Chúng tôi dậy sớm hơn
mọi ngày. Hai anh em tôi chạy ra sân. Cả xóm trại đã í ới những tiếng đàn ông
gọi nhau. Họ đang khiêng thuyền lên mặt đê để đi xuống đầm nước. Lũ trẻ con xóm
trại như được thông báo trước, cũng kéo nhau lên mặt đê. Cả đầm Vực im phăng
phắc trong buổi sớm mùa hạ.
Những chiếc
thuyền nan đã được hạ xuống nước. Trên mỗi chiếc thuyền lưới đã chất đầy. Tiếng
chèo khỏa nước, người thúc nhau thả lưới làm náo động cả vùng đầm. Những người
đàn ông xóm trại chia làm bốn nhóm thả lưới thành một vòng tròn rộng bao bọc
lấy lòng đầm. Tiếng gõ vào mạn thuyền đồng loạt vang lên. Tiếng động và lưới
quét làm cho lũ cá mè nhảy lao xao. Vòng khép của lưới mỗi lúc một thu nhỏ lại.
Ở phía bờ đầm sát
chân đê, lũ trẻ chúng tôi đứng tụm vào nhau. Thằng Mên đứng bên cạnh tôi thì
thầm:
- Người ta sẽ bắt
được con cá anh nhỉ?
Một đứa trẻ lên
tiếng thách thức:
- Đố mà bắt được
nó. Cá thần chứ có phải thường đâu.
Một đứa khác hỏi:
- Ai bảo mày là
cá thần?
- Bà thằng Mên
bảo thế. Bà nó bảo ở đáy đầm có một bà sư vẫn sống coi chùa.
- Chùa thì có. Bà
tao cũng bảo thế. Nhưng sư thì làm sao mà sống được dưới nước.
Thằng Mên vội
nói:
- Bà sư có phép
đấy.
Một đứa trẻ hỏi:
- Thế sư và cá
thần, ai giỏi hơn?
- Sư phải giỏi
hơn chứ
Đứa trẻ kia cãi
lại:
- Làm sao mà mày
biết được?
- Người thì phải
giỏi hơn. Thế mày có giỏi hơn con dế của mày không?
Cuộc cãi nhau của
bọn trẻ chúng tôi chợt im bặt khi những người săn cá đồng loạt kêu lên. Ở giữa
vòng lưới nổi lên cái đầu con cá như một cái chum sành đựng thóc. Rồi con cá
lại từ từ chìm xuống. Tiếng hò hét, tiếng gõ vào mạn thuyền vang lên dồn dập.
Vòng lưới dày đặc rùng rùng thu nhỏ lại.
- Kéo lưới!
Lão Bương gào lên
ra lệnh. Tất cả đàn ông trên các con thuyền đồng loạt kéo lưới, lũ trẻ chúng
tôi như nín thở. Nhưng tay lưới vẫn thấy nhẹ. Khi lưới được kéo lên gần hết thì
họ thấy lập lờ trong lòng lưới một vật gì đó dài và đen như một khúc gỗ.
Một người đàn ông
kêu lên:
- Cẩn thận nó lại
giả vờ chết đấy!
Nhưng cái vật dài
và đen kia không phải con cá mà là một bức tượng phật rêu phủ đầy.
- Phật dưới chùa
đấy. - Bố tôi nói to.
- Mang lên bờ đi.
- Mang làm gì cho
tốn công, vứt lại xuống đầm ấy.
Lúc đó lão Bương
đã áp thuyền sát bức tượng và nói:
- Cho tớ mang về
làm củi đun.
Nói xong lão cầm
mái chèo gõ vào bức tượng gỗ:
- Tượng gỗ mít
đây mà. Củi này còn đượm chán.
Lão Bương sai hai
anh con trai kéo bức tượng lên thuyền và chèo vào bờ. Lũ trẻ chúng tôi chạy ùa
lại xem bức tượng. Bức tượng như vẫn còn nguyên vẹn và phủ đầy rêu. Chỉ có đôi
mắt tượng là rêu không phủ. Tuy đôi mắt tượng đã mờ đi bởi ngâm dưới nước nhiều
năm, nhưng tôi cảm thấy đôi mắt ấy vẫn nhìn được mọi người.
Những người đàn
ông xóm trại bực bội thu lưới và khiêng thuyền vượt qua bờ đê về nhà. Lũ trẻ
chúng tôi hò nhau chạy lên mặt đê. Chúng tôi sung sướng vì lòng tin của chúng
tôi đã đúng. Con cá đó là con cá thần và không ai có thể bắt được.
Khi hai anh em
tôi về đến nhà thì bà tôi đang ngồi im lặng trên chiếc giường tre. Trên bàn
thờ, ba nén hương sắp tàn.
Tôi bảo bà:
- Bà ơi, bố cháu
và các bác không bắt được con cá.
Bà tôi không nói
gì, chỉ khẽ thở dài.
- Nhưng họ kéo
được tượng phật ở dưới chùa bà ạ.
Thằng Mên khoe.
Nghe vậy, bà tôi
- Phật à?
Tôi nói:
- Cháu nhìn thấy
cả mắt Phật. Nhưng cháu sợ lắm, mắt ông ấy như mắt người thật, cháu thấy như là
chớp chớp.
- Đâu rồi? - Bà
tôi vội hỏi - Ông Phật ấy đâu rồi?
- Ông Bương mang
về nhà rồi. - Tôi thưa. - Ông ấy bảo để làm củi.
- Giời phạt! Giời
phạt!
Bà tôi kêu lên và
đi như chạy sang nhà ông Bương. Hai anh em tôi chạy theo bà.
Hai anh con trai
lão Bương đang phơi lưới ngoài sân. Ở hiên hè, lão Bương ngồi uống trà và hút
thuốc lào. Thấy bà tôi tất tả vào sân, lão Bương:
- Chào cụ, mời cụ
vào xơi nước.
Bà tôi không đáp
lại lời mời của lão mà gắt hỏi:
- Ông để ngài đâu
rồi?
- Ngài nào? A! -
Lão Bương phá lên cười. - Cái khúc gỗ vớt dưới đầm chứ gì. Kia kìa.
Theo tay lão
Bương chỉ, chúng tôi nhận ra bức tượng Phật để nằm ở sát tường bếp. Bà tôi bước
lại bức tượng, giọng bà run rẩy: “Nam mô a di đà phật…”. Đứng sau bà, tôi nhìn
vào đôi mắt phật. Tôi cảm thấy đôi mắt phật chớp chớp.
- Ông cho người
trả lại chùa đi. - Bà tôi nói.
- Ấy thưa cụ,
được khối củi chứ ít à? - Lão Bương lắc lư cái đầu - Chùa ở đâu mà trả, ra bùn
cả chứ còn gì nữa.
Bà tôi nói to:
- Ông cần bao
nhiêu củi tôi đổi cho ông. Tôi mang ngài về, tôi trả lại chùa.
- Ấy, tùy cụ… -
Lão Bương nói, có vẻ tiếc.
Bà tôi nhờ người
mang bức tượng về sân nhà. Bà thắp mấy nén hương trước bức tượng và lầm rầm
khấn.
Đến chiều trời
nổi giông và mưa đổ xuống như trút. Sấm nổ inh tai trên nóc nhà. Khi bữa cơm
tối muộn mằn của các gia đình xóm trại đã xong, trời vẫn mưa dữ dội. Mỗi lần
chớp lóe lên thì bức tượng lại hiện ra uy nghi và như đang giận dữ quát mắng.
Bà tôi đội nón, khoác áo tơi lá đi gọi mấy đứa cháu ngoại của bà đến giúp bà.
Các anh tôi xúm nhau vào khiêng bức tượng. Bà sai tôi xách chiếc đèn bão đi
theo bà.
Đến bờ đầm, bà
sai các anh đặt bức tượng xuống. Bà chắp tay khấn vái một hồi lâu, rồi cho thả
bức tượng phật xuống đầm.
Trên đường trở về
khi lên đến mặt đê bà tôi dừng lại. Bà tôi đứng im lặng trong mưa nhìn xuống
đầm nước tối đen. Một lát sau bà nói:
- Năm xưa đê vỡ ở
chỗ này đây
Khi bà cháu tôi
định quay về thì tôi nhận ra trên mặt đê phía trước có người qua ánh chớp. Tôi
sợ quá kêu lên:
- Bà ơi! Có
người!
- Ai? - Bà tôi
hỏi - Ở đâu?
Tôi chỉ tay về
phía bóng người. Bà tôi cầm lấy đèn bước về phía tay chỉ. Tôi bám chặt sau bà.
Khi đến gần bóng đen, bà tôi giơ cao ngọn đèn. Trong ánh đèn, tôi thấy một
người khoác chiếc áo tơi lá, đội mũ lá, đứng quay về phía đầm Vực. Bà tôi lên
tiếng.
- Ai kia? Ma hay
người?
Người đó quay lại
và khẽ nói:
- Tôi đây. Tôi là
Bộc đây mà.
- Ông Bộc! - Bà
tôi kêu khẽ - Mưa gió ông ra đây làm gì?
- Tôi… tôi... -
Ông Bộc ấp úng - Tôi định đi soi cá.
Thấy nói đi soi
cá, tôi vội nói:
- Cho cháu đi với,
ông Bộc nhé.
Ông Bộc cười:
- Cháu không đi
được đâu, có ma đấy- Cháu không sợ.
- Bạo nhỉ? - Ông
Bộc nói. - Thôi để hôm khác.
Bà tôi xách đèn
bước lại gần ông Bộc. Tôi thấy ông Bộc lúng túng quay đi.
- Về đi ông. - Bà
tôi nói khẽ.
Ông Bộc im lặng.
Một lát sau ông nói:
- Hai bà cháu về
trước đi.
Tôi nghe thấy bà
tôi khẽ thở dài. Rồi bà bảo tôi:
- Về đi cháu.
Hai bà cháu tôi
bước đi. Được một đoạn, tôi quay lại. Trong ánh chớp của mưa đêm, tôi thấy ông
Bộc đứng đó như một cây dứa dại khô.
Đến khuya thì mưa
đột ngột tạnh hẳn. Mây tan và trăng lên. Tôi tỉnh giấc thấy bà tôi đang ngồi
ngoài hiên nhà. Tôi rón rén chui ra khỏi màn đến bên bà.
- Sao bà không
ngủ? - Tôi thì thầm hỏi.
- Bà nghe thấy
tiếng mõ và tiếng tụng kinh.
Nghe bà nói, tôi
ngồi sát vào bà hơn. Người bà tôi sực mùi trầu quế. Hai bà cháu ngồi im lặng.
Đêm im ắng và xa xăm vô cùng.
Chợt
- Cháu có nghe
thấy gì không?
- Dạ, không.
- Tiếng kêu i i
đấy, nghe thấy không?
Tôi bắt đầu cảm
thấy sợ. Tôi như nín thở và dỏng tai lên. Đêm vẫn im phăng phắc, ánh trăng lành
lạnh vẫn chảy loang trên những vòm lá trong vườn. Bất chợt từ trong đêm, tôi
nghe thấy tiếng “i i” kéo dài từ đâu đó vọng về.
- Cháu nghe thấy…
- Giọng tôi tắc lại. Bà tôi nói nhỏ.
- Tiếng cá thần
đấy.
- Cá thần hở bà?
Vì sao nó lại kêu?
Bà tôi nói:
- Chắc có chuyện
buồn.
- Cá thần cũng
biết buồn hở bà? - Tôi hỏi lại.
Bà ôm tôi vào
lòng. Mùi trầu quế của bà sực nức làm tôi đỡ sợ. Bà nói:
- Thần cũng buồn
cháu ạ. Có khi thần còn buồn hơn cả người. Vì thần biết nhiều chuyện hơn người.
Tiếng “i i” lại
vọng về và như dài hơn lần trước. Chưa bao giờ, đêm lại huyền bí như bây giờ.
Lúc ấy, tôi chợt lo lắng cho bố tôi. Tôi hỏi:
- Bà ơi, cá thần
có trả thù những người bắt nó không?
- Có. Nếu ai đó
cứ cố tìm cách giết nó. Nhưng cá thần sẽ tha thứ. Thần dễ tha thứ, cháu ạ.
Nghe bà nói vậy,
tôi không còn thấy sợ hãi chút gì nữa. Tôi muốn chạy ra đầm nước để nói với cá
thần hãy tha thứ cho bố tôi và những người đàn ông khác của xóm trại.
- Đi ngủ đi cháu.
- Bà tôi nói và dắt tôi vào giường.
Tôi nằm xuống,
không sao ngủ được. Thằng Mên em tôi đã ngủ say từ tối. Thi thoảng nó lại cười
khanh khách trong mơ.
Thấy tôi chưa
ngủ, bà bảo:
- Ngủ đi cháu.
Tôi xoay về phía
bà, hỏi:
- Bà ơi, ông Bộc
ra đê làm gì thế?
Bà tôi nằm im
lặng, lâu sau bà mới nói khẽ:
- Ông ấy cũng
muốn bắt con cá. Hơn năm chục năm nay rồi, ông ấy tìm cách bắt con cá. Tội
nghiệp.
Nghe bà nói, tôi
vội ngồi dậy.
- Sao ông ấy lại
tìm cách bắt con cá? Để làm gì hở bà?
Bà tôi lại thở
dài:
- Bà không biết.
Cả làng cũng không ai biết. Mọi người bảo ông ấy lẩn thẩn. Nhưng bà thì không
nghĩ thế. Tội nghiệp. Ngày trước, ông ấy là người có tội.
- Ông ấy có tội
hở bà? Ông Bộc có tội gì hở bà?
- Bà nói ra cháu
cũng chưa hiểu được. Thôi ngủ đi cháu. Bà thì không bao giờ tin ông Bộc có tội.
Tôi nằm xuống.
Nhưng không sao ngủ được. Tôi nghĩ về ông Bộc, và tự hỏi: “Ông Bộc cũng có tội
hay sao?”.
Ông Bộc là người
lớn tuổi thân thiết của anh em tôi và lũ trẻ xóm trại.
Ông sống độc thân
trong ngôi nhà nhỏ ở cuối xóm. Bà tôi bảo ông chưa bao giờ lấy vợ. Sau ngày hòa
bình 1954, ông bỏ làng đi đâu không biết. Gần mười năm sau ông trở về cất một
túp nhà lá ở cuối xóm, làm nghề đánh cá sông và câu cá đầm Vực nuôi thân.
Buổi sớm, tôi và
thằng Mên mò đến nhà ông Bộc.
Vừa thấy hai anh
em tôi ở đầu ngõ, ông đã lên tiếng:
- Vào đây. Ông
vừa đi bắt ba ba về. Vào đâyo xem này.
Hai anh em tôi
xúm quanh chiếc vại sành lớn đặt ở cạnh bể nước. Trong vại có đến năm, sáu con
ba ba rất lớn. Lâu lắm rồi ông Bộc mới lại đi bắt ba ba. Gần năm nay, ông yếu
hẳn và nhiều lúc cảm thấy sợ nước. Những con ba ba to gần bằng cái mũ cắt nằm
chồng lên nhau im thin thít. Thi thoảng chúng mới thò cái đầu ra khỏi mai,
ngước đôi mắt bé tí nhìn chúng tôi. Tôi thấy những con ba ba thật hiền lành. Bà
tôi biết chúng tôi hay sang nhà ông Bộc xem ba ba thì dặn: “Hai cháu đừng có
thò tay vào mà ba ba nó cắn. Nó mà cắn thì chẳng làm sao gỡ ra được. Chỉ trừ
khi có sấm”. Chúng tôi hỏi bà: “Ba ba sợ sấm hả bà?”. Bà bảo: “Ừ”. Chúng tôi
lại hỏi: “Tại sao nó lại sợ mỗi sấm?”. Bà tôi nghiêm giọng: “Vì sấm là ông
giời. Nó chỉ sợ giời thôi”. “Thế không có sấm thì làm sao?”. Bà tôi cười: “Thì
người ta kéo cối xay lúa. Nó nghe tưởng là tiếng của giời, nó nhả ra”.
Ông Bộc là người
có tài bắt ba ba nổi tiếng cả một vùng. Bố ông xưa kia cũng chỉ sống bằng nghề
bắt ba ba và câu cá quả. Vào mùa hạ, ông Bộc dậy rất sớm ra đầm Vực. Ông men
theo bờ đầm và quan sát trên mặt nước. Ba ba khi bơi dưới mặt bùn nhả tăm rất
nhiều. Nhìn tăm, ông Bộc biết được tăm nào là tăm ba ba và to hay nhỏ. Cứ thế
ông lặn xuống nước, chỉ một loáng ông đã lôi được con ba ba lên bờ. Lũ trẻ xóm
trại cũng đã nhiều lần được ông cho đi theo để xem ông bắt ba ba.
Ông Bộc nuôi ba
ba trong những chiếc vại sành. Ông bảo như thế ba ba mới không trốn đi được.
Ông kể với chúng tôi ba ba là giống rất khỏe. Thuở bố ông Bộc còn sống, bố ông
bắt được một con ba ba lớn. Ông cụ phải dùng cối đá để úp con ba ba đó. Sáng
sau tỉnh dậy, không thấy cái cối đá đâu nữa. Ông cụ chạy đi tìm thì thấy cái
cối đá từ góc sân đã được chuyển ra cửa ngõ. Hóa ra con ba ba cứ vừa bò trong
cái cối đá vừa đẩy cái cối đá đi suốt đêm.
Cứ đến phiên chợ
Đình hay chợ Thá, ông Bộc lại bắt lũ ba ba nhốt vào hai cái lồng sắt mang bán
và lúc nào cũng vậy, sau buổi chợ chúng tôi kéo đến nhà ông để nhận quà. Ông
không bao giờ quên mua quà cho chúng tôi. Món quà mà tôi thích nhất là những
ông tướng thời xưa mặt đỏ, râu dài, tay cầm gươm uy nghi, làm bằng bột nếp pha
màu. Tôi chỉ từ giã những ông tướng bột uy nghi kia khi nào các ông đã bị mốc
xanh, mốc vàng phủ kín cả mặt mũi, mũ áo mà thôi
Những năm trước
kia đầm Vực ba ba nhiều vô kể. Có những ngày, ba ba lên bờ phơi nắng. Chúng nằm
san sát những mô đất quanh bờ đầm. Hồi đó, chúng không sợ người như bây giờ. Có
những bác thợ cày lên bờ đầm ngồi nghỉ. Bác thợ cày nhìn thấy một tảng đá mốc
thếch bèn ngồi lên ung dung hút thuốc lào. Mãi lâu sau, thấy tảng đá mình đang
ngồi cứ nhúc nhích, nhúc nhích, bác thợ cày thấy lạ lật lên xem thử. Một cái bụng
ba ba vàng ươm phơi ra.
Bây giờ ba ba ít
đi nhiều. Người xóm trại chẳng mấy khi thấy chúng lên bờ. Chỉ có ông Bộc là
biết chúng ở đâu.
Trêu chọc lũ ba
ba trong vại sành chán chúng tôi rủ nhau vào nhà. Trong ngôi nhà nhỏ có một cái
cửa ra vào duy nhất, ông Bộc đang ngồi lặng im trên chiếc phản gỗ. Tôi chợt nhớ
lại đêm qua ông đứng trên đê trong đêm mưa gió. Tôi nhớ đến lời bà tôi nói về
ông. “Ông Bộc có tội ư? Ông ấy có tội gì nhỉ?”. Câu hỏi ấy vang lên trong tâm
hồn trẻ thơ của tôi.
Thấy chúng tôi
bước vào, ông nói khẽ:
-Hai đứa vào đây.
Ông phần chuối cho các cháu đây, ăn đi.
Thằng Mên tham
ăn, vặt ngay một quả ăn vội vàng. Tôi huých nó một cái. Nó kêu lên:
- Ơ! Sao anh đánh
em?
Tôi nói:
- Mày tham lắm.
Chưa mời ai đã ăn.
Thấy vậy, ông Bộc
cười:
- Cứ ăn đi, ăn
thoải mái. Ngoài vườn nhà ông còn mấy buồng đang ín.
Tôi cầm quả chuối
ông Bộc đưa, im lặng nhìn ông. Nhà ông ẩm thấp và nhợt nhạt ánh sáng. Gương mặt
ông Bộc như đang nổi chìm trong ánh sáng chen những khoảng tối trong ngôi nhà.
Lúc đó, tôi muốn hỏi ông Bộc: “Ông ơi! Người ta bảo ông có tội, có phải thế không
ông?”. Nhưng tôi không làm sao nói được.
Chỉ một loáng,
thằng Mên đã ăn hết ba quả chuối. Nó nằm xoài trên phản, cúi đầu xuống gầm
phản, nói:
Ông Bộc cười khà
khà:
- Chúng nó đi
chơi cả rồi. Chưa đến bữa mà.
Lính của ông Bộc
là lũ cóc dưới gầm phản nhà ông. Ngôi nhà của ông ít ánh sáng và thường ẩm
thấp. Quanh nhà lại mọc um tùm các loại cây nên cóc rất nhiều.
Một lần đi câu cá
về, hai ống quần ông bám đầy cỏ may. Chúng tôi bảo ông để chúng tôi nhặt giúp.
Ông xua tay bảo: “Để ông sai lính của ông nó làm”. Chúng tôi chẳng hiểu ông nói
gì. “Lính nào hở ông?”. Chúng tôi hỏi. Ông cười: “Cứ đợi đấy, đợi đấy”. Nói
xong ông vứt cái quần bám đầy cỏ may vào gầm phản. Lâu sau, ông bảo chúng tôi
thử nhìn xuống gầm phản xem sao. Chúng tôi cúi rạp mình nhìn xuống và trố mắt
ngạc nhiên khi thấy một bầy cóc lớn bé đang thi nhau đớp những bông cỏ may bám
vào hai ống quần ông. Chúng làm việc một cách cần mẫn và tự giác, không thèm để
ý đến chúng tôi.
Cũng từ đó, cứ
mỗi lần lên đê chơi là chúng tôi lại mang những cái quần bám đầy hoa cỏ may đến
nhà ông để nhờ lũ lính của ông nhặt giúp.
Hai anh em tôi
tha thẩn ở chơi với ông đến gần trưa, cho đến khi mẹ tôi gọi chúng tôi về ăn
cơm. Trước khi về, ông Bộc ghé tai tôi nói nhỏ: “Chiều lại đây ông cho theo
sông gỡ vẹ cá”. Tôi mừng rơ “dạ” thật to và chạy một mạch về nhà.
Vào lúc ngang
chiều tôi trốn thằng Mên sang nhà ông Bộc. Hai ông cháu tôi xuống sông. Ông Bộc
chỉ có một chiếc thuyền nan nhỏ do ông tự làm. Sông mới vào hạ nên nước chưa
lớn lắm để vẫn có thể thả vẹ được. Hai bờ sông, ngô bắt đầu đang bạc râu. Chúng
tôi trèo lên thuyền và bơi đi. Ông Bộc thả khoảng hai chục vẹ cá chép. Vẹ là
một loại bẫy cá chép. Đó là một cái lồng bằng tre cứng trông giống cái lồng gà.
Vẹ có một cái cửa để cho những con cá chép to có thể chui vào. Trong vẹ có một
hòn đá để giữ vẹ và mồi nhử được bọc trong một cái túi vải để chống nước cuốn
mất. Vẹ được buộc vào một cây sào nhỏ cắm xuống lòng sông để đánh dấu. Vẹ thả
từ chiều hôm trước đến chiều hôm sau thì cất lên.
Con thuyền trôi
nhẹ nhàng trên mặt sông rộng. Nhà tôi có một chiếc thuyền lớn hơn thuyền nhà
ông Bộc nhiều và được đóng bằng gỗ. Nhưng chẳng mấy khi bố tôi cho chúng tôi
theo thuyền. Vừa bơi thuyền đến nơi thả vẹ, ông Bộc vừa nói:
- Chỉ ít bữa nữa
là không thả được vẹ. Mưa nhiều nước sông cao và đục thì cá chép không ăn vẹ
nữa.
Lúc này, tôi nhìn
ông Bộc khác vô cùng với khi ông ngồi trong ánh sáng nhợt nhạt của ngôi nhà.
Tôi thấy ông mỉm cười và khe khẽ hát một bài gì đó.
Khi đến bãi thả
vẹ, ông bảo tôi:
- Ông sẽ cho cháu
nhấc một vẹ.
Những cái vẹ lần
lượt được kéo lên, nhưng vẫn không có cái nào có cá. Tôi hỏi ông:
- Hay là cá vào
lại ra rồi, ông?
Ông Bộc
- Vẹ ông nhạy
lắm, vào là hết đường ra. Bắt đầu có mưa rồi, cá chép ít ăn vẹ. Phải đợi sang
hẳn thu ông mới thả.
Đến một cái vẹ
khác, ông bảo tôi:
- Cháu kéo cái vẹ
này lên đi. Cẩn thận, cá to đấy.
Tôi ngồi sát mép
thuyền. Tôi thấy hồi hộp. Tôi từ từ kéo cái dây buộc vẹ lên. Một lúc sau tôi
thấy dây buộc vẹ rung mạnh. Tôi kêu khẽ:
- Có cá rồi ông
ơi!
Ông Bộc cười:
- Có chứ.
Cuối cùng, vẹ đã
hiện ra trên mặt nước. Con cá chép trong vẹ quẫy dữ dội tìm lối thoát. Tôi sung
sướng kéo chiếc vẹ vào lòng thuyền. Con chép quẫy nghiêng ngả chiếc vẹ. Một con
cá chép sông rất to, đôi râu đỏ chảy dài hai bên miệng, những chiếc vảy to
trông như bộ giáp vàng.
Chúng tôi nhấc
được thêm hai con cá nữa. Mỗi chiếc vẹ bao giờ cũng chỉ bẫy được một con chép
mà thôi.
Lúc này, mặt trời
đã xuống sát dãy núi phía tây. Mặt sông tím lại. Những ngọn gió mỏng bắt đầu
lùa trên mặt nước. Ông Bộc khỏa nhẹ mái chèo đưa thuyền về bến. Tôi ngồi ở mũi
thuyền nhìn ông. Trông ông bé bỏng và yếu đuối vô cùng. Bỗng có tiếng cá quẫy
rất mạnh ở phía sau. Tôi thấy ông Bộc giật mình. Ông ngừng tay khỏa chèo và
quay lại:
- Con cá. - Ông
Bộc khẽ
Chiếc thuyền từ
từ quay ngang. Ông Bộc vẫn ngồi im lặng nhìn những vòng sóng lớn đang lan rộng
trên mặt sông đã tan vào bóng tối. Lúc đó tôi lại nhớ đến lời bà tôi. Và tôi tự
hỏi, ông cần con cá ở đầm Vực làm gì mà hơn năm mươi năm nay ông theo đuổi nó.
Khi những vòng
sóng đã mất hút, ông Bộc khẽ thở dài và quậy chèo bơi thuyền đi.
- Ông ơi! Sao ông
muốn bắt con cá thần ở đầm Vực?
Tôi buột miệng
hỏi ngay. Nghe tôi hỏi, ông cũng lại khẽ giật mình và ngừng tay chèo. Ông nhìn
tôi rất lâu rồi hỏi:
- Ai nói cho cháu
điều này? Bà cháu phải không?
- Vâng - Tôi đáp.
- Đúng vậy cháu ạ
- Ông Bộc nói rất chậm - Ông muốn bắt được con cá ấy. Con cá ấy đã cứu ông,
đồng thời cũng giết ông.
-Nó giết ông? -
Tôi nói như kêu. - Cháu không hiểu.
Ông Bộc gác mái
chèo lên. Con thuyền chầm chậm trôi theo dòng nước. Ông Bộc và tôi ngồi im lặng
trong lòng chiếc thuyền nan nhỏ giữa sông. Chợt ông hỏi tôi:
- Cháu có nghĩ
ông là người có tội không?
Là cậu bé mười
hai tuổi, tôi vô cùng lúng túng trước câu hỏi của ông.
- Bà cháu bảo
người ta cho ông là người có tội. - Tôi nói bà cháu không tin.
- Bà cháu không
tin thật không?
Ông hỏi và nhìn
về phía tôi chờ đợi.
- Bà cháu không
tin.
Sau câu nói đầy
quả quyết của tôi, ông Bộc bỗng nấc lên. Ông khóc! Tôi chưa bao giờ nghĩ là ông
khóc, và tôi hoảng hốt. Trong lòng thuyền nhỏ giữa dòng sông rộng, tiếng khóc
của ông cô đơn. Lát sau ông thôi khóc và đưa ống tay áo quệt nước mắt.
- Ông không có
tội. - Ông nói, giọng đau khổ. - Có phải thế không cháu?
- Vâng. - Tôi
đáp.
- Đã hơn năm mươi
năm nay rồi, nhiều người nghĩ là ông có tội. Chỉ có một người biết rõ là ông
không có tội…
- Ai vậy ông? -
Tôi vội hỏi.
- Đó chính là con
cá ở đầm Vực.
- Con cá thần ư?
- Tôi kêu lên.
- Nó chỉ là một
con cá sống lâu năm. Nó không phải là cá thần. Con cá ấy chỉ có một mắt.
- Tại sao con cá
ấy lại biết ông không có tội?
- Vì nó cất giấu
một vật, và vì vật ấy ông trở thành k
- Ông kể cho cháu
nghe đi. - Tôi năn nỉ - Vật ấy là cái gì?
- Ông có kể, cháu
cũng chưa hiểu được đâu. - Ông nói - Khi nào cháu lớn ông sẽ nói cho cháu nghe.
Thôi ông cháu mình về đi, kẻo bà cháu mong.
Nói xong, ông
khỏa mạnh mái chèo. Con thuyền kẻ một đường thẳng về bến làng.
Lên bờ, ông Bộc
bắt con cá chép lớn nhất đưa tôi mang về biếu bà. Tôi lặng lẽ về nhà. Bà tôi
đang nấu cơm trong bếp. Tôi đưa con cá cho bà và nói:
- Ông Bộc là
người không có tội bà ạ.
Bà ngước mắt nhìn
tôi, im lặng. Và khi bà cúi xuống, tôi nghe thấy tiếng bà thở dài.
Buổi tối sau bữa
cơm, tôi đi lững thững lên đê. Tôi thấy người lớn sao toàn chuyện khó hiểu. Tại
sao con cá thần đầm Vực lại giữ cái điều bí mật của ông Bộc? Tại sao ông lại
khóc? Tại sao bà tôi lại thở dài? Tôi không hiểu được.
Tôi ngồi trên mặt
đê nhìn xuống mặt đầm Vực mênh mông đầy bí ẩn. Đom đóm từ các lùm cây ven bờ
đầm và dưới chân đê đang ùa ra. Tiếng nhái và côn trùng kêu ran ran. Hình như
tôi nghe thấy tiếng con cá thở rất gần và nước đầm Vực xao động. Rồi đột nhiên,
một tiếng đập nước rất lớn vang lên. Mặc dù trời tối, nhưng tôi vẫn nhìn thấy
một cột nước trắng dựng lên và đổ ào xuống mặt đầm. Tôi nín thở, người sởn da
gà. Rồi con cá bơi lướt trên mặt đầm như một chiếc thuyền gắn máy.
Chỉ một lúc sau,
mặt đầm trở lại phăng phắc. Tôi nghe thấy tiếng “i i” từ mặt nước vọng lên.
Bỗng có tiếng người sau tôi:
- đấy ư?
Tôi thót mình
quay lại và nhận ra ông Bộc.
- Nó đấy, con cá
đấy. - Giọng ông Bộc thì thào. - Cháu có tin ông sẽ bắt được nó không?
Tôi không trả lời
ông Bộc. Tôi không tin ông bắt được con cá. Những người đàn ông xóm trại với đủ
dụng cụ đánh bắt mà cũng không làm gì nổi nó, huống hồ ông Bộc già yếu và bé
nhỏ thế kia. Tôi chỉ thấy thương ông, thương luôn cả nỗi băn khoăn về con cá
của ông.
- Ông sẽ bắt được
nó.
Ông Bộc lại thì
thào. Rồi ông cười. Tiếng cười như chỉ đủ để ông nghe thấy. Tôi cảm thấy sợ.
Đôi mắt ông trong đêm như chợt chói lên.
- Ông sẽ bắt được
nó.
Rồi ông lại cười
một mình.
Nghe tiếng tôi,
ông Bộc chợt tỉnh. Ông lập cập nắm lấy tay tôi. Ông lầm lũi dắt tôi xuống chân
đê. Đưa tôi về đến ngõ thì ông quay lại. Tôi thấy bóng ông lập cập trên đường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét