Chúng tôi có ngờ đâu đó
là bữa ăn cuối cùng của đời ông Bộc. Ngày hôm sau chúng tôi đến thăm ông trên
đường đi học về. Ông nằm mê man, thoi thóp thở. Tôi chạy về gọi mẹ tôi. Mẹ tôi
tất tưởi sang thăm ông. Mẹ tôi lay gọi mãi ông mới từ từ mở mắt. Đôi mắt ông
dài d
- Ông ơi, ông
thấy trong người thế nào? - Mẹ tôi hỏi.
Ông Bộc nhìn mẹ
tôi và như cố nuốt một vật gì đó mắc vào trong cổ họng.
- Ông thấy trong
người thế nào? - Mẹ tôi hỏi lại.
- Ch…ê…ết! - Ông
Bộc thều thào.
- Ông đừng nói
dại! - Mẹ tôi nói. - Ông phải sống để vui với bà con xóm trại.
- Chết! - Ông lại
thều thào.
Mẹ tôi lấy nước
nóng rửa mặt cho ông Bộc. Rồi mẹ tôi kéo tôi ra hiên nhà dặn:
- Con ở đây với
ông Bộc. Để mẹ đi báo cho mấy ông bà trong xóm. Chắc ông ấy không qua khỏi đêm
nay đâu.
Nói xong, mẹ tôi
tất tưởi đi. Tôi đến bên ông Bộc khẽ gọi:
- Ông Bộc ơi, ông
Bộc!
Ông Bộc mở mắt
nhìn tôi rất lâu rồi nói:
- Mon… đấy… à…
Tôi vội gật đầu:
- Vâng, vâng, cháu đâ
- Ông không… sống… được n-ữ-a…
Ông Bộc nói từng tiếng một nặng nhọc.
- Ông ơi! Cháu nhìn thấy con cá một mắt ở đầm Vực tối qua,
ông ạ.
- Một… mắt… à? - Ông Bộc hỏi.
Tôi vội gật đầu.
Mẹ tôi đã trở lại cùng một vài người già xóm trại. Họ gọi
ông Bộc và hỏi ông có nhận ra ai không. Ông Bộc đã thiếp đi. Ông nằm bất động.
Mẹ tôi và mọi người kéo nhau bàn chuyện hậu sự cho ông
Bộc. Mọi người quả quyết chỉ đến giữa đêm là ông Bộc sẽ trút hơi thở cuối cùng.
Mẹ tôi được sai đi gọi thợ mộc trong làng đến để đóng áo quan cho ông Bộc. Cuối
chiều thì hai ông thợ mộc trong làng đến. Họ lôi từ góc nhà ra mấy tấm gỗ mà
ông Bộc đã chuẩn bị từ mấy năm nay.
Buổi tối, đèn đóm thắp sáng trưng ở sân nhà ông Bộc.
Làng xóm đến thăm ông Bộc rất đông. Mẹ tôi tất bật đun
nước. Lũ trẻ xóm trại chúng tôi quanh quẩn trước nơi ông Bộc nằm. Đến khuya thì
cỗ áo quan được đóng xong. Người ta khiêng cỗ áo quan lên hiên nhà và quét sơn
đỏ. Tôi nhìn cỗ áo quan của ông Bộc và rùng mình nhớ lại cỗ áo quan nhỏ mà bố
tôi đóng cho tôi năm ngoái.
Đến khuya mọi người về hết. Chỉ còn lại một vài người ở
lại trông coi ông Bộc. Họ trải chiếu ra hiên nhà ngồi uống rượu và đánh tổ tôm.
Mẹ tôi thu dọn nhà cửa cho ông Bộc xong rồi đưa tôi về nhà. Tôi nắm chặt tay mẹ
tôi đi qua những lối xóm tối om. Và ngoài tiếng xào xạc của lá cây, tôi lại
nghe từ phía bên kia con đê vọng v con cá.
Sáng hôm sau tỉnh dậy tôi thấy mẹ tôi đang chuẩn bị gánh
rau cải ra chợ bán. Tôi đến bên mẹ tôi, hỏi:
- Ông Bộc có làm sao không mẹ?
Mẹ nói:
- Sáng nay lại thấy tinh tỉnh. May thì qua khỏi. Ở nhà
trông nhà. Mẹ đi chợ mua lạng thịt tươi nấu cháo cho ông cụ.
Gần trưa mẹ tôi đi chợ về. Tôi theo mẹ sang nhà ông Bộc.
Ông bỗng tỉnh táo lạ thường. Thấy tôi đến, ông ra hiệu cho tôi lại gần. Tôi
thấy đôi mắt ông tỉnh hơn. Tôi ngồi xuống bên ông, nói:
- Mẹ cháu đang nấu cháo thịt cho ông dưới bếp.
Ông không nói gì cứ nhìn tôi. Một lúc sau ông hỏi:
- Cháu gặp con cá à?
- Vâng! - Tôi đáp.
Tôi thấy ánh mắt ông chợt sáng lên.
- Ông không thể sống được nữa. Ông nhờ cháu một việc…
- Việc gì hở ông?
- Sau khi ông chết, cháu giúp ông bắt cho được con cá một
mắt và mổ bụng nó ra, lấy cái ấy, mang lên huyện
- Vâng! Vâng! - Tôi đáp - Cháu sẽ bắt. Cháu sẽ bắt.
- Cháu phải hứa với ông là bắt được con cá ấy, cháu nhé.
- Ông nói. - Nếu không ông chết không nhắm mắt được.
Tôi thấy ông tỉnh táo và rất nhanh, nhanh hơn cả khi còn
khỏe mạnh. Tôi cầm lấy bàn tay khô đét của ông và nói:
- Cháu hứa, cháu hứa, ông ạ. Cháu sẽ bắt được con cá ấy.
Cháu hứa với ông.
Những ngón tay ông bỗng khỏe lạ lùng quặp chặt bàn tay bé
bỏng của tôi. Đôi mắt ông mở to lạ lùng nhìn tôi. Bỗng đôi mắt ông lạc đi. Ông
nấc lên. Những ngón tay ông từ từ duỗi ra. Tôi hoảng hốt định chạy xuống bếp
gọi mẹ thì mẹ tôi cũng vừa bưng bát cháo bốc hơi nghi ngút bước vào.
- Mẹ ơi! - Tôi kêu lên - Ông Bộc làm sao ấy.
Mẹ tôi đặt bát cháo và chạy đến bên ông Bộc. Mẹ tôi cầm
lấy tay ông vừa lắc vừa gọi:
- Ông ơi, ông. Ông tỉnh lại đi, ông ơi!...
Ông Bộc nằm ngoẹo đầu sang một bên. Khóe miệng ông chảy
một vệt nước dãi.
- Con ơi! - Mẹ tôi gọi tôi và òa khóc. - Ông Bộc mất rồi.
Ông ơi là ông. Sao ông không đợi ăn miếng cháo rồi đi, hở ông. Sao ông vội đi
thế này, ông ơi.
Tôi òa khóc theo mẹ. Nghe tiếng khóc của mẹ con tôi, hàng
xóm vội vã ùa đến. Có ai đẩy tôi ra
- Trẻ con đi ra ngoài kia. Đây không phải chỗ của chúng
mày.
Tôi bước ra ngoài sân. Tôi đứng giữa sân nhìn về phía
chân đê. Ở đó hoa tầm xuân đang bời bời nở. Chưa có năm nào hoa tầm xuân lại nở
nhiều đến thế.
Hình như tất cả trẻ con xóm trại đều đi đưa tang ông Bộc.
Đó là một ngày nắng ấm. Dọc hai bên đường chạy từ chân đê ra khu nghĩa địa của
làng nở đầy hoa tầm xuân. Cả đám tang hầu như không có tiếng khóc. Và đặc biệt
không có điếu văn. Người viết điếu văn của làng không biết viết về ông Bộc như
thế nào. Đội bát âm của làng cũng không đủ. Chỉ có một người thổi kèn và một
người đánh trống. Tiếng kèn đơn điệu như tiếng kèn bằng lá dứa dại mà bọn trẻ
chúng tôi vẫn hay thổi trên đê.
Ông Bộc được chôn vào một góc nghĩa địa. Khi những người
lớn đã về hết, lũ trẻ chúng tôi hò nhau lấy đất cày ở gần đó đắp thêm cho ngôi
mộ của ông Bộc. Sau đó, tôi đến trước mộ bà tôi:
- Bà ơi! - Tôi nói khẽ - Ông Bộc đi theo bà rồi đấy.
Sau đó, tôi đào một ít cây hoa cúc trên mộ bà tôi trồng
vào mộ ông Bộc. Những bông cúc vàng làm ngôi mộ trông ấm hẳn. Tôi ngồi xuống
trước mộ ông Bộc thì thầm:
- Ông Bộc ơi! Cháu hứa sẽ bắt được con cá một mắt cho
ông.
Đêm đó, cả đầm Vực bị khuấy động gần như suốt đêm bởi con
cá. Những người đàn ông xóm trại tụ tập trên mặt đê. Lũ trẻ chúng tôi cũng có
mặt trên đó. Những người đàn ông lại sôi sục bàn nhau bắt con cá. Suốt đêm con
cá quẫy đạp và kêu i i thống thiết.
Sáng hôm sau, những người đàn ông xóm trại m cuộc vây bắt
náo nhiệt trên đầm Vực. Nhưng họ không hề bắt được gì, kể cả một con cá mè. Có
một vài người đã thề không bao giờ nghĩ tới con cá nữa. Còn lão Bương thì chống
gậy đi vẩn vơ quanh bờ đầm suốt buổi chiều.
Cuối chiều, tôi đi ra bờ đầm lẳng lặng ngồi xuống.
Trong hoàng hôn, mặt đầm Vực mờ sương, im phắc. Tôi ngồi
bó gối im lặng. Bỗng tôi giật thót mình nhận ra một vật to lớn, đen thẫm nổi
lên mặt nước phía trước tôi:
- Con cá một mắt!
Tôi thảng thốt kêu lên và quờ tay tìm một vật gì đó để tự
vệ. Con cá nổi lên, im lặng. Tôi nghe thấy tiếng nó thở. Nó lặng lẽ bơi vào sát
bờ nơi tôi ngồi. Con cá hếch cái đầu về phía tôi. Tôi nhìn xoáy vào con cá và
nhận ra nó chỉ có một mắt, to như mắt trâu. Mắt con cá nhìn thẳng vào tôi, tôi
thấy con cá chớp khẽ:
- Mày hãy trả lại cho ông Bộc cái ấy.
Tôi buột miệng nói. Con cá vẫn im lặng và thở phì phò.
- Trả lại đi! - Tôi kêu lên - Trả lại đi!
Tôi không biết lúc đó tôi kêu lên vì căm thù hay hoảng
sợ. Tiếng kêu của tôi dội xuống mặt nước, vang xa.
Sau tiếng kêu của tôi, con cá chớp mắt rồi từ từ lặn
xuống. Tôi bật đứng dậy, tay chân khua khoắng trong không khí và gào lên:
- Trả lại đi! Trả lại đi!
Mặt đầm tối dần dội lại tiếng tôi. Tôi chạy men theo bờ
vừa chạy vừa kêu: “Trả lại đi! Trả lại đi!”. Tôi vừa chạy vừa kêu cho đến khi
mệt lả. Tôi ngồi bệt xuống cỏ ven bờ đầm, thở. Chợt giữa đầm có tiếng quẫy
mạnh. Tôi không nhìn thấy con cá. Tôi chỉ thấy những vòng sóng lan rộng mãi. Và
từ giữa mặt đầm đã sẩm tối, tiếng i i của con cá vọng lại.
Tôi chợt nhớ đến lời bà tôi bảo khi con cá kêu như vậy là
nó buồn. Tôi tự hỏi: Có phải con cá buồn thật không? Và có phải nó buồn vì ông
Bộc đã chết rồi không? Nếu con cá biết buồn về cái chết của ông Bộc thì sao nó
không trả lại cho ông Bộc cái mà ông Bộc đã săn tìm suốt hơn 50 năm nay.
Khi chưa được nghe ông Bộc kể câu chuyện của ông với con
cá một mắt, thì con cá sống trong tôi thiêng liêng và bí ẩn như một con cá
thần. Nhưng khi biết câu chuyện của đời ông Bộc, trong lòng tôi là sự căm thù
và kinh sợ con cá. Tôi thèm khát bắt được con cá và rạch tung bụng nó ra. Tôi
sẽ minh oan được cho ông Bộc. Ý định ấy chưa bao giờ thôi thúc tôi mạnh mẽ đến
như vậy.
Về đến nhà, tôi gọi thằng Mên ra ngõ và bảo:
- Tao với mày phải tìm cách bắt con cá một mắt.
Thằng Mên nói nhỏ:
- Em sợ lắm.
Tôi hỏi:
- Vì sao?
Thằng Mên nói:
- Đấy là cá thần, không bắt được đâu. Bố không bắt được,
ông Bộc không bắt được, anh em mình làm sao mà
Tôi quả quyết:
- Bắt được chứ. Tao hứa với ông Bộc rồi.
Thằng Mên im lặng hồi lâu rồi hỏi:
- Anh lấy cần câu rô để câu con cá một mắt à?
Tôi gắt:
- Ngu ơi là ngu. Cá rô chỉ bằng cái vảy con cá một mắt.
Thằng Mên hỏi:
- Thế anh câu nó bằng cái gì? Hay đào quả bộc phá của lão
Bương lên mà đánh nó.
Tôi quát:
- Tao cấm mày đụng đến quả bộc phá ấy. Tao sẽ có cách.
Thằng Mên lại hỏi:
- Như thế nào hở anh?
Tôi vò đầu:
- Giời ơi! Cái gì mày cũng hỏi. Tao còn phải nghĩ.
Vừa lúc đó, chúng tôi nghe tiếng mẹ gọi về ăn cơm tối.
Trước khi bước vào ân, tôi giữ thằng Mên lại dặn nó:
- Tao cấm mày đụng đến quả bộc phá ấy nhé.
- Em ứ thèm.
Nói xong, nó bỏ chạy vào nhà. Và suốt bữa ăn tôi chỉ nghĩ
đến cách bắt cho được con cá một mắt.
Một mùa hạ lại đến. Cả
xóm trại ran ran tiếng ve sầu. Lũ trẻ xóm trại chúng tôi lang thang từ sớm đến
tối om mới về nhà.
Vào lúc gà gáy
sáng thì có tiếng sấm. Tiếng sấm vọng về từ xa lắc. Những ngọn gió mang hơi mưa
thổi về xóm trại. Buổi sáng thức dậy, tôi thấy mây từ phía núi đùn lên xám đục.
Kiến đỏ từng đàn đông nghịt leo ngược tường nhà. Cóc nhái kêu ran dọc chân đê.
Đến chiều, gió
thổi mạnh. Chúng tôi gọi nhau í ới và chạy lên mặt đê. Sấm bắt đầu nổ vang. Chỉ
ít phút sau, cảnh vật bên kia sông đã biến mất trong mưa. Bọn trẻ chúng tôi reo
hò chạy về nhà. Nhưng vừa xuống đến chân đê thì mưa ập đến.
Mưa đổ xuống mênh
mang. Sấm nổ như không ngớt. Cứ thế, mưa kéo dài đến khi lên đèn thì ngớt.
Tiếng ếch ương kêu uôm uôm trong các vườn chuối.
Ăn cơm xong thì
trời lại mưa. Mưa không to bằng lúc chiều nhưng đều đều, rền rĩ. Bố tôi mặc áo
mư vác vó đi. Những trận mưa đầu mùa như thế này, cá đi ăn rất đông. Những
người đàn ông xóm trại thường đi kéo vó hoặc soi cá suốt đêm.
Ba ngày sau trời
vẫn đổ mưa vào buổi chiều hoặc lúc gà gáy sáng. Nước sông lên cao, ngầu đỏ.
Nước đầm Vực cũng ngầu đỏ như nước sông và dâng lên đến chân đê. Khi nước dâng
lên đến chân đê là cũng vào mùa đi bắt lươn của lũ trẻ xóm trại.
Năm nào cũng vậy
mùa bắt lươn đầm Vực bắt đầu khi nước đầm dâng lên đến chân đê. Những con giun
và côn trùng khác đều bị chết vì ngập nước. Đến đêm nước lặng, từng đàn lươn
lớn bé từ đáy đầm Vực mò lên chân đê để ăn mồi. Bắt lươn chỉ là công việc của
bọn trẻ chúng tôi. Mỗi đứa trẻ có một chiếc đèn pin, một chiếc giỏ và một chiếc
gậy có móc sắt ở đầu. Chúng tôi soi đèn xuống mép nước để phát hiện những con
lươn đang bò đi tìm mồi.
Chúng tôi soi đèn
vào chú lươn định bắt. Những con lươn say mồi không để ý gì đến ánh đèn và cả
tiếng chân người. Chúng tôi dùng cái móc sắt đưa gần vào con lươn rồi hất mạnh
chúng lên triền đê. Động tác rất nhanh làm chú lươn không kịp phản ứng. Chú
lươn bị hất lên triền đê cứ rúc đầu chui vào cỏ. Lúc đó chúng tôi chỉ cần dùng
ngón tay giữa quặp ngang thân chú lươn là nó hết đường chạy.
Lươn ở đầm Vực to
béo lạ thường, da vàng ươm. Đầm Vực rộng và sâu, bởi thế lươn sinh đẻ nhiều mà
ít bị bắt. Dọc mép nước ở chân đê ven đầm Vực lươn bám đặc. Hầu như chúng tôi
hất cái nào cũng được lươn. Vào mùa bắt lươn, có đêm bắt được nhiều, mẹ tôi còn
mang đi bán tận chợ Đình. Tiền bán lươn mỗi mùa đủ mua cho chúng tôi mỗi đứa
một bộ quần áo và sách bút cho năm học mới.
Năm nay mùa mưa
đến sớm. Buổi chiều chúng tôi lên đê xem nước đầm Vực. Nước đầm Vực đã ngập
ngang những bụi dứa dại mọc sát chân đê. Buổi chiều, chúng tôi ăn cơm sớm và
chuẩn bị đầy đủ cho buổi bắt lươn đầu tiên của mùa mưa năm nay.
Trời vừa sập tối
chúng tôi đã lên đê. Trên mặt đê đã lấp lóa ánh đèn của những đứa trẻ xóm trại.
Ở cánh đồng bên kia đầm Vực cũng le lói ánh đèn của những người đi kéo cá. Hầu
hết người l không đi bắt lươn mà chỉ kéo vó. Nước lên, cá từ đầm Vực kéo nhau
vào những ruộng lúa rất nhiều. Có người kéo một đêm được cả tạ cá.
Mưa vẫn rỉ rả.
Đứng trên mặt đê tôi lại nhớ đến ông Bộc. Khi còn sống, bà tôi bảo đêm nào ông
Bộc cũng lên đê một mình và nhìn xuống đầm nước. Chính tôi cũng đã gặp ông Bộc
đứng trên mặt đê một mình trong một đêm mưa như thế này. Ngày ấy, tôi không
hiểu gì. Nhưng bây giờ thì tôi đã hiểu được một phần.
Khi chúng tôi
đang say sưa soi lươn thì từ phía cánh đồng vọng lại tiếng người huyên náo. Rồi
có nhiều người bấm đèn pin chạy về phía chân đê.
Trong những người
đó có bố tôi.
- Bố chạy đi đâu
đấy? - Thằng Mên hỏi.
Bố tôi dừng lại,
thở hổn hển:
- Con cá một mắt
vào đồng rồi. Hai đứa về đi, không bắt lươn nữa.
Bố tôi và những
người đàn ông xóm trại phát hiện con cá một mắt bơi vào đồng. Trước kia, vào
mùa nước, nó cũng đã từ đầm Vực bơi vào. Những người đàn ông xóm trại chạy về
nhà lấy dụng cụ để vây bắt con cá. Cả xóm trại được đánh thức. Những người đàn
ông xóm trại dồn hết ra bờ bên kia cánh đồng của đầm Vực. Đèn đóm sáng trưng.
Cả một đoạn đầm Vực ngập nước liền với cánh đồng được cắm cọc và giăng lưới dày
đặc ba bốn lớp để chặn đường trở về đầm Vực của con cá. Một đám đông tay lăm
lăm cuốc, xẻng, dao, gậy dàn ra như dàn trận. Trên một gò đất cao có cắm một
chiếc cọc treo một ngọn đèn bão, lão Bương tay cầm con dao sáng quắc nhìn mọi
người, nói:
- Thưa anh em.
Con cá một mắt đã vào trong đồng rồi. Nó chỉ còn một đường quay lại đầm Vực là
chỗ này. Đêm nay chúng ta sẽ vây bắt nó. Lực lượng tập trung chính là ở đây.
Nếu thấy nó, tôi hô giết, thì các anh em cứ băm vằm n
Sau đó, từng tốp
người đèn đuốc sáng trưng chia đi các ngả trên cánh đồng để tìm con cá. Bọn trẻ
con xóm trại cũng bỏ việc bắt lươn để kéo đến bờ đầm bên kia xem cuộc vây bắt
con cá một mắt. Mưa vẫn rỉ rả. Tôi đứng lẫn trong mọi người và cầu mong bắt
được con cá. Trước kia, tôi không muốn những người đàn ông xóm trại bắt được
con cá. Nhưng bây giờ thì tôi muốn. Tôi mong tìm thấy cái vật bí ẩn kia trong
bụng con cá. Tôi thương ông Bộc và tôi đã hứa với ông.
Những tốp đi tìm
con cá đã trở về tập trung bên bờ đầm. Họ không thấy tăm hơi con cá đâu cả. Lão
Bương nhìn mọi người phẩy tay nói:
- Đêm hôm thế này
khó nhìn lắm. Bây giờ ta cử người trông coi ở đây. Sớm mai tất cả mọi người hễ
nghe tiếng kẻng là tập trung tại đây.
Một tốp thanh
niên được cử lại bờ đầm canh gác nơi con cá một mắt có thể trở lại. Tôi theo bố
tôi về nhà. Tôi mong trời chóng sáng để ra bờ đầm xem bắt con cá.
Tôi thức giấc bởi
tiếng kẻng. Cả xóm trại nháo nhác tiếng người. Anh em tôi chạy lên đê. Gió sớm
mát rượi. Những người đàn ông xóm trại đã có mặt đông đủ với đủ loại vũ khí để
vây bắt con cá.
Trời đã sáng.
Không khó khăn gì người ta đã phát hiện ra con cá. Con cá lớn quá nên vây lưng
của nó nhô lên khỏi mặt nước. Nó bơi đến đâu nước rẽ ra đến đó.
Lão Bương đứng
trên gò đất cao. Bên cạnh lão là một thanh niên cầm dùi trống. Lão Bương chỉ
tay về phía con cá đang lừ lừ rẽ nước, gào to:
- Tấn công!
Trống bắt đầu nổi
lên. Những người đàn ông xóm trại hò hét và lao về phía con cá. Những chiếc lao
bằng gốc tre được phóng vào con cá. Con cá bị trúng lao. ó quẫy mạnh và lao vun
vút. Một cảnh tượng không thể tin nổi hiện ra. Con cá lao lướt trên mặt nước
như một chiếc xuồng máy. Nước bị xé ra và dựng lên. Sóng đập vào bờ tung lên
như sóng biển. Trống thúc liên hồi. Những người đàn ông điên cuồng tấn công con
cá. Sau một lúc lao điên loạn trên cánh đồng ngập nước, con cá một mắt đã tìm
ra hướng trở lại đầm Vực. Khi con cá đến gần lối thông từ đầm Vực vào cánh đồng
thì những người canh gác đã sẵn sàng phóng lao vào nó. Những người khác tay lăm
lăm lao. Con cá một mắt dừng lại rồi đột nhiên lao thẳng tới. Nhưng những lớp
lưới dày đã cản nó lại. Cùng lúc đó, những cây lao, cuốc, xẻng và dao tới tấp
phóng vào nó. Con cá quẫy mạnh. Nước tung lên mù mịt. Con cá bơi trở lại cánh
đồng. Con cá đã bị nhiều vết thương. Máu của nó loang đỏ trên mặt nước. Những
người đàn ông xóm trại không cho con cá nghỉ lấy sức. Họ tấn công con cá bằng mọi
cách. Sau mỗi lần bị tấn công, con cá lại tìm cách trở lại đầm Vực. Nhưng nó
không phá nổi cái hàng phòng ngự của lưới và người dày đặc.
Lần cuối cùng,
con cá nổi lên. Nó nghếch đầu nhìn về phía mọi người đang la hét và sẵn sàng
băm nát nó. Mọi người đều nhìn thấy đầu con cá to bằng cái chum sành đựng thóc,
con mắt to như mắt trâu. Con cá một mắt từ từ bơi lùi ra xa sau hồi lâu nhìn
những người đàn ông xóm trại đang chặn đường về đầm Vực của nó. Rồi bất chợt nó
đập mạnh đuôi và lao về phía mọi người. Khi đến gần cái tuyến phòng thủ ấy, con
cá tung mình lên. Như một chiếc tàu bay, con cá lao qua đầu mọi người sang bên
đầm Vực. Nó rơi xuống đầm nước. Một cột nước lớn dựng lên cao ngất và đổ xuống
như một trái núi lở. Tất cả những người có mặt ở đó kêu lên kinh hãi. Sau đó,
mọi người như chết đứng.
Suốt mấy ngày
sau, cả xóm trại ngơ ngác. Bố tôi suốt ngày sang nhà lão Bương uống rượu. Những
người đàn ông xóm trại đã thề không bao giờ nghĩ đến chuyện bắt con cá một mắt
nữa. Những người khác cho rằng đó không phải là một con cá, mà đích thị là một
con quỷ. Những người đàn bà xóm trại lo lắng con quỷ một mắt sẽ trả thù những
người săn bắt nó.
Đêm đêm, tôi nằm
trôi trong những nỗi lo âu tản mạn. Cứ chớp mắt tôi lại thấy ông Bộc gọi tôi từ
ngoài cửa sổ mở ra vườn chuối. Ông nài nỉ tôi hãy bắt con cá một mắt để minh
oan cho ông. Ông nói với tôi rằng, lòng yêu quý của tôi đối với ông sẽ giúp tôi
bắt được con cá ấy. Tỉnh khỏi cơn mơ, tôi lại nhớ tới lời hứa với ông Bộc trước
khi ông chết. Những lúc ấy, tôi lại nghe thấy tiếng kêu i i của con cá một mắt
t đầm Vực vọng về rõ và buồn bã hơn lúc nào hết.
Những ngày sau
đó, chiều nào chúng tôi cũng lên đê ngồi hóng gió và nói chuyện về con cá một
mắt biết bay. Trong những cuộc trò chuyện đó, tôi chỉ ngồi im lặng. Cuối cùng
tôi nói với lũ bạn:
- Chúng mình phải
bắt con cá ấy.
Nghe tôi nói vậy,
cả bọn nhao nhao:
- Mày điên rồi
hả. Cả xóm cả làng chẳng bắt được. Thế mà mày lại đòi bắt.
- Nó chỉ quẫy một
cái là mày bay lên giời.
- Nếu thằng Mon
bắt được tao gọi nó bằng bố.
Tôi nhìn lũ bạn:
- Trước khi ông
Bộc chết, ông Bộc nhờ tao bắt con cá một mắt.
Rồi tôi kể cho lũ
bạn xóm trại nghe câu chuyện của ông Bộc. Sau khi tôi kết thúc câu chuyện, lũ
trẻ ngồi im lặng rất lâu.
- Tao cũng nghe
ông tao kể thế - Một đứa lên tiếng.
- Ông Bộc nhờ tất
cả. - Tôi nói - Ông ấy mua quà cho tất cả chúng mày, quên rồi à?
- Nhưng bắt bằng
cách nào? - Một đứa hỏi.
- Tao biết rồi! -
Một đứa khác reo lên. - Chúng mình đào quả bộc phá của lão Bương lên mà đánh
con cá.
Nghe vậy, mấy đứa
khác phản đối:
- Không được đâu.
Không được đâu. Đã thề là không sờ đến quả bộc phá cơ mà.
- Đúng thế! - Tôi
nói - Tao có cách.
- Cách gì?
- Cách gì?
Cả bọn lại ầm ĩ
hỏi.
- Rồi tao sẽ nói
với chúng mày, để tao nghĩ đã. Tối nay lên đê họp bàn. Cấm đứa nào bỏ cuộc đấy.
Sau đó lũ trẻ
chúng tôi giải tán. Thằng Mên chạy theo tôi hỏi:
- Anh Mon, anh
tính bắt con cá bằng cách nào?
- Đã bảo để tao
nghĩ mà lị.
Cả buổi chiều tôi
lẩn thẩn đi dọc chân đê. Tôi cảm thấy mình bỗng lớn hẳn lên.
Năm nay tôi đã
mười bốn tuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét