho Trương Kế Nguyên một chậu nước để cậu ta rửa tay, vội hỏi: Đàn ngựa có chuyện phải không? Thiệt hại có lớn không?
           Trương Kế Nguyên buồn bã nói: Đừng nhắc đến nữa. Đêm qua đàn ngựa của mình và Batu bị cắn chết bốn con, bị thương một con. Đàn ngựa của Saxưleng càng thảm hơn, trong mấy ngày bị năm sáu con. Những đàn khác không biết thế nào, chắc chắn thiệt hại không nhỏ. Các vị lãnh đạo đều xuống các đàn ngựa.
           Trần Trận nói: Đêm qua đàn sói xung quanh đại đội tru suốt đêm. Chúng tụ tập tất cả ở bên này, làm sao đến chỗ đàn ngựa?
           Trương Kế Nguyên nói: Thế mới gọi là chiến thuật bầy đàn, xuất kích toàn diện, bốn phía nở hoa, giương đông kích tây, yểm hộ lẫn nhau, đánh dứ cộng với đánh thật, đánh được thì đánh, không đánh được thì kiềm chế, khiến đối phương đầu đuôi không cứu được nhau, cứu được chỗ nọ mất chỗ kia. Chiêu này của đàn sói còn lợi hại hơn chiến thuật tập trung ưu thế binh lực dứt điểm từng trận. Trương Kế Nguyên rửa tay xong, nói: Làm thịt ngay con ngựa đi, đợi nó chết rồi thì máu đọng trong thịt, ăn không ngon.
           Trần Trần nói: Nghe nói mã quan đầy sói tính quả không ngoa. Cậu bây giờ ra vẻ mã quan rồi đấy, khẩu khí ngày càng lớn, tính cách thì có vẻ như võ sĩ thảo nguyên thời xưa. Trần Trận đưa cho Trương Kế Nguyên con dao Mông Cổ chuôi đồng, bảo: Cậu giết nó đi, con ngựa đẹp như thế mình không dám đụng dao.
           Trương Kế Nguyên nói: Sói giết con ngựa này chứ không phải người, không liên quan gì đến thiện ác của con người. … Được thôi, mình giết cũng chẳng sao, nhưng phải giao hẹn trước: Mình chỉ giết, còn như lột da xẻ thịt các cậu làm tất, chịu không? Trần Trận đồng ý.
           Trương Kế Nguyên tay cầm dao, chân chặn một bên ức con ngựa, đè đầu nó xuống sao cho một mắt nhìn thẳng lên trời theo truyền thống thảo nguyên, rồi thọc một nhát cắt đứt động mạch cảnh, máu tuy không vọt ra, nhưng vẫn chảy. Trương Kế Nguyên nhìn con ngựa giãy chết mà chỉ như một con cừu. Lũ chó thèm rỏ dãi, đuôi ngoáy tít. Lũ chó cún xông lên liếm máu ngựa trên cỏ. Sói con ngửi thấy mùi máu cũng chui ra khỏi hang, giằng xích, mắt loé lên những tia hung dữ.
           Trương Kế Nguyên nói: Cách đây mấy hôm mình đã phải giết một con kém thịt hơn con này. Mình và một số mã quan ăn hai bữa bánh bao nhân thịt ngựa non. Thịt ngựa non cực mềm cực thơm, nhưng ăn vào mùa hạ với dân du mục là chuyện bất đắc dĩ. Bánh bao nhân thịt ngựa non là món ăn nổi tiếng của thảo nguyên hàng ngàn năm nay. Kế Nguyên rửa tay xong, ngồi trên càng xe xem Trần Trận lột da ngựa.
           Trần Trận xẻ những tảng thịt ngựa vừa non vừa béo. Cậu cũng vui, nói: Con ngựa này khá lớn, gần bằng một con cừu đực thiến. Tháng này mình chưa ngửi thấy mùi thịt. Người ta con bảo, mình sắp sửa biến thành sói con thành cừu non, không cho nó ăn thịt, nó sẽ be như cừu cho mà xem.
           Trương Kế Nguyên nói: Con ngựa này sinh sớm nhất đầu năm nay. Bố mẹ to nên nó cũng to. Nếu các cậu thấy ngon, vài hôm nữa mình lại chở đến cho một con. Mùa hè là mùa tang tóc của đàn ngựa, năm nào cũng thế. Mùa này ngựa đẻ con, sói bắt dễ nhất là ngựa con. Đàn ngựa nào cũng bị sói bắt mất một hai con, rất khó tránh. Lúc này, mùa sinh sản đã qua, mỗi đàn ngựa tăng thêm khoảng một trăm bốn năm mươi con ngựa con. Ơlôn cỏ tốt, sữa mẹ đủ, ngựa con lớn nhanh, con nào cũng khoẻ mạnh, hiếu động, ngựa giống và ngựa mẹ quản không nổi.
           Trần Trận dùng rìu lọc ra những chỗ thịt bị sói xé rách ở đầu, ngực và cổ ngựa rồi thái miếng. Sáu con chó đã vây kín xung quanh. Năm con đuôi vẫy như cờ lau gặp gió, riêng con Nhị Lang đuôi dựng đứng như lưỡi lê, đứng xem Trần Trận chia thịt. Nhiều ngày chưa ngửi thấy mùi thịt, sói con cuống quýt chạy quanh, bật ra tiếng “âu âu” của chó.
           Thịt và xương đã chia xong, vẫn ba suất lớn ba suất nhỏ. Trần Trận cho con Nhị Lang nửa cái sọ, một mảng cổ. Nó quẫy đuôi, tha chỗ thịt tới chỗ gầm xe ăn nghiến ngấu. Con Vàng, con Ilưa và ba con cún đều có phần. Mỗi con tha phần của mình đến chỗ bóng râm hoặc trong lều. Trần Trận đợi lũ chó đã đi mới lấy chỗ thịt dành cho sói con thái thành miếng nhỏ bỏ vào chậu của sói được nửa chậu, lấy huyết đọng trong khoang ngực ngựa tưới lên chỗ thịt rồi gọi to: Sói con, ăn cơm nào! Nói rồi đi đến chỗ sói con.
           Cái cổ con sói đã thành chai, ngửi thấy mùi thịt tươi lẫn máu, nó kéo căng xích chẳng khác con bò kéo cỗ xe chở nước leo dốc, rớt dãi lòng thòng. Trần Trận nhanh nhẹn chạy tới chỗ chuồng sói. Con sói vồ lấy chậu thịt ngựa như sói lớn vồ mồi, nhe răng gầm gừ đuôi Trần Trận đi nơi khác. Trần Trận trở lại chỗ lột da con ngựa, tiếp tục xẻ thịt vừa trông chừng con sói. Nó ăn ngấu nghiến, nhưng mắt vẫn canh chừng người và chó, gồng mình lên, chuẩn bị tha những miếng thịt vào trong hang.
           Trần Trận hỏi Trương Kế Nguyên: Mục dân có ăn nội tạng ngựa không? Trương Kế Nguyên nói: Ngựa bị thương vì sói cắn thì không ăn. Trần Trận trước hết moi dạ dày, ruột non ruột già vứt vào đống tro bên bếp, kệ cho lũ chó tranh cướp. Sau đó cậu lấy ra hai cái chậu không, chất đầy tim gan phổi vào rồi để chỗ mát trong lều, phần bữa sau của sói và chó.
           Trần Trận hỏi: Chẳng lẽ mã quan các cậu không có cách đối phó?
           Trương Kế Nguyên nói: Sau hai năm chăn ngựa trên thảo nguyên, mình nhận thấy khâu yếu nhất là đàn ngựa. Một đàn ngựa bốn năm trăm con mà chỉ bố trí hai mã quan, giờ thêm một thanh niên trí thức cũng không đủ. Hai ba người ngày đêm luân phiên mà còn gục nữa là chỉ một người làm sao trông xuể.
           Trần Trận lại hỏi: Vậy vì sao không bố trí thêm mấy mã quan?
           Trương Kế Nguyên nói: Mã quan là “phi công” trên thảo nguyên, thuộc loại công nghệ cao. Đào tạo được một mã quan chính hiệu không dễ, phải mất nhiều thời gian. Không ai dám giao đàn ngựa cho một mã quan bất tài, lơ mơ là một năm mất nửa đàn ngựa. Lại nữa, mã quan quá khổ, quá mệt, quá nguy hiểm. Những đêm mùa đông có bạch mao phong lạnh âm 30-40độ C, dồn ngựa là phải dồn suốt đêm, mặc ba áo da mà ngón chân vẫn bị rụng. Mùa hè, muối có thể hút kiệt máu của  người và ngựa, rất nhiều mã quan chỉ bảy tám năm là giải nghệ, hoặc nghỉ hẳn vì thương tật. Đại đội ta có bốn mã quan là thanh niên trí thức, giờ chỉ còn lại mỗi mình. Mã quan thiếu kinh niên, làm gì có thừa để bổ sung? Đàn ngựa di chuyển nhanh trong đàn, có nhiều ngựa con và ngựa đực thiến, bọn này dát, rất dễ vỡ đàn. Mã quan chỉ thổi nồi cơm trong lều là đàn ngựa bên ngoài đã mất tăm. Lạc mất đàn ngựa, thường phải đi tìm hai ba ngày, cũng là nhịn đói hai ba ngày. Trong hai ba ngày ấy, đàn sói có thể truy sát ngựa con rồi. Lần trước mã quan tổ Bốn ngựa hụt chân bị ngã vỡ đầu, đàn ngựa trong đêm vượt biên, mục trường thông qua đồn biên phòng, mất mười mấy ngày mới đòi được đàn ngựa về, trong thời gian đó đàn ngựa không có người trông, tổn thất càng lớn.
           Trần Trận hỏi: Quan hệ hai nước căng thẳng là thế, mà sao người ta không giữ ngựa lại?
           Trương Kế Nguyên nói: Không đâu. Hai nước đã có hiệp định từ lậu. Chỉ cần báo chính xác thời gian, địa điểm vượt biên, số lượng, nhất là số đầu ngựa giống và màu lông, là người ta cử người đem trả. Bên ta cũng vậy. Nhưng trên đường đi bị sói ăn thịt mất con nào, hai đồn biên phòng không chịu trách nhiệm. Có lần, người ta báo trên 120 con, ta cử người tìm hai ngày chỉ tìm được 90 con. Mã quan nói, quá nửa số con không tìm thấy bị sói ăn thịt.
           Trần Trận chớp thời cơ xoáy vào vấn đề cậu quan tâm: Mình vẫn không hiểu vì sao đàn ngựa cứ thích chạy bạt mạng?
           Trương Kế Nguyên nói: Nguyên nhân thì có nhiều. Trời lạnh quá, chạy cho ấm; mùa xuân cần chạy toát mồ hôi để chong thay lông; mùa hè trốn muỗi, chạy ngược gió; mùa thu muốn ăn cỏ ngon ở bãi chăn cừu, chạy lên tới trước. Nhưng quan trọng nhất là chạy trốn cuộc truy sát của đàn sói, bốn mùa trong năm chạy chí chết. Đàn ngựa tính cơ động cao, không thể đem theo chó. Đêm đến, mã quan không có đàn chó giúp gác đêm, một mình trông nom đàn ngựa dát như cáy sao được? Nếu là đêm không trăng, đàn sói thường tập kích đàn ngựa. Nếu sói không đông, mã quan và ngựa giống có thể bảo vệ được đàn ngựa; nếu sói đông, ngựa vỡ đàn, vỡ trận như núi lở, mã quan và các ngựa giống không bảo vệ nổi.
           Trương Kế Nguyên nói: Giờ đây mình mới hiểu vì sao kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn ngày đi ngàn dặm. Ngựa Mông Cổ ngày nào cũng buộc phải luyện tốc độ, chạy việt dã, luyện sức bền. Mình ở với đàn ngựa thường chứng kiến cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa sói và ngựa, thê thảm lắm. Trong đêm đàn sói truy sát đàn ngựa, tàn ác không thể tả, đuổi đến kỳ cùng, giết không thương tiếc, nhanh như tên bắn, liên tục tác chiến, không cho đàn ngựa xả hơi lấy một phút. Những con ngựa già, ngựa ốm, chạy chậm, ngựa non, ngựa choai, ngựa cái có chửa, hễ rớt lại lập tức bị đàn sói ăn thịt. Cậu chưa nhìn thấy thảm cảnh đàn ngựa chạy tháo thân, con nào cũng sùi bọt mép, toàn thân ướt đẫm. Có con chạy đến sức cùng lực kiệt, ngã xuống tắt thở liền. Con nào chạy nhanh vọt lên trước thì có thể dừng lại một thoáng gặm vài miếng cỏ, đói quá, gặp gì ăn nấy, sậy khô cũng ăn; khát quá, gặp gì uống nấy bất kể nước tù nước bẩn, có phân bò phân cừu đều uống tất. Ngựa Mông Cổ rất dai sức, khả năng tiêu hoá, chống bệnh, chịu rét nóng nhất thế giới. Nhưng chỉ có mã quan biết rằng, những bản lĩnh ấy của ngựa Mông Cổ là do đàn sói dung tốc độ và cái chết huấn luyện cho ngựa.
           Trần Trận nghe say sưa, cậu bê tất cả thịt pha và thịt đã thái vào trong, phơi tấm da ngựa lên nóc lều. Cậu bảo Kế Nguyên: Cậu làm mã quan mới một năm mà đã sắp thành chuyên gia rồi. Những điều cậu nói rất quan trọng. Bên ngoài nóng, vào trong lều đi , cậu thì nói, còn mình thì làm bánh bao nhân thịt. Hai người vào trong lều. Trần Trận bóc hành, nhào bột, nặn nhân, chuẩn bị làm món bánh bao nhân thịt dân du mục thường ăn.
           Trương Kế Nguyên uống một bát trà lạnh, nói: Những ngày này mình và một số mã quan luôn bàn tới chuyện ngựa. Mình nghĩ, chính là thảo nguyên Mông Cổ đã tạo nên loài ngựa Mông Cổ có sức chịu đựng bền bỉ nhất, và cũng tạo nên kỵ binh Hung Nô, Đột Quyết, Mông Cổ hung hãn thiện chiến. Hãn huyết mã, ngựa Ili, ngựa Arập, ngựa sông Đông đều là những loài ngựa nổi tiếng thế giới. Nhưng vì sao kỵ binh khu vực Trung Á, kỵ binh Nga La Tư, kỵ binh Arập, kỵ sĩ châu Âu… đều bị kỵ binh Mông Cổ đánh bại? Kỵ binh Mông Cổ đánh một lèo sang phía tây tới Ba Lan, Hunggari, Áo, tới cửa ngõ Ai Cập. Kỵ binh Hung Nô còn càn quét toàn bộ châu Âu, đánh thẳng tới nước Pháp. Ngựa chiến của dân tộc nào trên thế giới dẻo dai được như thế?
           Trần Trận nói xen vào: Sử chép rằng, thảo nguyên Mông Cổ xưa người ít ngựa nhiều, khi ra trận, một kỵ binh dắt theo bốn năm con ngựa luân phiên cưỡi, ngày đi ngàn dặm. Vì vậy kỵ binh Mông Cổ đã được cơ giới hoá từ thời nguyên thuỷ, chuyên đánh chớp nhoáng. Ngựa nhiều nên có thể lấy ngựa bị thương làm quân lương, đói thì ăn thịt ngựa, khát uống huyết ngựa, không sử dụng hậu cần.
           Trương Kế Nguyên gật đầu cưới: Đúng thế. Còn nhớ cậu có nói, từ Khuyển Nhung, Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết cho đến dân tộc Mông Cổ hiện giờ, tất cả các dân tộc thảo nguyên từng sống và chiến đấu trên thảo nguyên đều biết những bí ẩn và giá trị của sói. Mình ngày càng cảm thấy cậu ấy có lý. Sói thảo nguyên Mông Cổ đã cho người thảo nguyên tính cách ngoan cường trong chiến đấu, trí tuệ trác việt về chiến tranh và ngựa chiến xuất sắc. Ba ưu thế về mặt quân sự đó là bí mật và nguyên nhân gây chấn động thế giới của người thảo nguyên Mông Cổ.
           Trần Trận vừa ra sức nhào bột, vừa nói: Ngựa chiến Mông Cổ thiện chiến là do sói huấn luyện, phát hiện của cậu quan trọng đấy. Mình cứ tưởng totem sói giải quyết tính cách ngoan cường của người thảo nguyên và nguồn gốc của trí tuệ quân sự, không nghĩ rằng sói còn là huấn luyện viên làm nghĩa vụ dạy thú, đào tạo cho dân tộc trên lưng ngựa này những con chiến mã hạng nhất. Có loại chiến mã lợi hại này, tính cách và trí tuệ người Mông Cổ như hổ mọc thêm cánh. Được lắm, một năm làm mã quan của cậu không uống.
           Trương Kế Nguyên cười, nói: Mình cũng bị lây cậu, rất mê sói. Hai năm nay cậu giảng cho mình bao nhiêu kiên thức lịch sử trong sách vở, mình cũng phải cung cấp cho cậu một ít tài liệu sống chứ.
           Trần Trận cũng cười, nói: Một sự trao đổi ngang giá. Tuy nhiên, có một điều mình vẫn chưa hiểu, đàn sói ngoài chuyện truy sát, còn dùng thủ đoạn nào nữa để ăn thịt ngựa con?
           Trương Kế Nguyên nói: Nhiều lắm. Đàn ngựa khi lên đồi cao hoặc một nơi địa hình phức tạp, mình thường rất căng thẳng. Sói ép bụng sát đất mà bò, không cần ngóc đầu lên, mũi và tai nó cho biết con mồi đang ở chỗ nào. Ngựa mẹ thường xuyên gọi khẽ ngựa con, sói căn cứ vào âm thanh phát ra mà đoán ngựa con ở xa hay gần rồi nhích tới, nếu không có ngựa giống ở đấy là nó vồ liền, đầu tiên cắn một phát vào yết hầu, sau đó kéo ngựa con ra chỗ khuất ăn ngấu nghiến. Nếu bị ngựa mẹ hoặc ngựa giống phát hiện, sói bỏ chạy liền. Đàn ngựa khi di chuyển không đem được con ngựa chết đi theo, đợi đàn ngựa đi rồi, sói quay lại ăn. Có con sói đặc biệt ranh ma, biết đánh lừa ngựa con. Nó phát hiện trong đàn có ngựa con nhưng bên cạnh có ngựa mẹ, nó liền nằm rạp xuống bò tới đám cỏ cao, sau đó nó giấu kín mục tiêu lớn là cái thân, còn mục tiêu nhỏ là bốn cái chân, nó thò ra ngoài động đậy khẽ, từ xa tưởng đó là hai cái tai con thỏ hoặc đầu con chuột hôi đang ló ra nghe ngóng, hoặc sinh vật bé bỏng nào khác. Có điều không giống sói hoặc chó. Ngựa con mới chào đời rất tò mò, thấy có sinh vật nào ngọ nguậy chạy đến xem sao. Ngựa mẹ chưa kịp ngăn thì sói đã cắn đứt họng ngựa con rồi.
           Trần Trận nói: Có khi mình cảm thấy sói không phải con vật, mà là quái vật.
           Trương Kế Nguyên nói: Đúng là quái vật! Cậu nghĩ coi, ban ngày đàn ngựa tản ra rất rộng, mã quan dù ở ngay trong đàn ngựa cũng không thể đảm bảo sẽ không xảy ra chuyện. Đêm đến đàn sói càng ngang ngược, trộm được thì trộm, cướp được thì cướp, trộm cắp đều không xong thì tổ chức đánh phá. Các ngựa giống đẩy ngựa cái ngựa con vào giữa rồi đứng ra vòng ngoài dẫm đạp cắn xé đàn sói. Đàn sói bình thường không phá nổi liên hiệp phòng vệ của mười mấy con ngựa giống, không khéo còn bị ngựa giống đá chết hoặc cắn bị thương. Nhưng gặp khi thời tiết xấu và đàn sói thì đang đói, các ngựa giống ngăn không nổi, bầy sói liền phá vỡ đàn ngựa, tiếp tục tàn sát ngựa non. Sói con  trong đàn đã lớn, sức ăn của đàn tăng, chúng bắt không được dê vàng và rái cá cạn, liền quay sang bắt ngựa con trong đàn ngựa.
           Trần Trận hỏi: Vậy mỗi năm đàn ngựa tổn thất bao nhiêu ngựa con?
           Trương Kế Nguyên nghĩ một lát, nói: Đàn ngựa của mình và Batu, năm ngoái đẻ được 110 con, đến mùa hè năm nay chỉ còn lại 40 con, có 70 con bị sói cắn chết hoặc ăn thịt, tổn thất hàng năm 70% được coi là thịt hại ít nhất trong bốn đàn ngựa của đại đội. Tổ chăn nuôi số 4 chỉ còn mười mấy con, thiệt hại một năm trên 80%. Mình hỏi ông Ulichi, tổn thất của toàn bộ mục trường hàng năm tính theo tỉ lẹ phần trăm là bao nhiêu, ông ta bảo tổn thất bình quân khoảng 70%.
           Trần Trận giật mình, nói: Tỉ lệ tử vong của ngựa con cao quá, chẳng trách các mã quan căm thù sói.
           Trương Kế Nguyên nói: Chưa hết, ngựa con lên hai tuổi chưa qua thời kỳ nguy hiểm, vẫn là mục tiêu công kích của sói. Ba tuổi, ngựa non tạm coi là có thể đối phó với sói, nhưng sói đàn hoặc sói đói thì vẫn không thoát. Cậu thấy mã quan chúng mình có vất vả không? Một năm làm việc bán sống bán chết mà chỉ giữ được ba bốn mươi phần trăm, chỉ lơ là một chút là trắng tay, công sức cả một năm đổ xuống sông xuống biển.
           Trần Trận không nói gì, bắt đầu làm vỏ bánh bao.
           Trương Kế Nguyên rửa tay, giúp Trần Trận bao nhân bánh. Cậu nói: Dù khổ đến mấy cũng không thể thiếu sói. Batu bảo, nếu không có sói thì chất lượng đàn ngựa sẽ xuống cấp, chúng sẽ lười đi, béo lên, chạy không nổi. Trên thế giới, ngựa Mông Cổ vốn nhỏ con, nếu không có tốc độ và sức bền thì không bán được tiền, bộ đội kỵ binh sẽ không sử dụng làm ngựa chiến. Còn nữa, nếu không có sói, đàn ngựa sẽ phát triển quá nhanh. Cậu nghĩ coi, một đàn ngựa một năm thêm một trăm mấy chục con ngựa con, nếu phần lớn sống sót thì tỉ lệ tăng trưởng của đàn là hai ba mươi phần trăm, thêm vào đấy số ngựa cái đến tuổi sinh đẻ, tỉ lệ ngựa con còn cao hơn nữa. Vậy là, cứ khoảng ba bốn năm đàn ngựa tăng gấp đôi. Nói chung, ngựa được bốn năm tuổi mới bán, vậy là dưới bốn năm tuổi phải nuôi, mà ngựa là loại gia súc huỷ diệt cỏ, Ulichi bảo, trừ chuột và thỏ, ngựa là kẻ phá hoại đồng cỏ lớn nhất. Ngựa Mông Cổ ăn nhiều, một con ngựa mỗi năm ăn một lượng cỏ bằng vài chục đến hơn một trăm con cừu ăn trong năm. Hiện giờ mục dân chỉ lo ngựa ăn hết cỏ của bò, cừu. Nếu không hạn chế đàn ngựa phát triển thì e rằng chẳng còn mấy năm nữa, bò cừu sẽ không còn cỏ để ăn, thảo nguyên Ơlôn sẽ biến thành sa mạc…
           Trần Trận gõ chiếc chày cán bột xuống mặt thợt, nói: Như vậy là mục dân thảo nguyên lợi dụng sói để thực hiện sinh đẻ có kế hoạch cho đàn ngựa, kiểm soát số đầu ngựa, đồng thời nâng cao hoặc giữ vững chỉ tiêu về chất lượng của đàn ngựa?
           Trương Kế Nguyên nói: Đương nhiên, kỳ thực người thảo nguyên là những cao thủ về vận dụng phép biện chứng của thảo nguyên, còn đặc biệt tinh thông “dạo trung dung” của thảo nguyên. Họ không cực đoan như người Hán, rêu rao nếu gió đông không thổi bạt gió tây, thì gió tây thổi bạt gió đông. Người thảo nguyên rất giỏi cân bằng các mâu thuẫn trong “trong công đôi việc”.
           Trần Trận nói:
           Tuy nhiên, sẽ cân bằng ấy dã man quá. Mùa xuân các mã quan đi đào ổ sói bắt sói con, hễ đào là đào mấy chục ổ, giết một hai trăm con sói con, có điều là không tận diệt; Sang hè, đàn sói trả miếng, giết ngựa con, hễ giết là giết 70-80%, mã quan không cho giết 100%. Cái giá của sự cân bằng là máu chảy thành sông, mà phải dựa vào cuộc chiến đấu không mệt mỏi của mục dân. Sự trung dung này mang tính chiến đấu hơn trung dung của người Hán, gần chân lý hơn.
           Trương Kế Nguyên nói: Hiện nay số cán bộ đến từ khu vực nông nghiệp ra lệnh bừa, những là phát triển số lượng và chỉ có số lượng! Rốt cuộc, chắc chắn là “một việc làm hỏng nhiều việc”, một hành động làm mất nhiều thứ: Hết sói, ngựa Mông Cổ không ai mua, đại thảo nguyên Mông Cổ cát vàng cuồn cuộn, bò cừu chết đói, bọn ta có thể trở về Bắc Kinh…
           Trần Trận nói: Đừng có mà nằm mơ. Bắc Kinh trong lịch sử từng nhiều lần bị kỵ binh thảo nguyên đánh chiếm, nhiều lần trở thành thủ đô của chính quyền dân tộc thảo nguyên. Chỉ kỵ binh thảo nguyên mà Bắc Kinh còn không chống nổi, nói gì đến chống lại “hoạ vàng” (cát lấn).
           Trương Kế Nguyên nói: Chuyện ấy chúng ta không quản, mà có muốn cũng không quản nổi. Hàng triệu nông dân sống bạt mạng, khẩn hoang bạt mạng, mỗi năm dôi ra số người bằng dân số của một tỉnh, đám người này xông lên thảo nguyên, ai cản nổi?
           Trần Trận thở dài: Đúng là không cản nổi, thế mới sốt ruột! Nho gia Trung Quốc về bản chất là sự pha trộn hệ thống tinh thần hoàng đế nông canh với tiểu nông. Hoàng đế là đại phú nông, còn chủ của một gia đình nông dân Trung Quốc là “tiểu hoàng đế” (ông vua con). “luân phiên làm hoàng đế, thì mai đến lượt nhà mình”, “nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền”, kẻ nào không thích ứng làn song nhân mãn của dân số nông canh, kẻ đó sẽ bị “lật thuyền”, rơi vào thảm hoạ. Mảnh đất nông canh chỉ có thể sinh ra vua, không sinh ra nền cộng hoà,  “nước có thể chở thuyên, cũng có thể lật thuyền”, thực tế là “nông canh có thể chở vua, cũng có thể lật vua”, chở đi lật lại, cuối cùng vẫn là vua. Mấy nghìn năm nay, khi dân số khủng hoảng liền nổ ra tạo phản, do giết nhau mà dân số giảm rồi, thay vua rồi, lại tiếp tục sống trong cái vòng luẩn quẩn ấy. Tuy văn minh nông canh được đẩy lên, vua tôi trên dưới đồng lòng lấy nông làm gốc, là lực lượng tiến bộ phát triển theo hình xoắn ốc, nhưng khi đã lên tới đỉnh, lực lượng này cũng đi xuống theo hình xoắn ốc, và như cái máy cắt cỏ, nó cắt sạch mầm mống của quan hệ sản xuất mới…
           Trương Kế Nguyên gật đầu lia lịa. Cậu xếp phân khô, nhen lửa, cho bánh bao vào khay hấp. Hai người ngồi bên bếp mùa hạ, kiên nhẫn đợi bánh chin, chuyện trò càng hào hứng.
           Trần Trận nói: Hôm nay nghe cậu nói, mình mới hiểu vì sao dân tộc sống trên lưng ngựa lại không chọn ngựa làm tôtem, mà lại chọn sói là kẻ thù của ngựa. Mình cũng được đả thông một điều: Cái logic trái khoáy này lại bao hàm sâu sắc logic của thảo nguyên. Vì rằng ngựa Mông Cổ là “học trò” do sói thảo nguyên và người thảo nguyên cùng huấn luyện, mà “học trò” thì làm sao có thể là linh vật và tổ sư để thầy sùng bái? Con sói thảo nguyên thì chưa bao giờ bị người thuần dưỡng. Tính cách và bản lĩnh của sói, hàng nghìn năm nay con người vẫn chưa học được. Sói thực sự thống soái thảo nguyên, đứng trên tầm cao mà điều phối các mối quan hệ chồng chéo lên thảo nguyên…
           Trương Kế Nguyên nói: Mình quả thực lấy làm tiếc cho Khuyển Nhung và Hung Nô. Họ là những dân tộc ưu tú. Sùng bái tôtem sói là do học xác lập từ xa xưa truyện lại cho đến tận bây giờ, và chắc chắn còn tiếp tục.
           Trần Trận nói: Tinh thần của linh vật sói sẽ lâu bền hơn nhiều tinh thần Nho gia. Nó được tiếp tục một cách tự nhiên và tràn đầy sức sống. Trong hệ tư tưởng Nho gia, chẳng hạn như “tam cương ngũ thường”, một bộ phận trong cương lĩnh này đã lỗi thời, cổ hủ, còn tinh thần tôtem sói thì tràn trề sức sống, vẫn tiếp tục ở các dân tộc tiên tiến nhất hiện nay. Tôtem sói của dân tộc thảo nguyên Mông Cổ, nên là di sản tinh thần quý báu của toàn nhân loại. Nếu người Trung Quốc có thể cắt bỏ phần hủ lậu về mặt tinh thần dân tộc của Nho gia, và cấy vào chỗ trống đó cái mầm tinh thần tôtem sói để nó kết hợp với truyền thống hoà bình chủ nghĩa, coi trọng giáo dục và nghiền ngẫm sách của Nho gia dựng lại tính cách quốc dân, thì Trung Quốc còn có hi vọng. Chỉ tiếc tôtem sói là hệ thống thuần tinh thần mà về mặt văn tự không ghi chép được nhiều. Nhược điểm chí mạng của dân tộc thảo nguyên là lạc hậu về văn hoá văn tự, mà các nhà nho, nhà sử học Trung Quốc hàng ngàn năm quan hệ với dân tộc thảo nguyên cũng chưa từng ghi chép về văn hoá tôtem. Mình nghĩ rằng, những nho sinh đó đã cố ý cắt xén những điều ghi chép trong sử sách. Cho nên bây giờ chúng ta tìm tư liệu về tôtem sói trong sử sách Trung Quốc chẳng khác mò kim đấy biển. Mấy trăm quyển sách ta mang đến đây cũng không đủ dùng, lần sau về thăm gia đình, phải kiếm thêm ít nữa.
           Trương Kế Nguyên bỏ thêm mấy cục phân bò khô, nói: Mình có người an hem họ giữ một chức nhỏ ở xí nghiệp sản xuất giấy, nhà xưởng chất đầy sách tịch thu khi lục soát các nhà, công nhân thường xé lấy giấy ở những quyển đóng bằng chỉ, cuộn thuốc hút. Người thích sách có thể đem thuốc lá đến đổi lấy sách kinh điển. Mình làm mã quan lương tháng 70tệ được coi là cao, mua thuốc lá đổi lấy sách thì để mình. Nhưng mà từ khi lập nước đến nay, chính phủ ra sức tuyên truyền diệt sói, “anh hùng” diệt sói trên thảo nguyên sắp trở thành anh hùng của thảo nguyên mới. Lớp trẻ Mông Cổ, nhất là những mã quan, dương quan đã học xong tiểu học hoặc cấp hai, gần như không biết tôtem sói là gì. Cậu xem chúng ta nghiên cứu những cái này phỏng có ích gì?
           Trần Trận đang mở nắp vung, ngoảnh lại nói: Nghiên cứu khoa học thực sự thì không hỏi dùng để làm gì, chỉ là tò mò hứng thú. Với lại, làm rõ được vấn đề xưa kia mình không hiểu, sao lại bảo là vô dụng?
           Bánh bao nhân thịt ngựa được lấy ra khỏi lồng hấp, bốc hơi ngùn ngụt. Trần Trận luôn đổi tay cầm cho cái bánh, đợi bớt nóng cắn một miếng. Ngon. Vừa thơm vừa mềm. Từ sau nếu có ngựa bị thương, cậu nhớ cho bọn mình một con.
           Trương Kế Nguyên nói: Ba lều khác đều có yêu cầu, mình sẽ đưa lần lượt.
           Trần Trận nói: Vậy cậu lấy lại cho mình những chỗ bị sói cắn, mình phải nuôi sói con.
           Hai người ăn một mạch hết một típ bánh. Trần Trận rất thoải mái. Cậu đứng dậy nói: Mình không nhớ đây là lần thứ mấy ăn thức ăn của sói. Nào, ta chơi trò “ném sói bánh bao”!
           Đợi bánh bao nguội, Trần Trận và Trương Kế Nguyên mỗi người cầm một chiếc, phấn khởi bước ra ngoài đi về phía con sói. Trần Trận gọi: Sói con ăn cơm! Hai chiếc bánh được đặt nhẹ lên đầu và lên lưng con sói. Nó sợ cụp đuôi “oắc” lên một tiếng chui luôn xuống hang, bánh bao bị Ilưa và con Vàng cướp mất. Hai người ngớ ra một lúc mới phản ứng. Trần Trận cười nói: Chúng mình ngốc quá, sói con từ nhỏ tới giờ chưa ăn bánh bao. Ném sói bằng bánh bao, vô tích sự. Con sói vốn tính đa nghi, mình nuôi nó mà nó chẳng tin mình. Chắc hản nó coi bánh bao nhân thịt là hòn đá. Mấy hôm nay, lũ trẻ Mông Cổ đi qua có đứa lấy đất ném nó.
           Trương Kế Nguyên vừa cười vừa đi đến bên miệng hố, nói: Con sói hay thật, mình phải bế nó lên và thơm nó một cái. Trần Trận nói: Sói con chỉ quen với mình và Dương Khắc, ngay cả Cao Kiện Trung cũng không được bế, đụng vào là cắn. Cậu nên thôi thì hơn.
           Trương Kế Nguyên cúi xuống gần miệng hang, gọi: Sói, đừng quên là tao đem thịt ngựa đến cho mày đấy nhá. Ăn no rồi, không nhận tao phải không? Trương Kế Nguyên còn gọi mấy tiếng nữa nhưng sói con chỉ nhe răng nhe lợi mà không lên. Cậu ta vừa lôi sợi xích, sói con đã vọt lên há miệng cắn khiến Trương Kế Nguyên ngã bổ chửng. Trần Trận ôm lấy cổ con vật mới đè được nó xuống và luôn tay xoa đầu nó. Trương Kế Nguyên đứng dậy phủi bụi đất trên người, vừa cười vừa nói: Được lắm, sói hoang cũng chỉ dữ đến thế. Lần sau mình sẽ đem cho nó ít thịt ngựa.
           Trần Trận kể lại cho Trương Kế Nguyên  nghe tiến hú của sói đã gây ra bao nhiêu phiền toái. Trương Kế Nguyên đổi cuốn “Sói biển” lấy cuốn “Thế giới thông sử”. Cậu nói với Trần Trận: Theo kinh nghiệm của mình, đêm nay sói sẽ đến. Phải hết sức cẩn thận, đừng để sói cướp mất sói con. Phải tinh, sói sợ nhất thuốc nổ, nếu nó tấn công đàn cừu thì đốt pháo nhị thanh. Lần trước mình đem về cho các cậu một bó, kiểm tra lại đi, bị ẩm thì nổ không đanh.
           Trần Trận nói: Dương Khắc dùng giấy dầu gói lại, cất phía trên cùng của hòm gỗ, chắc chắn không ẩm. Hôm trước đụng độ với đám lưu manh cậu ta đốt ba quả, nổ rung trời đất!
           Trương Kế Nguyên vội vã phóng về chỗ đàn ngựa.
Thần Quang nói rằng:… Vũ Đế (Hán Vũ Đế) thích thu phục tứ di, nên kẻ sĩ dũng cảm không sợ chết đầy triều, mở rộng đất dai, tất thảy như ý…
 
Thần Quang nói rằng: Hiểu Vũ (Hán Vũ Đế)… không khác Tần Thuỷ Hoàng là mấy.
- Tư Mã Quang “Tư trị thông giám. Hán Thế Tổn Hiếu Vũ Hoàng Đế hạ chi hạ”
 
Cơm tối xong, Bao Thuận Quý đi từ nhà ông Pilich đến căn lều Trần Trận. Ông ta hào phóng cho Trần Trận chiếc đèn pin lớn, lắp sáu viên pin, vũ khí và công cụ của người đủ tư cách mã quan mới được dùng. Bao Thuận Quý đặc cách giao nhiệm vụ: Nếu đàn sói xông tới bên đàn cừu thì chiếu đèn pin lớn, không được đốt pháo, mà xua chó nhà các cậu vây chặt sói. Tôi đã thông báo cho mấy nhà gần đây, hễ thấy các cậu bật đèn pin, mọi người dẫn chó tới bao vây sói.
Bao Thuận Quý vừa cười vừa nói: Không ngờ các cậu nuôi con sói mà lại tác dụng tốt đến thế. Nếu như lần này dụ được sói mẹ và đàn sói, giết được bảy tám con, thì coi như thắng lớn. Chỉ giết được vài con sói mẹ cũng coi như thắng. Mục dân đều bảo đêm nay nhất định sói sẽ về, họ yêu cầu tôi bắn chết sói con, lột da treo lên, còn xác thì quẳng ra sườn dốc, để sói mẹ không còn vấn vương gì nữa. Tôi không đồng ý, bảo họ, tôi không sợ sói đến đây, dùng sói con để dụ sói mẹ, ai lại làm như thế? Lần này thì sói mắc lừa rôi, các cậu phải hết sức chú ý, loại đèn đại này chiếu vào mắt người chỉ vài phút là mù, sói lại càng mù. Tuy vậy các cậu cũng phải chuẩn bị gậy gộc, lỡ ra…
Trần  Trận, Dương Khắc nhất nhất nghe theo. Bao Thuận Quý vội đến nhà khác bố trí nhiệm vụ, nghiêm cấm nổ súng kinh động đàn sói, không để sung cướp cò bị thương người, gia súc, rồi lại vội vã ra đi.
Cuộc chiến lấy sói dụ sói chưa từng có trên thảo nguyên tuy hậu quả chưa thể đoán trước, nhưng nó đã kích thích cuộc sống du mục khô khan. Vài người đặc biệt căm thù sói. Các mã quan dương quan ngưu quan đã lâu không đến nhà, nay chạy tới hỏi han tình hình và làm quen địa hình. Họ vô cùng thích thú trước cách săn xưa này chưa hề chơi. Một dương quan nói: Sói mẹ bảo vệ sói con vào loại nhất. Chúng biết sói con ở đây, dứt khoát đến cướp. Tốt nhất mỗi đêm đến vài sói mẹ, như vậy đêm nào cũng được bắt sói. Một mã quan nói: Bị lần này, lần sau sói không dám đến nữa. Một dương quan khác nói: Nếu chúng đến cả đàn thì nên thế nào? Mã quan nói: Sói nhiều nhưng không nhiều bằng chó. Nếu quả không ổn thì cả người cả chó cùng xông lên, đèn nến hò hét, nổ súng đốt pháo.
Sau khi mọi người đi cả, Trần Trận và Dương Khắc trong lòng nặng nề, ngồi xuống tấm thảm cách sói con không xa. Hai người rất băn khoăn. Dương Khắc nói, nếu lần dụ này thành công, thì sói tổn thất lớn quá. Bắt toàn bộ sói con nhà người ta chưa đủ, lại còn lợi dụng tình mẫu tử, giết cả sói mẹ. Rồi chúng mình sẽ hối hận suốt đời.
Trần Trận cúi mặt nói: Bây giờ mình bắt đầu hoài nghi chính mình. Mình nuôi sói con đúng hay sai? Để nuôi một con, phải đập vào đẩy sinh mạng của sáu đứa con! Từ nay không biết phải chết bao nhiêu con nữa. Nhưng mình đã không còn đường rút. Thực nghiệm khoa học có khi chẳng khác anh đồ tể. Bố Pilich chủ trì thảo nguyên này không dễ, ông già bị nhiều sức ép quá. Một mặt phải chịu nỗi đau vì gia súc bị tàn sát; mặt khác hứng chịu nỗi khổ vì phải giết nhiều sói, hai cảnh chịu đựng đều đẫm máu. Nhưng vì thảo nguyên và người thảo nguyên, ông đành bấm bụng mà cân bằng các mối quan hệ. Mình rất mong Tăngcơli báo cho sói mẹ đêm nay đừng đến, đêm mai cũng đừng đến, đừng có tự chui đầu vào lưới, cho mình thêm ít thời gian nuôi con sói lớn lên, nhất định chúng mình sẽ đem trả cho mẹ nó…
Gần nửa đêm, ông Pilich lại đến lần nữa, kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của Trần Trận và Dương Khắc. Ông già ngồi bên hai người lặng lẽ hút thuốc. Hút hết hai tẩu thuốc, ông gia an ủi hai cậu học sinh và cũng là an ủi chính mình, nói nhỏ: Những ngày này muỗi đã về rồi mà đàn ngựa còn mắc cạn, không giết một ít sói, đàn ngựa sẽ chẳng còn được mấy con, Tăngcơli cũng không bằng lòng.
Dương Khắc hỏi: Bố, theo bố thì đêm nay sói mẹ có về không?
Ông già nói: Khó nói lắm, dùng sói nuôi để nhử sói mẹ, tồi ngần này tuổi đầu chưa thấy ai sử dụng, ngay cả nghe nói cũng không. Chủ nhiệm Qúy bảo mọi người lợi dụng sói con để đánh vây, ngựa con chết nhiều quá, không để ông ấy và mấy mã quan giết ít sói đâu có được?
Ông già đi, bãi chăn im ắng, chỉ còn nghe tiếng cừu nhai lại rào rạo, đôi khi nghe tiếng cừu lắc tai đuổi muỗi. Thảo nguyên đã xuất hiện đợt muỗi đầu tiên, nhưng đó chỉ là đám muỗi trinh sát, chưa phải những tập đoàn muỗi khủng khiếp như máy bay ném bom.
Hai người trò chuyện một lúc rồi ngủ luân phiên. Trần Trận ngủ trước. Dương Khắc nhìn đồng hồ dạ quang trên cổ tay, cầm chắc đèn pin, cảnh giác nghe ngóng tứ phía, đeo lên cổ chiếc túi đựng nửa bó phái nhị thanh để đề phòng bất trắc.
                                                                               *
                                                                          *         *
            Sói con sau khi ăn no thịt ngựa, trời chưa tối đã kéo căng xích ra ngồi tận mép chuồng góc tây bắc, vươn dài cổ, dỏng hai tai, không động cựa, để hết tâm trí vào tiếng động mà nó mong đợi. Mắt nảy lửa, cái nhìn như mũi khoan, sói con như đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện mong ngóng người thân.
            Quá nửa đêm, đúng giờ tiếng tru nổi lên, đàn sói lại phát động cuộc chiến tiêu hao sức khỏe. Tiếng sói tru vang rền từ ba phía núi, khí thế hung hãn. Đàn chó của đại đội lập tức phản kích, sủa râm ran. Đàn sói lập tức im bặt, nhưng tiếng chó sủa vừa dừng, tiếng tru lại nổi lên, khí thế càng dữ dội hơn. Vài hiệp như vậy qua đi, đàn chó đã sủa một đêm hiểu rằng sói chỉ hư trương thanh thế nên chúng tiết kiệm đạn dược, hạ thấp âm lượng, giảm bớt số lần phản kích bằng âm thanh.
            Trần  Trận vội cùng Dương Khắc tới gần sói con, quan sát nó dưới ánh sao mờ tỏ. Trong chuồng, tiếng xích sắt reng reng, con sói sốt ruột đi quanh chuồng. Nó định bắt chước tiếng sói tru thì bị đàn chó phá đám, còn thường xuyên bị tiếng sủa rất gần của Nhị Lang, Vàng và Ilưa át mất. Sói con bấn quá lại bật ra những tiếng “âu âu” quái gở khiến nó tức lộn ruột, lắc đầu. Mấy tháng nay sớm hôm ở chung với lũ chó, nó không chống nổi sức ngấm của tiếng sủa, không cho nó trở về với tiếng tru của sói.
            Nhị Lang dẫn đầu lũ chó tuần tra mạn tây bắc đàn cừu, vừa đi và sủa không dứt, hình như đã đánh hơi được kẻ địch. Lát sau, phía tây bắc lại có tiếng tru, nhưng lần này hình như gần Trần Trận hơn. Các nhóm chó khác đã sủa thưa thớt, còn đàn sói hình như chậm rãi tập trung vào sườn dốc phía tây bắc, nơi có lều của Trần Trận. Trần Trận môi run run, nói khẽ: Bộ phận chủ lực của sói tập trung về phía sói con, sức nhớ của sói thì khỏi bàn.
            Dương Khắc cầm chắc chiếc đèn pin đại. Cậu cũng hơi sợ. Sờ bó pháo nhị thanh, cậu nói: Nếu bọn sói xông vào, mình không làm được tất mọi việc, cậu sẽ phát lệnh báo động bằng đèn pin, còn mình ném “lựu đạn” vào đàn sói.
            Chó ngừng sủa, Trần Trận nói khẽ: Mau ngồi xuống mà nghe sói tru.
            Không có tiếng sủa gây nhiễu, sói con có thể lắng nghe tiếng tru của sói hoang. Nó ngồi thẳng lên, dỏng tai, ngậm miệng để nghe cho rõ. Sói con thông mình, nó không há miệng tru bừa, mà trước tiên luyện sức nghe để tiếp nhận một số âm thanh vọng lại từ đêm tối rồi mới bắt chước tiếng tru.
            Tiếng tru của bầy sói vẫn nhằm vào sói con. Nó hối hả phân biệt, tiếng tru phía bắc, nó quay về bắc; tiếng tru phía tây, nó quay về tây; tru cả ba phía, nó lồng lộn tại chỗ.
            Trần Trận lắng nghe, cậu nhận thấy tiếng sói tru đêm nay có khác với đêm trước. Đêm trước tiếng tru đơn điệu, chỉ có tính uy hiếp, còn tiếng tru đêm nay biến hoá nhiều vẻ, tiếng cao tiếng thấp, trong đó hình như có ý hỏi han, thăm dò, thậm chí có tiếng gọi con của sói mẹ. Trần Trận nghe mà rợn người.
            Những chuyện về sói mẹ bảo vệ con trên thảo nguyên lưu truyền rất rộng. Để dạy con bắt mồi, sói mẹ mạo hiểm bắt sống cừu non đem về; để bảo vệ an toàn, sói mẹ đêm đêm chuyển sói con từ hang này sang hang khác; để nuôi con, sói mẹ ăn no đến mức tưởng như vỡ bụng, khi về nôn hết ra cho con ăn; vì lợi ích của cộng đồng dòng họ, những con sói mẹ mất con, chấp thuận con của chị em cô dì bú sữa. Ông gia Pilich thường kể: Một ông lão thợ săn vùng Ơlôn có lần đã gặp ba con sói cái cùng nuôi một ổ sói con. Đó là vào mùa xuân, ông lão đi đào bắt sói con, phát hiện trên sườn núi ấm áp, ba con sói mẹ nằm thành hình cánh cung, mỗi con sói mẹ ba con bú tí. Thế là ông lão không còn bụng dạ nào đi đào bắt sói nữa. Người già từng nói, mã quan Mông Cổ là thợ săn không bao giờ giết sách cả ổ sói con, những con sói con sống sót có rất nhiều mẹ nuôi mẹ đẻ, thừa sữa ăn không hết, cơ địa tốt, bộ khung tốt, vì vậy sói Mông Cổ to lớn nhất, thông minh nhất thế giới. Trần Trận còn định nói, tình mẫu tử của sói cái còn vượt cả phạm vi dòng tộc, dùng sữa nuôi trẻ mồ côi của loài người- kẻ thù đáng sợ nhất của sói. Đằng sau sự tàn bạo, còn có lòng bác ái rất cảm động của sói.
            Vậy mà giờ đây, những con sói mẹ mất con xót xa rầu rĩ, hi vọng dù rất mỏng manh, đến tìm con. Chúng thừa biết đây là Ơlôn vùng đất lều trại tập trung nhất, người chó súng ống nhiều nhất, nhưng chúng vẫn mạo hiểm áp sát. Trong khoảnh khắc, Trần Trận những muốn cởi xích cho sói con, cho nó về với các mẹ sói của nó để mẹ con được đoàn tụ. Nhưng cậu không dám, cậu e sói con khi ra khỏi phạm vi lều trại của cậu thì chó của các gia đình lập tức xé xác nó vì tưởng là sói hoang. Cậu cũng không dám đêm nó đi thật xa rồi phóng sinh, nếu vậy, cậu sẽ rơi vào giữa đàn sói cái nguy hiểm…
            Sói con cực kỳ nhạy bén với tiếng tru khác lạ đêm nay. Nó không biết ứng xử ra sao với tiếng tru từ ba phương sáu hướng. Rõ rang nó không hiểu những tiếng tru kỳ quặc, biến hoá phức tạp ý nghĩa như thế nào, càng không biết hồi âm ra sao. Đàn sói không nhận được hồi âm, tiếng tru thưa dần. Có lẽ chúng không hiểu vì sao đêm qua nghe rõ ràng là tiếng sói mà đêm nay thì không thấy gì cả.
            Chính là lúc này sói con sửa lại tư thế, chuẩn bị cất tiếng. Nó cúi xuống phát ra “u…u…u…” là âm chủ lực của tiếng tru, rồi vận hơi, từ từ ngẩng đầu lên, âm “u” chuyển sang âm “âu”, “u…u…u…âu…âu…!”, cuối cùng sói con đã phát ra được tiếng sói tru mặc dù chưa thật đúng tiêu chuẩn. Tiếng tru từ ba phía im bặt, hình như đàn sói ngớ ra, cái tiếng “u…âu…” kia nghĩa là gì, đàn sói không hiểu, đành nán đợi. Lát sau, trong đàn sói có tiếng tru hình như của một con sói choai, bắt chước hoàn toàn tiếng tru của sói con bên cạnh lều. Trần Trận thấy sói con của cậu cũng ngớ ra, không hiểu tiếng tru đó có ý hỏi gì? Nó như bị câm điếc vừa chữa khỏi, không hiểu người khác nói gì, cũng không nói ra được mình định nói gì. Trời tối quá, giơ tay làm hiệu cũng không nhìn thấy.
            Sói con đợi một lúc không thấy có tiếng trả lời bèn tự mình phát huy, nó cúi xuống vận hơi, ngửng lên nhả ra một tiếng dài, lần này thì nó đã khôi phục được âm lượng cao nhất của đêm qua: “u…âu…!”, tiếng “âu” dài mênh mông như tiếng trẻ con còn hơi sữa, như tiếng kêu, tiếng chuông nhỏ, tiếng tù và ngắn, tiếng ngân chưa dứt, dư âm kéo dài. Sói con rất bằng lòng tiếng tru của nó, không đợi có tiếng tru trả lời, nó tru tiếp cho đã nghiện, do hồi hộp, vĩ âm biến thành âm cụt. Đầu nó ngẩng càng cao, mũi chĩa thẳng lên trời, hoan hỉ và phấn chấn, nó tru hết lượt này đến lượt khác, càng tru càng thành thạo, càng tiêu chuẩn, tư thế hoàn toàn giống con sói trưởng thành. Khi tru, nó vo miệng hình chữ O tròn như chiếc lò xo, vận hơi bụng, từ từ bình ổn kéo dài tiếng ngân, dài mãi dài mãi cho tới lúc cạn bầu tâm sự. Sau đó, nó hít một hơi thật dài rồi tiếp tục tru. Sói con vui mừng hớn hở kéo dài tiếng tru “quỉ khóc sói gào”, say sưa khoe mẽ giọng ca với chất giọng thật đáng nể: trẻ trung, mượt mà, thuần khiết, uyển chuyển mà tròn vành rõ chữ, trong khi du dương nó tự biến điệu một cách ngẫu hứng, thêm vào đó nhiều luyến láy.
            Hai người như mê đi, Dương Khắc bất giác khẽ mô phỏng tiếng tru của sói con.
            Trần Trận nói nhỏ với Dương Khắc: Nghe sói tru mình phát hiện ra dân ca Mông Cổ vì sao ngân dài và run rẩy như thế. Dân ca Mông Cổ hoàn toàn khác dân ca Hán về phong cách. Mình cho rằng, phong cách này được truyền lại từ thời Hung Nô sùng bái tôtem sói. Sử có ghi: “Hung Nô truyện trong Nguỵ thư chép rằng, thời thượng cổ Thuyền Vu có hai con gái xinh đẹp, cô em lấy chồng là sói, sinh rất nhiều con trai con gái. Nguyên văn còn chép: Người em là vợ sói, sinh con. Sau sinh sôi thành một nước. Do vậy người nước đó thích kéo dài tiếng ca như sói tru…”.
            Dương Khắc vội hỏi: Trong “Hung Nô truyện” có chép như vậy à? Cậu đọc kỹ hơn mình. Đã ghi chép như thế thì đúng là nguồn gốc dân ca Mông Cổ rồi!
            Trần Trận nói: Không sai. “Hung Nô truyện” mình đọc không biết bao nhiêu lần, những đoạn hay mình đều học thuộc. Người theo nghiệp sách vở đến Mông Cổ không đọc “Hung Nô truyện” sao được? Trên thảo nguyên, tôtem sói có mặt khắp nơi, tôtem của một dân tộc, là đối tượng sùng bái và mô phỏng của dân tộc ấy. Dân tộc sùng bái tôtem sói đem hết tâm sức ra học tập mô phỏng tất cả những gì của sói, thí dụ kỹ xảo săn đuổi, thông tin bằng âm thanh, nghệ thuật quân sự, chiến lược chiến thuật, tính cách chiến đấu, tinh thần đồng đội, tính tổ chức, tính kỷ luật, tính bền bỉ, tính cạnh tranh “giỏi làm vua”, phục tùng quyền lực, yêu gia tộc và tộc quần, thờ Tăngcơli (Trời) vân vân. Cho nên mình cho rằng, âm nhạc và dân ca Mông Cổ ảnh hưởng tiếng tru của sói là tất nhiên, thậm chí còn cố ý bắt chước là khác. Tất cả những con vật khác trên thảo nguyên như bò cừu ngựa chó dê vàng chuột cáo v.v… tiếng kêu không kéo dài như sói, chỉ bài ca của sói và dân ca Mông Cổ mới thế. Cậu thử nghe lại lần nữa xem có giống không?
            Dương Khắc gật đầu lia lịa, nói: Rất giống, càng nghe càng giống, cậu không nói ra thì mình không suy ngẫm theo hướng này. Hồ Tùng Hoa hát “Ngợi ca” Mông Cổ, nhất là đoạn mở đầu có bao nhiêu âm luyến bao nhiêu âm đổ, và tiếng ngân dài, hẳn hoi là mô phỏng tiếng trú của sói. Hai năm nay nghe rất nhiều dân ca Mông Cổ, bài nào cũng có âm rung, có đổ hồi luyến láy, tiếc rằng không có máy ghi âm ghi lại để so với tiếng tru của sói, chắc chắn sẽ tìm ra mối quan hệ giữa chúng với nhau.
            Trần Trận nói: Người Hán chúng mình cũng thích nghe dân ca Mông Cổ, du dương, bao la như thảo nguyên, vậy mà ít người biết dân ca Mông Cổ bắt nguồn từ sói. Có điều, người Mông ở Nội Mông không chịu thừa nhận dân ca của họ diễn biến từ sói sang. Mình có hỏi vài mục dân, người bảo không phải, người ậm ự. Cũng chẳng nên trách, giờ đây “chiếc đèn đỏ” có câu hát “lệnh từ nhà giam truyền ra như tiếng sói gào” thì ai còn dám nhận dân ca Mông Cổ bắt nguồn từ sói. Nếu không, bài “Ngợi ca” kính chúc lãnh tụ vĩ đại sống lâu muôn tuổi đáng cho vào tù, còn ca sĩ thể hiện bài hát đó phải quy là phản cách mạng. Nhưng sự thực là sự thực, đây không phải một xảo thuật.
            Trần Trận thở dài, nói: Thật sự truyền đi tinh thần đại thảo nguyên Mông Cổ, chỉ có tiếng tru của sói và dân ca Mông Cổ.
                                                             *
                                                       *          *
            Nhị Lang dẫn chó lớn chó bé của hai nhà chõ mõm về phía tây bắc sủa một hồi. Đợi tiếng sủa dừng, sói con lại tru, dần dà sói con không bị nhiễu tiếng sủa của chó, nó phát ra tiếng sói tiêu chuẩn. Sói con tru năm sáu bận bỗng dừng lại, chạy tới bên thùng nước uống mấy ngụm cho trơn giọng rồi hướng về phía tây bắc tru tiếp mấy lần rồi dừng lại dỏng tai đợi hồi âm. Rất lâu, sau một hồi lao xao tiếng sói, đột nhiên từ đỉnh dốc phía tây vọng lại tiếng tru mạnh mẽ trầm đục, oai nghiêm, chỉ có thể là của sói chúa hay sói đầu đàn, khẩu khí như ra lệnh, vĩ thanh rất dài, khi dừng dứt khoát. Qua tiếng tru, Trần Trận cảm nhận được đó là một con sói chúa cường tráng, ngực nở vai rộng, âm vực rất sâu. Hai người sợ đến nỗi không thốt lên lời.
            Sói con cũng ngớ ra, nhưng lập tức vui mừng nhảy cẫng. Nó chuẩn bị tư thế cúi xuống vận hơi nhưng không biết trả lời thế nào, đành bắt chước cái tiếng tru ấy. Tiếng tru của sói con tuy non trẻ, nhưng nó bắt chước y chang âm đuôi và khẩu khí. Sói con tru liền mấy bận, nhưng tiếng tru oai nghiêm kia không xuất hiện nữa.
            Trần Trận ra sức phán đoàn ý nghĩa và hiệu quả của cuộc đối thoại này. Cậu nghĩ, có thể sói chúa hỏi sói con: Cháu là con nhà ai, trả lời mau! Nhưng câu trả lời của sói con lặp lại câu hỏi của sói chúa: Là con nhà ai, trả lời mau! Lại còn cái khẩu khí của bậc bề trên hỏi kẻ dưới! Con sói chúa chắc hẳn nổi trận lôi đình, hơn nữa lại càng nghi ngờ sói con. Hỏi và trả lời như thế, hiệu quả tất nhiên tồi tệ.
            Rõ ràng là sói con không hiểu đẳng cấp địa vị, càng không hiểu lễ tiết giữa các thế hệ trong đàn sói. Sói con dám nhại câu hỏi của sói chúa trước mặt đám sói, chắc chắn bị lũ sói cho là xúc phạm đến cái oai của sói chúa, một hành vi vô lễ đối với bậc tiền bối. Lũ sói lao xao có vẻ phẫn nộ lại có vẻ bàn ra tán vào. Lát sau, đàn sói không lên tiếng nữa, nhưng sói con thì lại hào hứng. Nó không hiểu câu hỏi của sói chúa và sự phẫn nộ của đàn sói, nhưng nó cảm thấy những bóng đen trong đêm đã chú ý tới sự có mặt của nó, muốn liên hệ với nó. Sói con rất muốn tiếp tục giao lưu nhưng không biết bày tỏ ý kiến, nó cuống lên, ra sức lặp lại câu hỏi ban nãy: Là con nhà ai, trả lời mau, trả lời mau!
            Tất cả những con sói lớn chắc chắn vò đầu bứt tai, không hiểu ra sao. Sói thảo nguyên Mông Cổ sinh sống trên thảo nguyên hàng vạn năm nay, chưa bao giờ gặp một sói con như thế nay. Nó rõ rang trong khu lều trại của người, ở bên chó và cừu, hì hì hà hà, dám lên mặt ta đây, nói năng càn rỡ. Vậy rốt cuộc nó có phải là sói không? Nếu là sói thì quan hệ giữa nó với người, chó- thiên dịch của loài sói, như thế nào? Nghe giọng sói con, biết nó rất muốn đối thoại với bầy sói, nhưng hình như nó sống no đủ, người và chó không khinh rẻ nó, tiếng nó trầm, có vẻ no nê. Được người và chó đối tốt như thế, nó còn muốn gì nữa?
            Trần Trận nhìn những cặp mắt lấp lánh lân tinh trong đêm tối mênh mông, cố sức dịch địa vị của cậu vào bầy sói để suy xét phán đoán. Lúc này chắc đàn sói xanh mắt nhìn mắt xanh, càng cảm thấy sói con đáng ngờ.
            Sói con ngừng tru, rất muốn có tiếng trả lời từ bóng đêm. Nó đứng ngồi không yên, chốc chốc lại cào đất, sốt ruột chờ đợi.
            Trần Trận thấy hiệu quả như thế vừa thất vọng vừa lo, con sói chúa cường tráng oai vệ có thể là cha đẻ của sói con, nhưng sói con từ nhỏ đã mất cha không biết cách làm nũng và giao lưu với bố. Trần Trận e rằng sói con một lần này nữa có thể là mất vĩnh viễn tình yêu của bố nó. Vậy con sói cô độc từ nay thuộc về loài người, thuộc về cậu và Dương Khắc?
            Bỗng có tiếng tru dài vẳng tới, hinh như của một con sói mẹ. Tiếng tru thân thiết êm tai, dịu dàng bi ai, mang nỗi đau của tình mẹ, tiếng ngân run rẩy và dài lê thê, có lẽ đây là ngôn ngữ của sói, đầy ý tứ và tình cảm sâu nặng. Trần Trận đoán câu này có nghĩa là: Con ơi, con còn nhớ mẹ không? Mẹ là mẹ của con đây. Mẹ nhớ con lắm, mẹ tìm con khổ quá, cuối cùng thì mẹ đã nghe thấy tiếng nói của con… Cục cưng của mẹ, mau về với mẹ…Mọi người đều nhớ con âu…âu…!
            Tiếng âu…âu…thốt ra tự đáy long, lời ca đau thương nhất trên đời của người mẹ xuyên qua năm tháng, rung chuyển thảo nguyên ngàn đời hoang vu. Trần Trận không cầm được nước mắt. Dương Khắc cũng nước mắt vòng quanh.
            Sói con xúc động sâu sắc trước những câu ngập ngừng dứt nối, theo bản năng, nó cảm thấy đây là “người thân” của nó. Sói con phát cuồng, nó giằng cái xích mạnh hơn khi cướp thức ăn. Cái xích xiết chặt cổ khiến nó thè lưỡi thở phì phò. Con sói mẹ lại tru thê thảm, lát sau, có nhiều sói mẹ tham gia đội ngũ gọi con. Thảo nguyên vang lên những tiếng ca bi thương. Tiếng ca bi thương của sói mẹ, nguyên bản có hình thức khóc trong tiếng tru, biểu hiện trong ngoài là một, lâm li vô cùng. Đêm nay, tiếng tru thê lương của sói trên thảo nguyên Ơlôn suốt đêm không dứt, rung động trời đất, quỉ khóc thần sầu, hớp hồn phách con người. Lũ sói mẹ hàng vạn năm nay mất con trai con gái trút hết nỗi oán hờn chứa chất vào đêm đen trên thảo nguyên đau thương.
            Trần Trận đứng im như trời trồng, cảm thấy nổi gia khắp người. Dương Khắc mắt ướt nhoè bước tới gần sói con nắm lấy đai cổ, vỗ nhẹ lên đầu lên lưng con vật, an ủi nó.
            Tiếng tru thê thảm của lũ sói mẹ dần lắng, sói con né tránh Dương Khắc, nó sợ lần nữa mất tiếng tru. Chĩa về hướng tây bắc, miễn cưỡng ngửa mặt lên trời, bất chấp tất cả, nó dựa theo ký ức phát đi những lời của sói. Trần Trận chột dạ, nói nhỏ: Hỏng rồi! Cậu và Dương Khắc đều cảm thấy rõ rệt tiếng tru của sói con khác xa tiếng tru của sói mẹ. Sói con đặt trọng tâm vào nỗi ai oán, hơn nữa, nó chưa biết vận đủ hơi, không tru dài được như sói mẹ. Kết quả, sau những câu đầu Ngô minh Sở, tiếng tru của đàn sói lập tức tắt ngấm, thảo nguyên im lặng như tờ.
            Trần Trận thất vọng hoàn toàn. Cậu đoán rằng, sói con biến những lời bi thương của sói mẹ thành châm biếm, mô phỏng thành chọc quê, đau thương thành kể khổ, thậm chí còn cài những tiếng vừa học từ sói chúa vào. Câu mô phỏng lời sói mẹ có thể biến thành: Con trai ơi… trả lại nỗi nhớ cho con, con là ai…? Mẹ về bên con, trả lời mau! Âu…âu…!
            Cũng có thể sói con không nói được những câu như Trần Trận đã tưởng tượng ra. Dù sao thì bắt một con sói vừa sinh ra đã phải xa thế giới loài sói, lớn lên bên người và chó, trả lời những câu phức tạp như thế thì khó cho nó quá.
            Trần Trận nhìn về phía con dốc giờ đây đã im ắng. Cậu đoán lũ sói mẹ chắc  tức điên, cái thằng lưu manh dám biến nỗi đau của sói mẹ thành trò cười! Có thể cả đàn sói đang phẫn nộ. Thằng khốn chắc không phải đồng loạ mà đàn sói đang tìm càng không phải người anh em mà chúng quyết chết giành lại. Vốn đa nghi, đàn sói nhất định nghi ngờ tư cách của sói con. Rất nổi tiếng về dụ mồi sa bẫy, các sói chúa sói đầu đàn có thể phán đoán sói con là con mồi do người xếp đặt, có sức dẫn dụ và sát thương, nhưng đã bị lộ tẩy là cái ”bẫy sói”.
            Đàn sói cũng có thể nghi ngờ sói con là thằng con hoang lý lịch bất minh. Thảo nguyên chưa có tiền lệ người nuôi sói. Mùa xuân hàng năm, những thằng cha hai chân biết cưỡi ngựa, thường đem chó sục sạo các hang, hun khói các ổ sói. Sói mẹ tinh mắt có thể ở chỗ nấp nhìn thấy họ giết sói con bằng cách tung chúng lên trời. Sói mẹ trở về, có thể ngửi thấy đây đó toàn mùi máu tươi. Một số sói mẹ còn tìm thấy thi thể sói con chôn dưới đất trong khu lều trại cũ, da bị lột. Ghét sói đến như thế thì người không nuôi sói con!
            Đàn sói có thể phán đoán, con vật tru tiếng sói nayd không phải sói, mà là cho. Trên thảo nguyên Ơlôn, đàn sói thường thấy nhưng người đeo súng mặc quần áo màu xanh lá cây đi trên đường cát gần biên giới, họ bao giờ cũng đem theo bốn năm con chó lớn tai dựng như tai sói, có mấy con biết tru tiếng sói. Những con chó này nguy hiểm hơn chó bản địa nhiều, hàng năm một số sói bị chúng cắn chết. Thằng oắt biết tru tiếng sói này ắt hẳn là con của chó tai sói.
Trần Trận đoán tiếp: Có lẽ đàn sói cho rằng sói con trăm phần trăm là sói. Vì hàng ngày đi ra ngoài tới một chỗ tương đối xa, sói con ỉa trên sườn dốc. Có thể sói mẹ đã ngửi thấy mùi đích thực của sói con. Nhưng, dù sói thông minh tuyệt đỉnh vẫn không thể vượt qua một khúc ngoặt, đó là sự trở ngại về ngôn ngữ. Đàn sói cho rằng, đã là sói thì phải như những con sói khác trong đàn, không những phải biết tru, biết nói lời sói, mà còn biết đối thoại với sói mẹ. Vậy thì con sói không biết nói tiếng sói này chắc là một tên phản bội đã triệt để thay lòng đổi dạ, hoàn toàn đầu hàng con người. Vì sao hắn không chạy đến với bầy sói, mà lại cứ muốn bày sói đến chỗ hắn?
Trên thảo nguyên hàng vạn năm nay, mỗi con sói đều là một chiến sĩ kiên cường, thà chết trong chiến đấu chứ không đầu hàng, vậy vì sao lại nảy nòi ra cái thằng khốn khiếp này? Vậy gia đình nào đã thuần phục con sói, bắt nó ngoan ngoãn vâng lời, ắt hẳn có ma thuật. Hoặc giả, sói thảo nguyên có thể phân biệt người Hán với người Mông, vì vậy đàn sói cho rằng có một con sói chưa hề tiếp xúc với ai,  đã lẳng lặng tiến vào thảo nguyên. Khu lều trại này nguy hiểm quá.
Trần Trận chìm trong suy nghĩ.
Thảo nguyên im lặng chỉ mỗi con sói mang xích là đang tru, đến nỗi rát cổ bỏng họng, gần như bắn máu tươi. Nhưng những câu tru của nó càng dài càng hỗn loạn càng lủng củng. Đàn sói không có bất cứ sự thăm dò hoặc cố gắng nào, không thèm nhìn nhận nỗi đau và lời kêu cứu của sói con. Khổ thân sói con, nó không còn dịp nào khác học tiếng sói tru, học ngôn ngữ sói. Cuộc đối thoại giữa nó và đán sói thất bại thảm hại.
Trần Trận cảm thấy đàn sói giải vây nhanh như chạy trốn trận đại dịch, rời khỏi địa điểm xuất phát trận công kích.
Con dốc tồi mò, im ắn như bãi thiên tang Xacanôla phía núi bắc.
 
                                                                        *
                                                                     *     *
            Trần Trận và Dương Khắc không hề buồn ngủ, thảo luận suốt đêm, không ai thuyết phục được ai, kết quả vừa rồi là sự giải thích có sức thuyết phục.
            Cho tới lúc rạng sang, sói con mới ngừng tru, tuyệt vọng đến mức như đã chết, nó nằm dài trên mặt đất, mắt đăm đăm nhìn về phía con dốc tây bắc. Nó nhướng mắt nhìn hình dáng thật sự của những “bóng đen”. Mù tan dần, con dốc vẫn là con dốc ngày nào nó cũng nhìn thấy, chẳng có “bóng đen” nào hết, chẳng còn âm thanh nào hết, chẳng còn đồng loại mà nó mong  gặp. Nó mệt bã, như một đứa con côi bị bỏ rơi hoàn toàn, chìm trong tuyệt vọng. Trần Trận vuốt nhẹ đầu nó, thông cảm nỗi đau sâu sắc của nó, nỗi đau, vuột mất cơ hội trở lại đàn, lấy lại tự do.
            Toàn thể tổ sản xuất và đại đội một đêm kinh khủng nhưng không gặp nguy, lều trại không bị đánh lén hoặc tấn công, đàn cừu đàn bò yên ổn không suy suyển, một kết cục không ngờ. Mục dân bàn tán sôi nổi. Mọi người không hiểu vì sao sói mẹ thường lăn xả cứu con, nay không đánh mà rút? Tất cả các ông già đều lắc đầu. Đây là sự việc Trần Trận chưa hề gặp trong suốt mười năm sống trên thảo nguyên.
            Bao Thuận Quý và các mã quan chủ trương dụ đàn sói bị mựng hụt. Nhưng trời vừa rạng, Bao Thuận Quý đã chạy đến lều Trần Trận khen ngợi hết lời, rằng học sinh Bắc Kinh dám nghĩ dám làm, đánh một trận rất đẹp “không đánh mà thắng”, và tặng luôn cái đèn pin đại cho các cậu, còn bảo sẽ phổ biến kinh nghiệm của các cậu cho toàn thể mục trường. Trần Trận và Dương Khắc thở ra nhẹ nhõm, chí ít các cậu có thể tiếp tục nuôi sói con.
            Lúc uống trà sang, Ulichi và ông già Pilich bước vào lều Trần Trận.
            Ông Ulich suốt đêm không chợp mắt, nhưng sắc mặt vẫn tốt. Thật là một đêm đáng sợ. Lúc đầu nghe tiếng tru tôi rất căng thẳng, khoảng ba chục con sói bao vây lều cậu từ ba phía, khoảng cách gần nhất là hơn trăm mét. Mọi người cứ tưởng chúng sẽ phá tan lều các cậu, nguy hiểm quá.
            Ông Pilich nói: Nếu không biết các cậu có pháo nhị thanh thì tôi đã huy động toàn bộ chó của tổ đến chỗ các cậu rồi.
            Trần Trận hỏi: Bố, vì sao sói không tấn công đàn cừu? Cũng không cướp lại sói con?
            Ông già uống một hớp trà, rít một hơi thuốc, nói: Tôi nghĩ rằng sói con chưa nói đúng hoàn toàn tiếng nói của sói, cứ cách năm ba tiếng lại xen một tiếng chó, nhất định làm cho đàn sói rối tinh.
            Trần Trận, Dương Khắc cười ồ. Dương Khắc nói: Tăngcơli thật thông minh!
            Trần Trận lại hỏi Ulichi: Ông U, vì sao đàn sói không ra tay hả ông?
            Ông Ulichi nghĩ một lúc, nói: Tôi chưa từng nghe, chưa từng thấy chuyện như thế này bao giờ. Tôi nghĩ, có đến tám phần mười là đàn sói coi sói con là dân ngụ cư. Sói thảo nguyên mỗi đàn đều có bản địa riêng, không có địa bàn thì sớm muộn bật bãi, không trụ lại được. Đàn sói coi địa bàn quan trọng hơn sinh mạng. Có thể sói con nói thứ tiếng mà sói bản địa không hiểu. Sói bản địa không vì một con sói con từ nơi khác đến mà liều mạng. Đêm qua sói chúa cũng về. Sói chúa rất khó lừa. Chắc chắn là nó rõ mọi chuyện, vì nó rất hiểu “dùng binh được phép gian trá”, thấy sói con và người gần nhau như thế, nó đã sinh nghi. Sói chúa thấy chắc đến bảy phần mười mới mạo hiểm. Xưa nay nó chưa hề làm việc gì mà nó chưa hiểu. Sói chúa thương nhất sói cái, sợ sói cái mắc bẫy nên đến trực tiếp giám sát, thấy vô lý, nó dẫn đàn sói cái bỏ đi.
            Trần Trận gật đầu lia lịa.
            Trần Trận và Dương Khắc tiễn hai ông già ra về. Sói con bị khủng hoảng tinh thần, ủ rũ nằm dài, mõm kê trên hai chân trước, hai mắt đờ đẫn như qua một đêm toàn ác mộng, đến giờ vẫn chưa tỉnh hẳn.
            Ông Pilich trông thấy sói con liền dừng lại, nói: Khổ thân sói con! Đàn sói không nhận nó, bố mẹ cũng không nhận ra, cứ xiếng xích như thế này sống sao nổi? Người Hán các cậu lên thảo nguyên làm đảo lộn hết mọi quy củ. Con sói thông minh hoạt bát là thế mà xích như thằng tù, như nô lệ, tôi thương quá! Sói rất kiên trì, cậu cứ đấy mà xem, sớm muộn nó sẽ bỏ chạy. Cậu ngày ngày cho ăn cừu non cũng không giữ nổi trai tim nó.
            Đêm thứ ba và thứ tư không nghe tiếng sói tru, chỉ có tiếng tru non nớt thảm thương của sói con vang vang trên thảo nguyên, hồi âm vọng lại từ trong khe núi, dưới thung lũng, nhưng không hề có tiếng tru đáp lại của đàn sói. Một tuần sau, sói con vật vờ như kẻ mộng du, tiếng tru thưa dần.
            Sau đó một thời gian, đàn cừu của Trần Trận và Dương Khắc và cả bò cừu của tổ Hai và hai tổ sản xuất gần đấy không còn bị đàn sói tập kích trong đêm. Phụ nữ của các gia đình gác đêm vui vẻ bảo Trần Trận, Dương Khắc, là đêm nào họ cũng ngủ đẫy giấc, giờ vắt sữa mới dậy.
            Những ngày này mục dân nói chuyên nuôi sói với Trần Trận, giọng đã dịu đi nhiều, nhưng vẫn không một ai chủ trương sang năm sẽ nuôi một con sói con để doạ đàn sói. Mấy ông già tổ Bốn bảo nhau, cứ để các cậu ấy nuôi, đợi khi sói lớn, tính hoang dã mạnh lên, xem các cậu đối phó cách nào?
Lý Bạch mang dòng máu Đột Quyết trong người, có thể chứng thực điều này qua tên của con trai con gái ông. Con trai ông tên “Tần Lê”. Hán ngữ không giải thích được từ này nghĩa là gì. Thực ra, đây là dịch âm tiếng Đột Quyết, có nghĩa là “sói”. Sói là tôtem của người Đột Quyết, đặt tên “Tần Lê” cũng như người Hán đặt tên là “Long” (Rồng). Con gái Lý Bạch tên là “Minh nguyệt nô”. Hiện nay tộc Duy Ngô Nhi nhiều cô gái tên “A Y Nô Nhi”, “A Y” nghĩa là vắng trăng, “Nô Nhi” nghĩa là ánh sáng, nguyệt là dịch ý, nô là dịch âm. Còn như cặp mắt Lý Bạch chính là đặc trưng mắt người Đột Quyết…
- Mạnh Trì Bắc “Văn hoá thảo nguyên và lịch sử nhân loại”

            Được Trương Kế Nguyên đôi lúc đem thịt ngựa đến, thời gian này sói con đủ thịt ăn. Nhưng Trần Trận nghĩ tới sói con trong đàn sói có bao nhiêu là sói mẹ chăm sóc, cậu muốn cho sói con của cậu ăn ngon hơn, nhiều hơn, cho đi dạo nhiều hơn, thời gian vận động nhiều hơn. Nhưng trước mắt thịt ngựa chỉ còn một bữa cho sói, còn lũ chó thì đã đứt bữa. Trần Trận lo quá.
            Hôm trước nghe Cao Kiện Trung nói, trên dốc tây nam có một con bò mộng bị chết vì mưa đá. Sáng sớm hôm sau, Trần Trận đem theo con dao Mông Cổ và một chiếc tải lên chỗ con bò chết nhưng đã muộn, con bò chỉ còn lại cái sỏ và bộ xương sống mà ngay cả sói lớn cũng không nhai nổi. Đàn sói ăn sạch không để lại tí thịt nào dù là thịt vụn. Trần Trận ngồi bên quan sát tỉ mỉ bộ xương, thấy những kẽ xương đều có vết răng sói con. Sói lớn ăn miếng lớn, sói con răng nhỏ ăn miếng nhỏ, phân công hợp tác, con bò to như thế mà ăn sạch không còn một mẩu, nhặng xanh tức tối vo ve một hồi rồi bay đi. Ông già ngưu quan tổ Ba cũng đến, hình như con bò chỉ còn lại cái sỏ này là bò của ông. Ông nói với Trần Trận: Đàn sói không dám đến bắt cừu nữa,
Tăngcơli giết một con bò cho chúng ăn. Cậu nghĩ coi, không sớm không muộn, đúng chiều tối mới chết, đám dân công định sang hôm sau lấy về ăn nhưng không kịp. Anh bạn trẻ, quy củ trên thảo nguyên là do trời định, phá quy củ đó sẽ bị trừng phạt. Nét mặt đăm đăm, ông lên ngựa bỏ đi.
            Trần Trận nghĩ, nhiều ông già luôn miệng nói quy củ, có thể đó là quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên do trời xanh, tức vũ trụ xếp đặt, vậy cậu trong điều kiện du mục nguyên thuỷ nuôi một con sói, hẳn là vi phạm phương thức sản xuất du mục. Sói con đã gây phiền phức mới cho thảo nguyên… Trần Trận trở về tay không, dọc đường suy nghĩ vẩn vơ. Cậu ngẩng nhìn trời, bầu trời như cái vòm lá trùm lên bốn phương. Trời xanh xanh, đồng cỏ mênh mông, gió thổi rạp cỏ không thấy sói. Trên thảo nguyên, đàn sói như những hồn ma, đến không thấy hình, đi không thấy bóng; thường nghe thấy tiếng, nhìn thấy hậu quả, mà không thấy mặt, khiến mọi người đều cảm thấy vô cùng bí ẩn. Càng lạ càng tò mò, càng muốn hiểu biết tường tận về sói. Từ khi nuôi sói con, thực sự ôm con sói bằng xương bằng thịt, ôm tôtem trong tay, qua bao gian nan vất vả, đương đầu với bao nỗi hiểm nguy, cậu đã muốn thôi mà không được, làm sao có thể dễ dàng bỏ dở?
            Trần Trận chạy đến lán dân công, mua nửa túi kê với giá cao. Cậu chỉ có thể tăng tỉ lệ lương thực cháo thịt, tranh thủ lần giết cừu sau, mới có thể chăm lo đến lũ chó. Trần Trận vào nhà định chợp mắt mộc lúc, bỗng ba con cún trong nhà sủa ầm lên vui mừng chạy về phía tây. Cậu chạy theo ra cửa, thấy Nhị Lang, Vàng và Ilưa từ phía núi chạy về. Nhị Lang và Vàng ngậm trong miệng con mồi không nhỏ. Con Vàng và Ilưa không chịu nổi bữa đói bữa no, theo Nhị Lang lên núi kiếm cái ăn. Xem ra hôm nay chúng kiếm ăn được, bụng tròn căng, và bắt đầu nghĩ đến gia đình.
            Cậu vội chạy ra đón. Ba con cún giành con mồi trong miệng chó lớn. Nhị Lang đặt con mồi xuống đất gạt đám cún ra rồi ngoạm con mồi chạy về nhà. Trần Trận mắt sáng lên, con mồi trong miệng Nhị Lang và Vàng đều là rái cá cạn, con Ilưa cũng ngậm con chuột hoa dài hơn thước, đầu to bằng củ cải lớn. Trần Trận lần đầu tiên thấy chó nhà mình săn được mồi đem về. Cậu vui vẻ chạy ra đón lấy con mồi. Con Vàng và Ilưa muốn báo công, đặt con mồi xuống chân chủ rồi chạy quanh hết vòng này đến vòng khác, đuôi vẫy rối rít. Con Vàng còn biểu diễn một động tác vồ mồi mà Trần Trận chưa thấy bao giờ, chân trước và cổ gần như chạm con rái cá, có ý khoe chính nó vồ được. Con rái cá hở bụng lô ra hàng vú hồng hồng căng sữa. Nó là con rái cá mẹ đang thời kỳ cho con bú. Trần Trận vỗ đầu hai con chó, khen: Giỏi lắm! Giỏi lắm!
            Nhưng Nhị Lang không chịu nhả con mồi ra. Nó chạy vòng qua Trần Trận ra chỗ sói con. Thấy con mồi vừa to vừa béo, Trần Trận chạy theo túm đuôi Nhị Lang kéo lại, giằng lấy con mồi từ miệng nó. Nhị Lang không giận, còn vẫy đuôi với cậu. Trần Trận cầm chân sau nhấc lên, con rái cá đực nặng dễ đến sáu bảy cân, lông bóng mượt, béo chắc, sang thu mới tích mỡ. Trần Trận định bụng dành con này cho người, đã lâu mấy anh em chưa được miếng thịt nào vào bụng.
            Trần Trận tay trái xách con rái cá đực, tay phải xách con rái cá cái và con chuột hoa, vui vẻ bước vào trong nhà. Ba con cún chạy theo sau, vừa chạy vừa đùa dỡn. Trần Trận bỏ con rái cá đực vào trong lều, đóng cửa lại. Lũ chó cún chưa được ăn rái cá bao giờ, hết ngửi lại hít, chúng chưa biết xé thịt ăn.
            Trần Trận quyết định cho ba con cún ăn con rái cá mẹ, con chuột hoa thì cho sói con, cho nó nếm loại thịt mà họ hàng nhà nó thích nhất, và cũng cho nó tập xé thịt ăn.
            Rái cá mùa hạ lông không có tuyết, bán không được tiền, trạm không thu mua. Vậy là Trần Trận dùng dao Mông Cổ chia đều con rái cá làm bốn phần, ba phân cho ba con cún, một phần để lại cho bữa sau của con sói. Trần Trận đem ba phần chia cho ba con cún. Trông thấy máu lẫn thịt, lũ chó cún biết phải ăn như thế nào. Không tranh giành nhau, chúng nằm xuống bên cạnh phần thịt, ngoạm từng miếng lớn. Ba con chó lớn vui cười, chúng bằng lòng về cách chia thịt rất công bằng của Trần Trận. Cách chia này, cậu học trong “Tiếng gọi nơi hoang dã” của Giắc Lơnđơn. Cuốn truyện này từ lúc cho mượn đã chuyền tay trong hai đại đội, không thu hồi được nữa.
            Ba con chó lớn no cành hông. Lập quân công thì phải khen thưởng kịp thời. Đay là quy định truyền thống xưa nay ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài, và cũng đã thành nếp ở Mông Cổ. Trần Trận vào trong lều lấy ra bốn miếng kẹo sữa khao thưởng mấy con chó lớn. Trước tiên cậu thưởng cho con Nhị Lang hai miếng. Nhị Lang ngậm ở miệng nhưng chưa ăn, liếc nhìn con Vàng và con Ilưa, khi thấy hai con kia mỗi con chỉ được một miếng, nó hỉ hả xé giấy bóc kẹo ra ăn, nhai côm cốp. Con Vàng và con Ilưa được thưởng ít hơn một miếng, nhưng không có ý kiến gì, lập tức bóc giấy gói ra ăn. Trần Trận hơi nghi, có lẽ hai con mồi không phải chúng bắt, mà vẫn là Nhị Lang, chúng chỉ đem về giúp.
            Sói con đã đánh hơi thấy mùi máu. Nó đứng trên hai chân sau phưỡn cái bụng lông thưa thớt, hai chân trước cào như điên. Trần Trận cố ý không nhìn sói con, vì sợi xích thít cổ sói con quá chặt.  Đến khi lũ chó ăn xong, cậu mới xử lý con chuột đồng. Họ chuột trên thảo nguyên rất nhiều loài, thường thấy có chuột, chuột hoa, và chuột đồng. Nơi nào trên thảo nguyên Mông Cổ cũng có chuột. Bên ngoài căn lều khoảng năm sáu mét là có hang chuột, lũ chuột đứng bên miệng hang kêu chít chít. Có khi căn lều dựng ngay trên một hang chuột, lũ chuột lập tức chuyển từ ăn cỏ sang ăn tạp, ăn vụng lương thực, sữa và thịt, ỉa đái trong túi đựng thức ăn, thậm chí chui vào trong hòm gặm sách vở. Khi chuyển nhà, người Mông Cổ mới thấy trong những chiếc ủng da hoặc giầy vải có ổ chuột con đỏ hỏn trông phát khiếp. Mục dân và thanh niên trí thức ghét cay ghét đắng chuột thảo nguyên, Trần Trận và Dương Khắc căm thù chuột đến tận xương tuỷ vì chúng cắn nát của hai cậu quyển sách kinh điển.
            Chuột hoa chỉ lớn bằng con sóc Bắc Kinh, đuôi nhỏ, chúng có mắt to như sóc, bộ lông màu nâu có những chấm xám, đuôi như chiếc bàn chải đánh răng.
            Nghe ông già Pilich kể lại, thời xưa, chuột hoa làm bia cho trẻ em Mông Cổ tập bắn bằng cung tên loại nhỏ.
            Chuột hoa ranh mãnh, chạy cực nhanh và chỗ nào cũng có hang của nó. Tên bay chậm, nó chui luôn vào hang. Hàng ngày trẻ em Mông Cổ phải bắn đủ số lượng bố mẹ quy định mới được về nhà ăn cơm. Nhưng bắn chuột là trò chơi vui thích của trẻ em Mông Cổ, đồng cỏ trở thành sân chơi của chúng. Chúng thường chơi mải mê quên cả ăn. Lớn lên chút nữa, chúng tập cưỡi ngựa và bắn chuột bằng cây cung lớn hơn. Năm xưa một trong những đại tướng của Thành Cát Tư Hãn, một đại thiện xạ Mông Cổ là đại tướng Triêcbê nổi tiếng trong chiến tranh với Nga La Tư, trưởng thành từ cách luyện tập này. Triêcbê có thể trên mình ngựa đang phi bắn trúng cái đầu bé tí của chuột hoa cách hơn trăm bước chân. Người già bảo, người Mông Cổ dựa vào tài cưỡi ngựa bắn cung giỏi nhất thiên hạ để bảo vệ đồng cỏ, mà tiễn pháp được rèn từ tập bắn những con vật sống nhỏ nhất, linh hoạt nhất. Nếu trưởng thành từ giai đoạn bắn chuột, sẽ bách phát bách trúng. Dê vàng, cáo, sói, quân địch, chỉ một phát bắn trúng chỗ hiểm. Ngựa của người Hán không tốt, chỉ có thể dùng để bắn bia, làm sao có bản lĩnh như kỵ xạ Mông Cổ. Đụng nhau trên chiến trường, kỵ binh Mông Cổ chỉ bắn ba loạt tên là hạ gục gần nửa quân địch.
            Người già còn nói: Người Mông Cổ dùng chuột cho trẻ con tập bắn cung, là học từ sói. Sói mẹ dạy sói con bắt mồi bắt đầu từ dẫn sói con đi bắt chuột, vừa vui vừa rèn luyện bản lĩnh, vừa no bụng. Sói bắt chuột, giảm đựoc nạn chuột trên thảo nguyên.
            Thời xưa, hàng năm có bao nhiêu trẻ con và sói con vui vẻ đùa với chuột, bắt chuột, bắn chuột? Đã đào tạo ra bao nhiêu chiến binh giỏi, sói giỏi? Có bao nhiêu chuột bị giết? Bảo vệ được bao nhiêu đồng cỏ? Trần Trận thường thán phục người Mông Cổ có bao nhiêu là học viện quân sự trên thảo nguyên, có những huấn luyện viên tuyệt diệu là sói. Người Mông Cổ không chỉ tin theo “thiên thú nhân thảo hợp nhất” (trời thú người cỏ bốn trong một), sâu sắc và giá trị hơn nhiều “thiên nhất hợp phú” của người Hoa Hạ. Ngay cả loài chuột vốn là kẻ phá hoại vẫn có một giá trị không thể thay thế trên thảo nguyên.
                                                                     *
                                                                *        *
            Trần Trận xách đuôi con chuột đồng lên xem. Khi chăn cừu, cậu từng trông thấy chuột đực lớn, nhưng chưa bao giờ trông thấy con chuột dài hơn thước, to bằng cái phích nước. Loại chuột to như thế chỉ có ở những bãi cỏ rậm trong núi. Cậu tin thịt chuột vừa béo vừa mềm, món ăn khoái khẩu của sói con và sói lớn thảo nguyên. Cậu tưởng tượng sói con ngửi thấy mùi máu, lập tức vồ luôn con chuột, ăn ngấu nghiến chẳng khác ăn thịt ngựa.
            Trần Trận cầm đuôi con chuột, máu rỉ ra từ mũi con chuột rớt xuống đất. Cậu đứng bên vành ngoài cùng của cái chuồng, gọi to: Sói con ăn cơm!
            Sói con mắt đỏ ngầu. Nó chưa bao giờ trông thấy con vật này, nhưng ngửi mùi chắc là món ngon. Sói con liên tục nhảy lên đớp, Trần Trận cũng liên tục nâng tầm cao con chuột. Sói con chỉ nhìn con mồi, không nhìn Trần Trận, còn cậu thì kiên trì bắt nó phải nhìn cậu một cái rồi mới cho ăn. Nhưng Trần Trận nhận thấy hình như nguyện vọng này của cậu không đạt: Sói con sau khi nhin thấy con mồi, thái độ của nó khác hẳn ngày thường, hoàn toàn là một con thú hoang dã, mặt mày bặm trợn, nhe nanh múa vuốt, miệng ngoác hết cỡ, bốn vuốt giương ra, răng lợi bộc lộ hoàn toàn. Bộ dạng của sói con khiến cậu sởn tóc gáy, đu đưa mấy cái nữa thấy nó vẫn không them nhìn mình, cậu đành ném con chuột cho nó và ngồi xổm bên cạnh, xem nó xé con mồi ăn ngấu nghiến.
            Thế nhưng, hàng loạt động tác của sói con sau khi tiếp nhận con mồi hoàn toàn ngoài dự kiến, khiến Trần Trận suốt đời không quên và không hiểu nổi.
            Sói con ngoạm con chuột nhưng lập tức nhả xuống đất rồi lùi lại cách một mét, sợ sệt ngó nghiêng dễ đến ba phút, rồi như có vẻ yên tâm, nó chậm rãi tiến lại phía bên trái con chuột, dừng một thoáng, trước tiên quì chân trước bên phải, tiếp theo quì chân trước bên trái, sau đó nó chạm lưng bên phải vào con chuột rồi lăn mấy vòng. Rất nhanh, nó vùng dậy rũ sạch cát trên người rồi chạy sang phía bên phải con chuột, trươc tiên quì chân trước bên trái, tiếp theo quì chân trước bên phải, sau đó chạm lưng bên trái vào con chuột rồi lăn mấy vòng bên cạnh.
            Trần Trận tò mò đứng xem, không hiểu sói con định làm gì, cũng không biết sói con học ở đâu những động tác ấy, lại càng không hiểu động tác chạm lưng rồi lăn mấy vòng có ý nghĩa gì. Động tác này y như một chú bé lần đầu tiên được ăn tự do, cầm con gà quay trong tay, muốn ăn nhưng lại tiếc, lật đi lật lại không thôi.
            Sau khi hoàn thành những động tác phức tạp, sói con rùng mình rũ bụi, sửa lại xích cho thuận, lại chạy sang bên trái con chuột, bắt đầu lặp lại những động tác cũ, trước trước sau sau, ba trái ba phải, hoàn thành ba đợt chạm- lăn bên cạnh con mồi.
            Trần Trận sững người. Cậu nghĩ, trước đây đem thịt cho sói con ăn, thậm chí thịt tươi lẫn máu hẳn hoi, sói con không có những động tác này, sao bây giờ trông thấy con chuột mới có. Phải chăng đây là một phương thức mừng công khi bắt được mồi? Hay một nghi thức trước khi ăn? Thái độ thành kính của sói con y hệt các tín đồ khi nhận bánh thánh.
            Trần Trận nghĩ đau cả đầu rồi chợt hiểu, lần này cậu đem thức ăn đến cho sói con khác với những lần trước về bản chất. Những lần trước thức ăn ngon đến mấy nhưng là xương vụn thịt miếng, còn “thức ăn” lần này là con mồi nguyên vẹn thuần tự nhiên thuần hoang dã, một con mồi hoàn chỉnh như bò, cừu, ngựa, có đầu có đuôi, có thân có móng, có lông, có da, thậm chí là “vật sống” như nó. Có thể loài sói coi con mồi hoàn chỉnh mới cao quý, mới là “vật sống”, mới đáng hưởng dụng. Còn như xương vụn thịt miếng không còn nguyên vẹn hình hài, dù ngon đến mấy cũng chỉ là cơm thừa canh cặn của người ta, ăn những của đó còn đâu là quý phái? Phải chăng nhân loại coi bò quay cả con, cừu quay cả con, vịt quay cả con là thực phẩm cao quý, phải có nghi thức long trọng trước khi ăn, là ảnh hưởng từ sói? Hoặc loài người loài sói có những sở kiến giống nhau?
            Đây là lần đầu tiên sói con đứng trước món ăn nguyên vẹn cao quý, tính cao quý thiên bẩm của nó lộ ra, nên mới có  những hành vi, nghi thức thành kính như thế.
            Nhưng sói con chưa bao giờ tham dự bất cứ nghi thức nào của đàn sói, làm sao nó có thể thực hiện nghiêm chỉnh, trình tự đúng phép tắc như thế? Y như những động tác ấy được tập luyện rất nhiều lần, như đươcm một huấn luyện viên chỉ bảo cặn kẽ. Trần Trận nghĩ mãi không ra.
            Sói con thở ra một hơi, vẫn không xé con mồi. Nó rung mình rũ bụi cho bộ lông sạch sẽ, rồi cất cao hai chân trước chậm rãi chạy quanh con mồi, phấn khởi tới mức mắt nheo lại, miệng hé mở, lưỡi thè ra nửa chừng, chậm rãi cất chân, chậm rãi đặt chân xuống đất, y như những con ngựa trắng cao lớn trong đoàn xiếc Liên Xô biểu diễn. Sói con thận trọng chạy chậm mấy vòng đột ngột chuyển sang chạy nhanh, nhưng bất kể chạy nhanh hay chậm, cái vòng tròn vẫn được giữ nguyên, một vòng tròn tiêu chuẩn do vô số dấu chân sói in trên cát hình thành.
            Trần Trận dựng tóc gáy, chợt nhớ lại hồi sau Tết, cái vòng tròn bí ẩn do dấu chân mấy chục con sói chạy quanh đàn ngựa bị sa lầy, tạo nên. Cái vòng tròn ma quái như một thứ âm phù, người già thảo nguyên tin rằng đó là tín hiệu của lũ sói xin phép và cảm ơn Trời. Cái vòng tròn rất tròn, lúc này cái vòng tròn của sói con cũng rất tròn, mà chính giữa là con mồi nguyên vẹn, đủ lông da.
            Chẳng lẽ sói con không dám hưởng dụng ngay con mồi, mà phải vẽ vòng tròn xin phép Trời?
            Kẻ vô thần gặp ngay một hiện thực như trong thần thoại hoặc thần thoại trong hiện thực. Trần Trận không thể giải thích những động tác kỳ lạ đó như một thứ “bản năng”, “di chuyển thiên bẩm”. Trần Trận từng nhiều lần lãnh giáo sói thảo nguyên, phương thức tư duy của con người khó ký giải hành vi của chúng.
            Sói con vẫn chạy một cách hào hứng. Nhưng nó một ngày nay chưa ăn thịt. Lúc này nó là con sói đói. Thường thì sói đói thấy thịt là ăn liền, vậy tại sao sói con không làm thế, mà lại có những động tác như của tín đồ tôn giáo? Nó nhịn đói để tiến hành những “nghi thức tông giáo” cực kỳ phiền toái, phải chăng thế giới loài sói cũng có tôn giáo nguyên thuỷ, và với một sức mạnh tinh thần to lớn chi phối hành vi của đàn sói, thậm chí có thể chi phối một sói con mở mắt đã xa đàn? Trần Trận tự hỏi: Phải chăng tôn giáo nguyên thuỷ của người nguyên thuỷ là đem về từ thế giới động vật? Người nguyên thuỷ và sói nguyên thuỷ phải chăng từ xa xưa đã có sự giao lưu tôn giáo nguyên thuỷ? Thảo nguyên thần bí có rất nhiều điều cần khám phá…
            Cuối cùng, sói con dừng lại. Nó ngồi xổm trước con chuột thở dốc, khi hơi thở đã trở lại bình thường, nó liếm mép hai lần, cặp mặt loé lên nét hoang dã và háu ăn, lập tức từ một thánh đồ biến thành con sói đói. Nó chồm lên con chuột, hai chân trước giữ chặt, ngoạm một miếng giữa ngực rồi hất đầu lên, xé rách da nửa thân trước con mồi lộ ra phần thịt trắng hếu. Sói con run lên, vừa xé vừa ăn ngấu nghiến. Khi nó ăn hết một bên thịt và xương, nó móc lục phủ ngũ tạng của con mồi ra ng oài và bất chấp mùi vị acid trong dạ dày, mùi vị phân và nước tiểu trong ruột, nó chén sạch.
            Sói con càng ăn càng thô bạo lại càng hưng phấn, vừa ăn vừa gầm gừ khoái trá, khiến Trần Trận toàn thân nổi da gà. Tư thế ăn của sói con ngày càng khó coi. Nó ăn tất cả những gì trên người con chuột, hầm bà làng không phân biệt. Thịt xương da lông hoặc mật đắng bàng quang, nó đều coi là mĩ vị, chỉ trong chớp mắt, con chuột to béo chỉ còn lại cái đầu và một ít lông. Sói con vẫn chưa thôi, hai chân trước chặn đầu chuột cho mõm ngửa lên, rồi ghé răng chỉ mấy miếng đã cắn nát nửa đầu, nhai chếu cháo rồi nuốt tỏm, răng cũng không nhè bỏ. Nửa đầu chuột còn lại cũng chỉ mấy miếng là mất biến, ngay cả cái đuôi rất ít thịt, toàn lông với xương sói con cũng không bỏ, cắn đứt đôi, nuốt tỏm. Mặt đất chỉ còn lại vài dấu máu và nước tiểu. Sói con hình như chưa đã them, nó nhìn Trần Trận thấy hai tay không, miễn cưỡng bước lên mấy bước nằm xuống gần cậu.
            Trần Trận nhận thấy sói con quả thật yêu thích lạ lùng chuột thảo nguyên. Chuột thảo nguyên kích thích bản năng và tiềm năng của sói. Chả trách hàng vạn năm nay thảo nguyên  Ơlôn chưa hề xảy ra nạn chuột hoành hành trên diện tích lớn.
            Trần Trận thấy thương và tiếc cho sói con. Cậu gần như ngày nào cũng được xem sói con biểu diễn những trò đẹp mắt, hơn nữa, những trò lạ lung, có tính chất gợi mở, cậu đã trở thành một phần của sói con. Chỉ tiếc là địa bạn của sói con hẹp quá, nếu như có thể sử dụng toàn bộ thảo nguyên Mông Cổ làm sân khấu, có thể công diễn rất nhiều thoại kịch hùng tráng xúc động lòng người. Rất tiếc là những vở như thế của sói trên thảo nguyên Mông Cổ mênh mông phần lớn đã thất truyền. Những binh đoàn sói còn sót lại bị dồn lên đường biên. Người Trung Quốc không còn có dịp nào được mở rộng tầm mắt, được nghe lời dạy bảo của sói.
            Sói con nhìn đăm đăm lũ cún con đang nhai xương. Trần Trận trở vào trong lều lột da con rái cá cạn. Cậu lọc ra chỗ thịt chó cắn trên cổ, cắt lấy cái sỏ con rái cá cho vào chậu, chuẩn bị cho sói con ăn bữa tối.
            Trần Trận mổ bụng, loại bỏ ngũ tạng, lọc thịt tảng, rồi cho vào nồi luộc. Thịt của con rái cá cạn chiếm hơn nửa nồi, đủ cho ba người ăn một bữa thoải mái.
                                                                      *
                                                                 *        *
            Chiều tối, sói con ngồi ngay ngắn trên cát, mặt quay về hướng tây, sốt ruột đợi mặt trời chỉ còn là hình bán nguyệt ở chân trời. Chỉ cần trên đỉnh dốc còn lưu lại vài chấm sáng là sói con quay mặt về phía cửa lều biểu diễn bao nhiêu là động tác và tư thế như đánh trống, vồ mồi, nhảy lộn vòng ra phía sau, lại nữa, cố ý rung xích sắt cho kêu leng keng nhằm nhắc nhở Trần Trận và Dương Khắc: Thời gian này là của nó.
            Trần Trận ăn trước miếng thịt rái cá luộc, cầm roi ngựa, tháo xích cho sói đi dạo. Nhị Lang và Vàng đi théo. Hàng ngày, khoảng thời gian tự do một nửa này là giờ phút hạnh phúc nhất của sói con, sưóng hơn ăn. Nhưng cho sói đi dạo không như cho chó bécgiê quân dụng đi dạo. Chó sói đi dạo là giờ phút khoan khoái nhất, những cũng vất vả mệt nhọc nhất của Trần Trận.
            Sói con ăn khoẻ, lớn càng nhanh, chiều dài thân đã hơn chó cùng tuồi một cái đầu, cân nặng gấp rưỡi. Sói con lông sữa đã thay hết, lông mới màu vàng ngà mọc đều, bóng mượt, lông bờm màu đen vừa dài vừa cứng, so với sói hoang không có gì khác biệt. Hồi mới đem về, cái đầu tròn nay đã hơi bằng, trên lớp lông màu vàng ngà có những chấm trắng, mặt bắt đầu dài ra, mũi ươn ướt giống cái nút chai bằng cao su, vừa rắn vừa dai. Trần Trận rất thích bóp mũi sói con, hễ bóp là sói con hắt hơi, nó rất không thích cử chỉ thân thiện này. Hai tai sói con đã nhon ra, cứng và thẳng, nhìn từ xa, sói con đã như một con sói thực thụ.
            Mắt sói là bộ phận trên mặt khiến người sợ mà thích. Mắt sói con tròn xoe, nhưng là mắt xếhc, khoé trong thấp, khoé ngoài cao, nếu kéo một đường thẳng từ khoé mắt trong đến khoé mắt ngoài thì góc chếch là 45 độ, chếch hơn các diễn viên kinh kịch trên sân khấu. Khoé mắt trong của sói con còn kéo dài thêm một rãnh sâu trông càng kỳ dị. Trần Trận nhìn mắt sói con lại nhớ câu “mày liễu dựng ngược” hoặc “bạch hổ mắt treo”. Lông mày sói chỉ là những sợi lông màu vàng nhạt, vì vậy khi tức giận sói có nhướng mày để uy hiếp cũng không có tác dụng gì. Khi sói biểu thị tức giận phần lớn là nhờ cặp “mắt treo”, một khi mặt sói dựng ngược thì dữ không kém mắt bạch hổ, uy hiếp người ta hơn quỷ dữ. Hay nhất là ở chỗ, những nếp gấp cùng góc độ dọc hai bên sống mũi làm cho cặp mắt thêm hung dữ.
            Đồng tử sói không giống các loài động vật khác, “lòng trắng” màu vàng hổ phách. Người ta bảo đèn pha ô tô màu vàng chanh là màu có thể xuyên mù. Trần Trận cảm thấy mắt sói màu vàng chanh có sức xuyên thấu không thể cưỡng đối với động vật. Đồng tử sói tương đối nhỏ. chỉ như lỗ kim châm u tối, khí độc khiến người kinh sợ. Trần Trận chưa khi nào dám mắt chọi mắt với sói con khi nó tức giận, chỉ sợ từ đó phóng ra hai mũi kim độc.
            Trần Trận từ khi nuôi con sói và sống thân thiện với nó mỗi khi sói con vui vẻ, cậu có thể nắm hai tai nâng mặt nó lên, mắt trong mắt, mũi cọ mũi, ngắm nghía bộ mặt một con sói sống. Cậu gần như ngày nào cũng ngắm cũng xem như vậy đã hơn một trăm ngày rồi. Cậu thuộc lòng bộ mặt sói con. Tuy cậu thường xuyên nhìn thấy nét cười đáng yêu của sói con, nhưng cậu cũng thường nhìn mà rùng mình sởn gáy. Chỉ riêng cặp mắt đã khiến cậu lạnh xương sống, nếu như sói con ngoác miệng lộ ra bốn chiếc răng nhọn hơn cả răng rắn đeo kính thì càng sợ vỡ mật. Cậu thường bóp miệng sói con, dùng ngón tay búng răng sói kêu cách cách như búng lên thép không rỉ, độ rắn và độ bền đều rất tốt. Dùng ngón tay thử răng sói con, thấy độ sắc của chúng hơn cả mũi dùi đột đế giày, men răng sói rắn hơn men răng người.
            Tăngcơli rất thiên vị sói thảo nguyên, ban cho sói bộ mặt đẹp và một vũ khí đáng sợ. Bộ mặt sói là vũ khí, răng sói lại là bộ mặt. Rất nhiều động vật trên thảo nguyên chưa giao đấu đã bị vũ khí trên người sói giải giáp. Bốn chiếc răng ngày càng nhọn sắc trong miệng sói, khiến Trần Trận đêm ngày không yên.
            Được cái sói con rất thích đi dạo, chỉ cần sói con vui vẻ là nó không sử dụng vũ khí bộ mặt với Trần Trận, càng không nhe răng ra. Cắn là phương thức chủ yếu sói dùng để biểu thị tình cảm. Trần Trận cũng thường xuyên đút ngón tay vào miệng sói cho nó gặm. Sói con rất có mức độ, chỉ cắn nhẹ, không dùng sức, như sói trong đàn cắn đùa nhau, không bao giờ rách da chảy máu.
            Hơn một tháng nay, sói con lớn nhanh kinh khủng, thể lực tăng nhanh hơn thể trọng. Hàng ngày nói là đi dạo, thực ra không phải là dắt chó mà bị chó kéo đi. Sói con rời chuồng là như bò mộng, lôi sềnh sệch Trần Trận ra bãi cỏ. Để cho sói con luyện chân hoặc tập chạy, Trần Trận hoặc Dương Khắc thường cùng chạy với nó. Nhưng khi người không chạy được nữa, sói con bắt đầu mắm môi mắm lợi mà kéo mà lôi, thường là từ nửa tiếng đến một tiếng. Trần Trận bị kéo rát tay, bị lôi mỏi dừ đôi cánh tay, mồ hôi đầm đìa, mệt hơn một ngày lao động cật lực. Cao nguyên Mông Cổ dưỡng khí loãng hơn nhiều so với đồng bằng Bắc Kinh. Trần Trận thường bị sói con lôi đến mức não thiếu dưỡng khí, mặt trắng bệch, hai chân chuột rút. Lúc đầu cậu định tập chạy việt dã, luyện cho cơ thể rắn chắc, nhưng khi sức bật của sói con được tung ra, cậu đâm nản. Sói là kiện tướng chạy đường trường trên thảo nguyên, giống ngựa Uchumuxi nổi tiếng thế giới cũng không bằng. Cặp chân người Hán như cậu mà đòi chạy thi? Trần Trận và Dương Khắc bắt đầu lo, khi sói con lớn hoàn toàn, các cậu làm sao mà dắt? Chưa chừng bị sói con dắt tới chỗ đàn sói!
            Có khi Trần Trận và Dương Khắc bị kéo ngã, vài phụ nữ và trẻ em ở căn lều gần đó ôm bụng mà cười. Dù mục dân cho rằng nuôi sói là chuyện vô bổ nhưng mọi người đều rất thích xem nó ra sao, mục dân đều đợi sự phán xét công minh của Tăngcơli đối với cái gọi là “thực nghiệm khoa học” của đam thanh niên trí thức Bắc Kinh. Một vị biết võ vẽ tiếng Nga nói với Trần Trận: Người không thuần dưỡng được sói, khoa học cũng không thuần dưỡng được sói thảo nguyên. Trần Trận giải thích: Cậu chỉ quan sát sói, không hề có ý định thuần dưỡng sói. Không một ai tin vào lời giải thích của cậu, nhưng kế hoạch lại bécgiê thì mục trường ai cũng biết. Cậu và Dương Khắc bị sói con lôi ngã trở thành chuyện cười trên chiếu rượu của mục dân, mọi người bảo, hãy đợi đấy, con sói sẽ ăn thịt chó cái cho mà xem.
            Sói con vui sướng kéo Trần Trận chạy thật nhanh. Trần Trận thở phì phò. Điều kỳ lạ là trước đây khi đi dạo, sói con thích lôi Trần Trận chạy bừa bất kể phương hướng, nhưng gần đây sói con rất thích lôi Trần Trận chạy về hướng tây bắc, cái hướng mà đêm hôm đó tiếng sói mẹ dày đặc nhất. Tính hiếu kỳ nổi dậy, Trần Trận cũng muốn tìm hiểu vì sao. Cậu chạy theo sói con một đoạn đường rất xa, xa hơn tất cả những lần chạy trước. Lội qua một cái rãnh, sói con dẫn cậu lên một sườn dốc. Trần Trận nhìn lại thấy mình cách nhà ba bốn dặm thì hơi lo, nhưng vì có con Vàng và con Nhị Lang hộ vệ, trong tay có roi ngựa, nên không kéo sói con quay lại. Chạy thêm nửa dặm nữa, sói con mới chạy chậm lại, đánh hơi khắp chốn, một đống phân bò, một mô đất, một đốt xương, một bụi cỏ, một hòn đá đều không bỏ qua.
            Ngửi, ngửi mãi, sói con đến trước bụi cỏ kim mao thò mũi ngửi, đột nhiên nó rùng mình, lông gáy dựng đứng như lông nhím, ánh mắt lộ vẻ vui mừng, hết ngửi lại hít, chỉ tiếc không rúc hẳn vào trong bụi cỏ. Chợt nó ngẩng đầu lên, hướng về phía tây còn vương ráng chiều, cất tiếng tru ai oán, với nội dung kể lể nỗi đau trong cảnh tù đày, bày tỏ khát vọng trở về với tộc quần, không phấn khởi hân hoan như tiếng tru những ngày đầu.
            Nhị Lang và con Vàng ngửi đám cỏ kim mao. Hai con chó lớn cũng dựng lông gáy, hung hãn cào đất, hướng về phía tây sủa dữ dội. Trần Trận chợt hiểu ra: Sói con và hai con chó lớn đều ngửi thấy mùi nước tiểu của sói. Cậu dùng chân đi giày gạt cỏ ra xem, những cọng cỏ phía dưới bị cháy vàng vì nước tiểu, mùi khai nồng nặc xộc lên mũi. Trần Trận hơi hoảng: Đây là bãi nước tiểu mới, xem ra con sói đêm qua hoạt động quanh đây, gần khu lều trại. Ráng chiều đã nhạt, núi đồi chìm trong bóng tối mờ, gió nhẹ, những ngọn cỏ rung động như có đàn sói trong đó. Trần Trận run lên, cậu sợ bị đám sói mẹ phục kích. Không kịp suy nghĩ gì hết, Trần Trận vội lôi sói con trở về.
            Chính vào giờ phút đó, sói con nghếch chân sau đái một bãi vào đám cỏ kim mao. Trần Trận sợ, lôi con sói lại. Sói mẹ đang nhớ sói con mà sói con nhắn tin bằng cách này, nếu nó gặp lại sói mẹ, hậu quả sẽ không thể lường. Trần Trận giật mạnh cái xích khiến sói con ngã lộn một vòng, và cũng cú giật ấy, nửa bái nước tiểu sói con phải nhịn lại, ước mong tìm lại mẹ cũng do đó mà đứt đoạn. Sói con nổi giận, mắt xếch ngược, nhảy bổ vào Trần Trận như một con sói hoang thực thụ. Trần Trận vội vàng lùi lại nhưng vướng cỏ ngã ngửa, sói con đớp cho cậu một miếng vào bắp chân. Trần Trận “ối” lên một tiếng, chân đau nhói. Răng sói cắn rách lần vải quần vào đến thịt. Trần Trận ngồi dậy, dùng mã bổng quật vào mũi sói con, nhưng nó dã phát điên không chịu nhả, còn định dứt đứt một miếng thịt cho hả giận.
            Hai con chó lớn sợ hãi nhảy dựng lên. Con Vàng ngoạm chặt gáy sói con lôi ra, Nhị Lang ghé sát tai sói mà sủa, tiếng sủa nghe như sấm khiến con sói sợ, nhả miệng ra.
            Trần Trận sợ gần như ngất xỉu. Con sói chính cậu chăm sóc, giờ đây răng nó dính máu cậu. Nhị Lang và Vàng vẫn đang cắn sói con. Trần Trận vội chạy tới ôm chặt lấy cổ nó nhưng sói con vẫn quẫy đạp dữ dội, mắt xếch ngược, gầm gừ không thôi.      
            Trần Trận nạt hai con chó lớn. Nhị Lang và Vàng thôi công kích, sói con cũng ngừng quẫy. Cậu bỏ tay ra, sói con lùi xa hai bước nhìn cậu bằng ánh mắt hoang dã, lông gáy vẫn chưa xẹp xuống. Trần Trận vừa tức vừa sợ, bảo: Sói con, mày mù rồi hả? Sao mày cắn tao? Sói con nghe giọng nói quen thuộc sực tỉnh, nó ngoẹo đầu nhìn người đứng trước mặt lần nữa, dần nhận ra Trần Trận, nhưng ánh mắt nó không hề có ý xin lỗi.
            Vết thương đang chảy máu. Máu đã chảy xuống giày. Trần Trận vội đứng lên, cắm sâu cây mã bổng vào một cái hang chuột, lồng cái xích vào cây cọc tạm thời đó. Cậu sợ con sói thấy máu nghĩ bậy, bèn đi lên mấy bước, quay lưng lại rồi ngồi xuống cởi giày, xắn quần lên. Bắp chân thủng bốn lỗ, đều chảy máu, may mà vải quần dày như vải bạt, vết thương không sâu lắm. Trần Trận vội chữa trị theo phương pháp cổ truyền của dân địa phương, trước hết nặn cho hết máu ở vết thương, rồi nặn tiếp, dùng máu sạch của cơ thể rửa vết thương. Máu nặn ra chừng nửa sơ ranh, Trần Trận xé vải áo sơ mi băng vết thương, buộc kỹ.
            Trần Trận đứng lên, tháo xích dắt sói con quay đầu lại, trỏ làn khói trên căn lều Mông Cổ, gọi to: Sói con, ăn cơm nào! Uống nước nào! Cậu và Dương Khắc đã tìm ra cách này mỗi khi kết thúc đi dạo muốn cho sói con mau trở về nhà. Sói con nghe nói đến ăn cơm uống nước, thèm rỏ dãi, quên sạch những gì vừa xảy ra, không them ngoái lại, cứ thế lôi xềnh xệch Trần Trận về nhà. Về đến nhà, sói con chạy thẳng ra chỗ để chậu thức ăn, hớn hở đợi cơm nước. Trần Trận lồng chiếc khuyết ở đầu xích vào cọc, khoá chặt đầu cọ không cho xích bung ra, rồi bê thịt rái cá cạn cho sói con, múc cho nó nửa chậu nước sạch. Sói con khát khô cả cỏ. Nó khoan gặm xương mà chạy thẳng đến chậu nước, uống một hơi hết nửa số nước trong chậu. Mỗi khi đi dạo muốn sói con mau chóng trở về, các cậu không cho sói con uống nước, mồ hôi đầm đìa, chỉ cần nhắc đến nước là sói con ngoan ngoãn trở về.
            Trần Trận vào trong lều thay băng. Cao Kiện Trung trông thấy vết thương liền bắt Trần Trận phải đi tiêm phòng dại. Trần Trận cũng sợ, nên phóng ngựa tới lều của “bác sĩ chân đất” Tiểu Bành ở tổ chăn nuôi số Ba, đề nghị cậu ta tiêm cho một mũi phòng dại, bôi thuốc băng bó vết thương, đề nghị cậu ta nhất thiết không nói với ai về chuyện này. Điều kiện đánh đổi là miễn truy cứu quyển “Tây hành mạn ký” cậu ta mượn để mất, cho mượn thêm “Truyện Napôlêông” và cuốn “Ông già Cao”. Tiểu Bành ra vẻ miễn cưỡng chấp thuận, lầu bầu: Mỗi lần lên trụ sở mục trường, phòng y tế chỉ phát bốn năm liều thuốc phòng dại, dân công bị chó cắn, đã dung hết hai liều, trời nóng này mình lại phải chạy lên lấy. Trần Trận phải nịnh cậu ta, nhưng cậu cũng không biết mình đã nói những gì, trong đầu toàn tính chuyện làm sao bảo vệ sói con. Sói con đã cắn người bị thương. Thảo nguyên quy định nghiêm ngặt: Chó cắn chết cừu phải bị xửu tử, cắn người bị thương bắn chết tại chỗ. Sói cắn người bị thương thì không thể tha. Nuôi sói vốn là chuyện đại nghịch vô đạo, giờ lại “mở miệng cắn người”, sói con chắc chết mất. Trần Trận lên ngựa, quên cả đau, dọc đường vỗ trán mong tòi ra một cao kiến nào đó bảo vệ sói con.
            Vừa về đến nhà, Trần Trận nghe thấy Dương Khắc và Cao Kiện Trung đang tranh luận về trường hợp con sói bắt đầu cắn người. Cao Kiện Trung làm ầm lên: Sói con giỏi thật! Trần Trận mà nó dám cắn, vậy còn ai nó không cắn? Phải đập chết! Sau này nó còn cắn người nữa thì làm thế nào? Khi chúng ta chuyển sang bãi chăn mùa thu, các tổ cách nhau sáu bảy mươi dặm không tiêm phòng được, bị nhiễm độc từ răng sói thì làm thế nào? Bệnh sói dại nguy hiểm hơn bệnh chó dại, nguy hiểm đến tính mạng chứ chả chơi.
            Dương Khắc nói khẽ: Mình sợ Chủ nhiệm Quý không tiêm phòng dại cho Trần Trận và mình, thuốc phòng chó dại rất hiếm, cung cấp cho người lỡ bị chó hoặc sói cắn phải, không cung cấp cho người nuôi sói. Theo mình thì phải thả ngay nó ra, nếu chậm, đội cho người đến đập chết bây giờ!
            Lúc này Trần Trận chợt tỉnh, vội nói: Mình nghĩ kỹ rồi. Không đánh chết, không thả. Nếu đánh chết nó thì đúng là mình đã bị nó cắn, công lao bấy nhiêu ngày hoá công cốc! Nếu thả cho nó đi, e rằng nó không sống nổi. Sói con có thể yên ổn về tới nhà nó, nhưng các sói đầu đàn sẽ coi nó như dân ngụ cư, đối xử với nó như với “Sói gian”, liệu nó sống nổi không?
            Vậy làm thế nào bây giờ? – Dương Khắc mặt mày không vui.
            Trần Trận nói: Biện pháp duy nhất là làm phẫu thật răng cho nó: Dùng kìm cắt bỏ đầu nhọn đi. Sói lợi hại là ở hàm răng, nếu bị cắt đầu nhọn, sói cắn sẽ không chảy máu, cũng không cần đi tiêm phòng dại. Từ nay thịt phải thái miếng nó mới ăn được.
            Dương Khắc lắc đầu nói: Cách ấy được thì có được, nhưng làm thế có khác gì giết nó? Sói không còn răng sắc, thì làm sao sống  trên thảo nguyên?
            Trần Trận cúi đầu, nói: Mình hết cách rồi. Dù sao thì mình không tán thành bị sói cắn cho một miếng là bỏ cuộc. Biết đâu cái đầu nhọ đó sau này sẽ mọc lại? Cứ bỏ cái đầu nhọn đó đi.
            Cao Kiện Trung trêu chọc: Dám nhổ răng trong miệng hổ? Không bị nó cắn thành thương chở kể.
            Sáng hôm sau, trước khi cừu xuất chuồng, Trần Trận và Dương Khắc làm phẫu thuật cho sói con. Trước tiên, hai người cho sói con ăn no, trêu chọc cho nó vui lên, sau đó Dương Khắc hai tay ôm đầu sói con, dùng hai ngón tay cái vạch miệng sói ra. Sói con không cảm thấy khó chịu, nó đã quen với những trò đùa dai của hai người. Hai cậu xem kỹ khoang miệng sói con dưới nắng. Răng sói thấu quang, có thể nhìn thấy tuỷ bên trong đến đâu. Rất may, tủy chỉ lên đến một nửa chiều dài cái răng. Chỉ cần bấm bỏ đầu nhọn, không phạm tới tuỷ, là không đau. Như vậy có thể giữ lại bốn chiếc răng của sói con. Có thể sau này sói con lại mài nhọn bốn chiếc răng đó.
            Trần Trận cho sói con ngửi hít chiếc kìm cắt, ôm cây kìm chơi đùa một lúc. Đợi khi nó không dè chừng với chiếc kìm, Dương Khắc bóp cho sói con há miệng ra, Trần Trận nhanh nhẹn và chuẩn xác cắt đầu nhọn của bốn chiếc răng, khoảng một phần tư chiều dai. Hai người cho rằng, “miệng sói răng kìm” cũng là một cách “nhổ răng cọp”, nên đã chuẩn bị dây rợ, trói con sói lại để thực hiên, không ngờ chưa đến một phút đã xong, không mảy may thương tích. Sói con chỉ đưa lưỡi liếm chỗ cộm ở đầu răng, không cảm thấy bị mất mát chút gì. Hai người đặt nhẹ con sói xuống, định thưởng miếng gì đó nhưng lại sợ nó đau miệng, đành thôi.
            Trần Trận và Dương Khắc thở dài nhẹ nhõm, từ nay không sợ sói con cắn người bị thương nữa. Tuy vậy, những ngày sau đó các cậu không sao vui lên được. Dương Khắc nói: Bẻ răng sói còn tàn nhẫn hơn hạ nhục vị thế con người. Trần Trận cũng bâng khuâng tự hỏi: Mình không thể nghĩ rằng mình ngày càng xa với ý tưởng nuôi sói ban đầu?

            Cậu Bành mượn một lúc ba quyển sách hay, hai cậu xót ruột quá. Mục trường có hơn một trăm thanh niên tri thức, chỉ Trần Trận và Dương Khắc có mấy hòm sách kinh điển của bọn “phong kiến tư sản xét lại”. Bão táp chính trị cách đây hai năm đã qua đi, cuộc sống tẻ nhạt khiến đám thanh niên này ngốn ngấu sách cấm. Vì vậy cho mượn đi là không bao giờ đòi lại được. Nhưng Trần Trận buộc phải cho mượn… Nếu để ba vị cổ cánh biết chuyện con sói cắn người, Bao Thuận Quý sẽ bắn chết sói con. Trứ tác kinh điển rất được việc, quả nhiên một thời gian dài sau đó không ai biết chuyện sói con cắn Trần Trận bị thương. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét