Thứ Năm, tháng 9 19

Bí Mật Hồ Cá Thần - (Nguyễn Quang Thiều) chương 1


Một câu chuyện kì ảo và huyền hoặc về tuổi thơ, huyền thoại về con cá thần khổng lồ cùng những số phận nhiều ẩn ức nơi làng quê cổ tích. Phảng phất không khí liêu trai, bàng bạc huyền thoại, với những chi tiết giàu nhân văn, với những khám phá tuổi nhỏ Bí mật hồ cá thần dựa trên đời thực mà mang một ý nghĩa phổ quá.Đó chính là một phần của cái bí ẩn trong nghệ thuật viết cho thiếu nhi.

Sau bữa cơm tối, những người đàn ông xóm trại tụ tập ở nhà tôi. Bố tôi đón khách rất hồ hởi. Bố trải chiếu ra sân mời khách ngồi. Ông móc trong gầm giường cái hũ sành chuyên để đựng rượu đưa cho mẹ tôi và bảo:
- Mua cho tôi hũ rượu.
- Làm gì mà uống rượu? - Mẹ tôi hỏi.
 - Có việc quan trọng. Thôi đi đi! - Giọng bố tôi hơi gắt.
 - Nhưng mà tiền đâu? - Mẹ tôi hỏi.
 - Hết tiền rồi à? Tiền bán lươn hôm qua để đâu?
 Bố tôi hỏi vậy nhưng vẫn móc từ trong túi ra một nắm tiền lẻ nhàu nát đưa cho mẹ.
 Mẹ tôi ôm hũ đi ra ngõ, mẹ lẩm bẩm điều gì đó.
 Những người đàn ông cởi áo vứt xuống chiếu, ngồi quây lại hút thuốc lào. Bố tôi vừa rót nước mời khách vừa hỏi:
 - Thấy con cá nổi lên thật đấy à?
 - Thật chứ đùa à! - Lão Bương nói, cổ ngỏng lên như cổ cò. - Trưa nay tôi nhìn thấy nó nổi tềnh ềnh trên mặt đầm. Đúng là nó chứ còn ai vào đấy. Vẫn hai cái vây có ngón xòe ra như năm ngón. Hình như năm nay nó yếu hơn. Bơi lờ đờ lắm.
 Một người nói:
 - Từ năm ngoái đến nay nó đi đâu nhỉ? Không ai nhìn thấy. Đánh lưới mấy lần cũng không đụng.
 Một người khác:
 - Có thể nó ra biển nay mới lại về.
 Bố tôi cãi:
 - Ông nói hay thật. Cá đầm sống thế chó nào được ngoài biển.
 Người kia nói lại:
 - Con này thành tinh rồi. Nó sống đâu mà chẳng được.
 Mẹ tôi đã mua rượu về. Mẹ đặt hũ rượu xuống chiếu, hỏi:
 - Có cần gì nữa không?
 Bố tôi nói:
 _ Rang cho mẻ lạc.
 Mẹ không nói gì, đi vào bếp. Cửa bếp bập bùng ánh lửa. Một lúc sau, mẹ tôi mang cái rá đựng lạc rang bước ra. Bà nắm một nắm to bỏ xuống nền hiên nhà đã quét sạch cho hai anh em tôi. Chúng tôi vừa ăn lạc vừa nghe chuyện của những người đàn ông xóm trại.
 Bố tôi hỏi:
 - Mai anh em ta định vây bắt như thế nào?
 Lão Bương lắc lư cái đầu, giọng đã hơi lạc đi vì rượu: 
- Dồn hết lưới ra. Nếu không xong, tớ sẽ dùng biện pháp cuối cùng.
 Một người hỏi: 
- Biện pháp cuối cùng là gì?
 Lão Bương cười:
 - Tớ có cân thuốc nổ của thằng cháu làm nghề khai thác đá cho. Cứ ném xuống đáy hồ thì con gì cũng nổi lên hết.
 Bố tôi nói:
 - Đừng có làm liều. Mấy ông chính quyền không để yên đâu.
 Lão Bương cười sặc sụa:
 - Bố cu sợ hả? Sợ quái gì. Nửa đêm tớ quẳng xuống, có ma mới biết.
 Một người nói chen vào:
 - Chuyện thuốc nổ cứ tạm để đấy. Sáng mai dậy sớm thả lưới. Quyết sống chết với nó trận này nữa xem sao. Phải làm sớm, để đến trưa trời nắng, nó chui vào chùa thì có lưới giời cũng chịu.
 Đêm hạ ong ong. Muỗi bay vo ve quanh chỗ hai anh em tôi nằm. Trong nhà vẳng tiếng quạt của bà tôi. Ngoài sân, ngọn đèn dầu tỏa sáng những gương mặt ửng đỏ vì rượu.
 Lão Bương lại lắc lư cái đầu:
 - Nếu bắt được con cá tôi chỉ xin bộ lòng.
 Bố tôi lừ mắt:
 - Ông khôn
 - Có gì mà khôn - Lão Bương lại ngỏng cái cổ cò lên - So với con cá, bộ lòng đáng gì.
 Bố tôi nói:
 - Ông có biết trong dạ dày nó có gì không? Con cá này là cá ngậm ngọc đấy.
 Lão Bương cười khùng khục:
 - Ngọc gì mà ngọc. Có chăng chỉ là nắm lông vịt nhà thằng Bí. Chiều qua đàn vịt nhà nó bơi qua đầm, lên đến bờ đã mất đứt hai con. Con cá quỷ này nó đớp chứ còn ai.
 Một người đàn ông khác lên tiếng:
 - Cứ chia đều ra. Tôi nghe nói cá sống lâu năm và khôn như con này xả thịt kho với thuốc bắc là thành thuốc thánh. Tôi sẽ chữa được bệnh đau xương của tôi.
 Chuyện như thế về con cá tôi đã nghe bao nhiêu lần rồi. Thằng Mên, em tôi, đập chân tôi hỏi:
 - Con cá có ngọc hả anh?
 Tôi trả lời:
 - Tao không biết.
 Thằng Mên lại hỏi:
 - Sao ông Bương lại thích bộ lòng cá? - Tôi nói nh
 - Vì ông ấy thích uống rượu với lòng cá.
 - Thế họ có bắt được con cá không? - Em tôi hỏi.
 - Không biết. - Tôi lơ đãng trả lời.
 Lúc này tôi đang dỏng tai về phía bờ đầm. Đêm mùa hạ vắng lặng vô cùng. Một cảm giác là lạ mơ hồ chen vào trong tôi. Tôi vừa muốn đi ra bờ đầm vừa cảm thấy sợ hãi.
 Khuya lắm những người đàn ông xóm trại mới tan cuộc rượu.
 Khi khách đã về hết, bố tôi mang đống lưới ra sân xem lại. Hai anh em tôi chui vào màn đi ngủ. Bà tôi lên tiếng:
 - Hai anh em mày thức khuya thế? Mai xẻo tai cũng không chịu dậy.
 Tôi thì thào:
 - Bà ơi! Sáng mai bố cháu và mấy bác sẽ đánh lưới đầm đấy.
 Bà tôi nói:
 - Lại muốn bắt con cá thần chứ gì. Bố mày từng ấy tuổi rồi vẫn còn dại.
 - Cá thần có bị bắt không bà?
 - Đã là thần thì không ai bắt được. Làng này bao nhiêu người đã tìm mọi cách mà có ai được cái vẩy nào đâu. - Bà tôi thở dài. - Có lớn mà chẳng có khôn. Thôi ngủ điạ.
 Hai anh em chúng tôi nằm mãi mà không ngủ được. Mới đầu hạ mà trời oi vô cùng. Quanh nhà tiếng côn trùng kêu ri ri. Tôi nghe mơ hồ có tiếng cá quẫy ngoài đầm Vực. Có phải con cá có hai bàn tay. Tôi và lũ bạn trong xóm trại chưa bao giờ được nhìn thấy con cá. Nhưng năm ngoái thì chúng tôi thấy nó bơi trong đầm Vực ầm ầm suốt đêm.
 Những đêm mùa hạ oi bức, lũ trẻ chúng tôi thường ôm những mảnh chiếu rách lên mặt đê nằm ngủ. Một đêm trăng mùa hạ năm ngoái chúng tôi tỉnh giấc bởi tiếng đập nước ầm ầm. Chúng tôi ngồi túm vào nhau nhìn xuống mặt đầm Vực. Cả mặt đầm trong đêm trăng sáng như mặt gương. Chúng tôi không nhìn thấy gì rõ cả, mà chỉ nghe tiếng đập nước rất mạnh và tung lên lấp lánh. Và rồi, cả một cột nước sáng lóe dựng lên chạy từ đầu này đến đầu kia đầm nước. Cảnh tượng kỳ vĩ ấy làm chúng tôi run lên vì sợ hãi và mê mẩn. Anh em tôi kể cho bà nghe. Bà tôi bảo:
 - Chắc là con cá có niềm vui gì đấy.
 Tôi hỏi bà:
 - Cá cũng biết vui hả bà?
 Bà tôi nói:
 - Vật gì mà lại không có lúc vui lúc buồn.
 Tôi cãi bà:
 - Cháu chẳng tin tí nào cả.
 Bà tôi nhìn tôi và nói nhỏ:
 - Khi nào lớn cháu sẽ tin." 
Tuổi thơ chúng tôi gắn bó với đầm Vực như một người thân. Đầm Vực rộng mênh mông chạy ven chân đê làng. Tôi còn nhớ mấy năm về trước, cây cối còn mọc um tùm quanh bờ đầm. Chiều chiều, cò về phủ trắng trên những vòm cây cao. Nhưng rồi người làng rủ nhau đi lấy trứng cò. Sau đó họ bắt cò và cuối cùng họ tìm cách bắt cả lũ cò mẹ, cò bố. Đêm đêm, tôi nghe tiếng cò kêu thất thanh. Những lúc như thế tôi nghe tiếng bà lẩm bẩm: “Tai ác thế, có ngày trời phạt”.
 Hết bắt cò, người làng lại thi nhau chặt cây ở ven bờ đầm. Lúc đầu họ chọn cây to, sau thì gặp cây gì chặt cây ấy. Bây giờ, bờ đầm chỉ còn lại những bụi dứa dại và tầm xuân. Và bầy cò mỗi ngày lại trở về thưa hơn. Cho đến một chiều, chúng tôi không còn thấy bóng dáng cánh cò nào nữa. Cũng lúc đó người ta phát hiện ra con cá thần xuất hiện trở lại sau bao ngày biệt tăm.
 Một ngày, những người đàn ông xóm trại nhìn thấy con cá thần nổi lên và từ từ bơi quanh đầm như một con trâu. Ngay hôm sau, những người đàn ông xóm trại và trong làng kéo nhau ra bờ đầm. Họ giăng lưới và hạ vó bè để bắt con cá.
 Con cá đụng lưới. Và nó không thoát được. Hàng chục tấm lưới bao quanh nó. Những người đàn ông hò hét vang mặt đầm. Họ kéo con cá lên một chiếc thuyền. Gần chục người đàn ông xúm vào gỡ lưới ra. Con cá dài gần bằng chiếc thuyền nan của dân xóm trại. Nó nằm im như chết. Chỉ còn đôi mang lớn thở phát ra những tiếng “hập, hập”. Khi lưới đã được gỡ ra hết thì con cá quẫy mạnh, gần chục người đàn ông xúm quanh nó bị hất tung lên trời và rơi xuống hồ nước. Tất cả những người đứng trên bờ tròn mắt kinh hãi. Con cá thoát lưới lao vun vút trên mặt đầm như một con tàu mở hết tốc lực. Tấm lưới bị xé tan dễ dàng như bọn trẻ con xé những tàu lá chuối để làm kèn.
 Ma! Đúng là ma rồi!
 Một người nào đó kêu lên thất thanh và vùng bỏ chạy. Những người khác cũng ù té chạy theo và kêu lên: “Ma! Ma!”.
 Đêm ấy, dân làng tụ tập trên mặt đê. Dưới mặt đầm tối đen ầm ầm tiếng cá đập nước. Cả đầm nước sôi sùng sục bởi con cá. Người làng tưởng như thấy có cả một đàn trâu mộng đang đuổi nhau dưới đầm Vực.
 Đêm ấy, bà tôi thắp hương lên bàn thờ, lầm rầm khấn vái. Khi bà khấn xong, bố tôi hỏi:
- Bà khấn ai thế?
 - Khấn ông cá chứ khấn ai. - Bà tôi thì thầm.
 - Bà lạ thật.
 - Cá thần đấy anh ạ. Không khéo năm nay lại vỡ đê thì chết cả làng.
 Bố tôi gắt bà:
 - Thần thánh cái gì. Ngày mai con câu nó về cho bà kho tương.
 Bà tôi mắng:
 - Anh đừng có dại mồm dại miệng.
 Bố tôi không nói gì. Ông lẳng lặng mang hết số cước dự trữ bện lại. Rồi bố tôi mang bộ lưỡi câu chùm lớn nhất chưa dùng đến bao giờ ra giũa thêm cho sắc. Bố tôi âm thầm chuẩn bị để bắt
 Trưa ngày hôm sau, bọn trẻ con xóm trại chúng tôi kéo nhau lên mặt đê vừa bàn tán về con cá thần vừa chờ đợi nó nổi lên. Nhưng mặt đầm hôm đó lặng phắc và trong đến rợn người. Và chúng tôi phát hiện ra ở giữa đầm chập chờn một vầng đen lớn. Vầng đen ấy cứ chập chờn, chập chờn mãi. Chúng tôi vừa sợ hãi vừa tò mò muốn biết cái vầng đen ở giữa đầm kia là cái gì. Buổi chiều chúng tôi hỏi bà về cái vầng đen ấy. Bà tôi im lặng một lúc lâu mới nói khẽ: “Đấy là ngôi chùa dưới đáy đầm”. Tôi hỏi: “Sao lại có chùa ở dưới đấy hở bà?”. Bà tôi bảo: “Có cháu ạ. Có cả sư nữa!”.
 Rồi bà tôi vừa ngoáy trầu vừa kể cho chúng tôi nghe về ngôi chùa ở dưới đáy đầm Vực.
 Trước kia ở chân đê ven bờ đầm Vực có một ngôi chùa nhỏ. Một nhà sư già trụ trì ngôi chùa cùng một vài chú tiểu. Hàng ngày bà tôi thường ra chùa tụng kinh và quét dọn giúp nhà chùa sau khi đã tạm xong công việc đồng áng.
 Vào một năm, nước sông Đáy lên cao. Cứ sau một giấc ngủ ngắn tỉnh dậy, dân làng đã thấy nước lên đến cả mét. Bà tôi đội nón, khoác áo tơi lá ra sông. Rồi bà tôi đến chùa tìm vị sư già cầu xin nhà sư tụng kinh cầu trời rút nước. Nếu không, đê vỡ thì cả làng không chết vì nước cũng chết vì đói.
 Vị sư già sắm lễ, tụng kinh suốt ngày đêm. Trong tiếng mưa rền rĩ là tiếng mõ và tiếng tụng kinh đều đều bền bỉ của nhà sư. Cả đêm ấy, bà tôi không ngủ được. Vừa mờ sáng bà đã chui ra khỏi lều trên mặt đê nhìn xuống sông. Bà tôi sợ hãi nhận thấy nước chẳng những không rút chút nào mà còn dâng lên. Bà tôi chạy xuống chùa. Vị sư già vẫn ngồi như thế từ hôm qua. Tiếng mõ và tiếng tụng kinh vẫn bền bỉ trong tiếng mưa gió gào thét. Đến sẩm tối thì nước đã lên mấp mé mặt đê. Bà tôi cùng nhiều dân làng đứng trên đê khóc. Dưới chân đê phía cánh đồng, tiếng mõ và tiếng tụng kinh của vị sư già vẫn đơn độc vang lên.
 Khoảng canh ba, những người làng dọn lên mặt đê ở bỗng nghe một tiếng “ầm” khủng khiếp vang lên. Và sau đó là tiếng réo ù ù như từ trên trời đổ xuống. Đê vỡ. Những người lớn ôm lấy con cái khóc như
 Sáng hôm sau, bà tôi không nhìn thấy làng đâu nữa. Tất cả đã chìm vào trong nước. Cả ngôi chùa nhỏ cũng biến mất. Bà tôi chạy đi tìm vị sư già, nhưng không thấy. Nước đã cuốn ngôi chùa nhỏ cùng vị sư già xuống đáy đầm Vực. Chỉ còn lại mấy chú tiểu. Vào giữa đêm, vị sư già đã ra lệnh cho các chú tiểu lên mặt đê. Nhà sư ở lại một mình gõ mõ tụng kinh cầu cho nước rút.
 Sau này, người làng cũng không tìm được thi thể nhà sư. Vào những ngày nước trong trời đẹp, người làng vẫn nhìn thấy bóng ngôi chùa dưới đáy nước. Bà tôi bảo, vào những đêm thanh vắng, bà tôi vẫn nghe thấy tiếng mõ và tiếng tụng kinh của nhà sư già dưới đáy nước đầm Vực vọng lên.
 Cũng sau vụ vỡ đê năm ấy, giữa dòng sông Đáy và đầm Vực có một lối thông ngầm. Có lẽ vì thế mà khi nước sông trong thì nước đầm trong, nước sông đục thì nước đầm đục. Cũng từ ngày đó, thi thoảng vào đêm khuya, người ta lại nghe thấy tiếng khỏa nước giữa đầm. Một số người kháo nhau đó là ma đầm Vực. Nhưng bà tôi quả quyết đó là tiếng khỏa nước của nhà sư già. Sau này, người ta phát hiện một con cá lớn nổi lên. Bà tôi cho đó là cá thần. Còn những người đàn ông xóm trại lại tìm mọi cách để bắt con cá. Nhưng bao nhiêu lưới đều bị phá rách, bao nhiêu bộ lưỡi câu chùm đều bị mất tăm.
 Sau cái đêm bện cước và giũa sắc thêm bộ lưỡi câu chùm, bố tôi dậy sớm ra đầm câu cá. Cần câu của bố là phần ngọn của một cây tre đực. Bố tôi đứng trên bờ đầm vứt lưỡi câu xuống nước. Hai cánh tay ông bắp nổi cuồn cuộn. Những người đàn ông xóm trại đều có hai cánh tay cuộn bắp như bố tôi. Họ sinh ra trên xóm trại ven sông. Mới ba tuổi, họ đã làm quen với sông nước và nghề chài lưới.
 Mỗi lần bố tôi phất cần câu, cước xiết vào nước kêu chiu chiu. Chỉ lát sau, hầu hết những người đàn ông xóm trại đều mang câu chùm ra đầm cùng săn con cá. Hàng chục bộ lưỡi câu chùm to, sắc, cắt ngang dọc đáy đầm.
 Chợt bố tôi kêu lên: “Trúng rồi”. Sợi cước bỗng căng lên và cứng như một sợi dây thép. Bố tôi choãi chân, ngả người về phía sau giữ cần câu. Ông hối hả cuộn cước vào. Con cá bị trúng lưỡi câu như phát điên. Nó lao vút lên khỏi mặt nước. Con cá khổng lồ văng mình lên đen bóng dưới nắng buổi sáng. Khi nó rơi xuống thì cả một cột nước lớn dựng lên. Rồi nước đổ xuống mặt đầm như người ta đổ cá. Những người đàn ông xóm trại đều vứt cần câu của họ chạy về phía bố tôi. Bố tôi bị con cá kéo lê trên bờ đầm. “Rắc”. Cần câu gãy. Bố tôi vội nắm lấy sợi dây cước. Con cá lại phóng mình lên mặt nước, kéo bố tôi ngã sấp xuống. Bố tôi vội đứng dậy. Trong lúc lúng túng, ông cuộn cả một đoạn cước chùm móc sâu hơn vào mình, nó lao như điên. Vô tình, sợi cước trở thành lưỡi kéo sắc và khỏe vô cùng cắt đứt hẳn hai ngón tay bố tôi. Bố tôi kêu thét lên, ngã vật xuống. Sợi cước tuột khỏi tay ông và biến mất vào lòng đầm.
 Những người đàn ông đưa bố tôi về nhà. Bà tôi vội giã cây lá dấu đắp vào vết thương cho bố tôi. Từ đấy bàn tay bố tôi mang tật. Nhưng bố tôi và những người đàn ông xóm trại vẫn không hề từ bỏ khát vọng bắt được con cá. Bố tôi nghĩ đến con cá là nghĩ đến mối thù hận và nghĩ đến một viên ngọc nào đấy trong bụng cá, mà nhờ nó có thể thay đổi cuộc sống nghèo khó của gia đình tôi. Ông Bương nghĩ đến con cá là nghĩ đến một bữa rượu túy lúy với lòng cá. Những người khác nghĩ đến con cá như là một con quỷ mang theo những điều dữ. Còn chúng tôi, lũ trẻ xóm trại mỗi lần nghe nói đến con cá là trong ký ức tơ non của chúng tôi lại hiện lên hình ảnh một đêm trăng với cột nước rực rỡ kỳ ảo khi con cá lướt trên mặt đầm, cùng với sự bí mật đầy thổn thức của ngôi chùa và vị sư già dưới đáy đầm nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét